người
đang theo tôn giáo khác, nếu muốn học Phật pháp thì
có gì trở ngại hay không? Và Muốn tu tập theo Phật
giáo, có cần phải bỏ tôn giáo của mình, chuyển qua đạo
Phật không?
Thưa
quý
vị,
Bất
cứ ai, dù đang theo tôn giáo nào hoặc không theo tôn giáo nào,
mà muốn học Phật pháp, đều không có gì trở ngại cả.
Phật giáo không phải là một tôn giáo mê tín, mà là một
hệ thống giáo dục dựa trên quy luật nhân quả để chuyển
hóa con người từ xấu thành tốt, “không làm điều xấu
ác, siêng làm điều tốt lành”. Sau giai đoạn chuyển
xấu thành tốt, con người trở nên hoàn thiện, thì sẽ có
những thiện quả tạo thành duyên lành cho đương sự bước
vào bước tu tập thứ hai là “tự thanh tịnh tâm ý”,
hoàn toàn rũ bỏ Tham Sân Si, chuyển từ mê lầm sang giác ngộ,
tỉnh thức, giải thoát khỏi vòng sinh tử, khai phóng tâm linh
bất sinh bất diệt.
Nhà
Phật rất hoan nghênh bất cứ ai muốn tìm hiểu Phật pháp
và nghiên cứu Tam Tạng kinh, luật, luận, trong kho tàng kinh
điển của đạo Phật. Có nhiều học giả thâm hiểu giáo
lý nhà Phật, – trong số đó có những người Tây Phương,
– viết sách luận giải về đạo Phật, là những người thuộc
các tôn giáo khác, không phải là Phật tử. Nhiều kinh sách
nhà Phật đã được dịch ra tiếng Anh bởi những học giả
vốn là tín đồ các tôn giáo khác, đọc kinh sách Phật giáo
vì tò mò, hoặc có trường hợp đọc với mục đích tìm
những điểm không ưng ý để chỉ trích. Nhưng sau khi tiến
sâu vào tư tưởng nhà Phật, họ cảm nhận được tinh thần
khai phóng, từ bi, bình đẳng, nên trong lòng họ có sự chuyển
hóa, tăng trưởng thiện cảm đối với đạo Phật. Khởi
đầu là tìm hiểu phần lý thuyết, dần dần họ bước vào
phần thực hành các phương pháp luyện tâm qua thiền quán
Phật giáo, thấy được an lạc. Càng đi sâu vào tư tưởng
uyên áo của đạo Phật, họ càng thấy tâm hồn được tự
tại, giải thoát.
Một
số người tìm tòi nghiên cứu kinh sách nhà Phật không vì
thiện ý, nhưng cuối cùng lại trở thành những tu sĩ đáng
kính, có công lớn trong việc hoằng truyền Phật pháp tại
các quốc gia Tây Phương. Ngày nay, nếu chúng ta vào một tiệm
sách online, thí dụ Amazon.com, click vào chữ Buddhism, chúng ta
sẽ thấy xuất hiện gần bốn chục ngàn tựa sách Phật giáo,
hầu hết đều do người Tây Phương viết.
Câu
hỏi thứ hai:
– Muốn
tu tập theo Phật giáo, có cần phải bỏ tôn giáo của mình,
chuyển qua đạo Phật không?
Thưa
quý thính giả,
Điểm
son của đạo Phật là tinh thần tôn trọng đời sống nội
tâm và sinh mạng muôn loài. Tôn giáo, tín ngưỡng, là vấn
đề rất tế nhị, có những ràng buộc tình cảm sâu xa đối
với quá khứ và thân quyến của đương sự. Cho nên người
Phật tử không thuyết phục người khác bỏ tôn giáo của
họ để theo đạo Phật. Đức Phật là bậc Giác Ngộ.
Đạo Phật là đạo Giác Ngộ. Giác thì không mê, cho nên người
Phật tử không muốn ai bước vào đạo Phật bằng con đường
mê tín. Những người từ đạo khác chuyển qua đạo Phật,
phần lớn là do họ nghiên cứu kinh điển thâm sâu, hiểu
được phần cốt tủy, tự ý đi tìm các vị tu sĩ để làm
thủ tục gia nhập cộng đồng Phật tử. Cũng có những trường
hợp không cần thủ tục gì cả, người muốn thực hiện
những bước tu tập của đạo Phật cứ tự nhiên y theo lời
dạy của đức Thế Tôn: “Không làm điều xấu ác, siêng
làm điều thiện lành và tự thanh tịnh hóa tâm”, không
để cho tâm hồn bị dính mắc vào bất cứ một giáo điều,
một hình ảnh nào cả, như thế cũng xứng đáng là một Phật
tử đúng nghĩa rồi.
Có
rất nhiều thí dụ về thái độ tôn trọng các tôn giáo khác
của người Phật tử. Chúng tôi xin đơn cử vài trường hợp,
như vua A Dục, trị vì xứ Maurya, miền Bắc Ấn Độ từ năm
272 đến năm 236 trước công nguyên, mất năm 231. Ông là một
Phật tử thuần thành, đã ứng dụng lời dậy của đức
Phật vào việc trị nước, đem lại thanh bình cho toàn xứ
Ấn Độ thời đó. Quan điểm của ông là làm sao cho dân chúng
có một đời sống hạnh phúc, gồm tự do, lòng từ bi, tránh
chém giết, tôn trọng sự thật. Ông cũng là người cổ võ
việc ăn chay và chống tệ nạn giết thú vật để cúng tế.
Trong một trụ đá kỷ niệm, có khắc lời ông như sau:
– “Ta
không nên chỉ đề cao tôn giáo của mình mà chê bai các tôn
giáo của người khác, mà nên tôn trọng những điều hay của
các tôn giáo khác nữa. Hành xử như thế, ta sẽ giúp cho nếp
sống đạo của ta tăng trưởng và đồng thời cũng giúp những
người thuộc các tôn giáo khác sống đạo. Nếu làm ngược
lại, là chúng ta tự chôn vùi tôn giáo của mình và cũng làm
hại những tôn giáo khác. Bất cứ ai tôn vinh tôn giáo mình
trong khi chỉ trích các tôn giáo khác, mà nghĩ rằng: “Tôi
ngợi ca, thờ phượng tôn giáo của tôi”, thật ra là làm
thương tổn sâu xa cho tôn giáo của chính họ. Cho nên, sống
hài hòa với nhau thì tốt hơn. Hãy lắng nghe, lắng nghe với
thiện ý những học thuyết của các tôn giáo khác”.
Tiến
sĩ Malasekara cũng nói :
– “Không
bao giờ có chuyện đạo Phật truyền giáo bằng cách ép buộc
những người không thích phải tin theo mình, lại càng không
dùng các thủ đoạn gây áp lực, hoặc nịnh nọt tâng bốc,
hoặc dối trá lừa phỉnh, để đạt được thắng lợi trong
sự hoán chuyển tư tưởng người khác. Những nhà truyền
giáo của đạo Phật không bao giờ tranh đua để giành người
cải đạo như ở nơi chợ búa”.
Đạo
Phật đã bị hiểu lầm rất nhiều, người thì cho rằng đạo
Phật chỉ lo cúng đám làm chay cho người chết, kẻ lại nghĩ
rằng đạo Phật chỉ thích hợp với các bậc tu sĩ ở ẩn.
Với mục đích trình bày sự trong sáng của đạo Phật, chúng
tôi xin kính gửi tới quý thính giả một bài pháp trích dịch
từ cuốn “What
the Buddha Taught”, do hòa thượng Walpola Rahula giảng:
…”…
Có một số người cho là đạo Phật quá cao siêu, một đường
lối tu quá nghiêm túc, khắc khổ, khiến cho những người
dân bình thường sống trong thế giới ngày nay không thể kham
nổi. Như thế, nếu muốn thực hành giáo pháp, muốn làm một
Phật tử chân chính, người ta phải rút lui vào các tu viện,
hoặc những nơi vắng vẻ.
Rõ
ràng đây là một sự hiểu lầm rất đáng tiếc, do thiếu
hiểu biết về giáo lý nhà Phật. Người ta thường vội vã
có những kết luận sai lầm như thế, sau khi nghe một vài
mẩu chuyện, hoặc tình cờ đọc một cuốn sách, mà vì thiếu
sự tìm hiểu rộng rãi, tác giả đã viết về đạo Phật
một cách phiến diện.
Giáo
lý của nhà Phật không phải chỉ dành riêng cho giới tu sĩ
trong tu viện, mà là của tất cả mọi người, kể cả những
nam nữ cư sĩ sống trong gia đình. Tuân theo Bát Chánh Đạo
là sống trong tinh thần Phật giáo. Dù là tu sĩ hay cư sĩ,
mọi người đều có thể áp dụng nguyên tác này vào cuộc
đời, không phân biệt.
Đại
đa số dân chúng trên thế giới không thể trở thành tu sĩ,
hay rút lui vào các hang động hoặc rừng sâu núi thẳm để
ẩn tu. Vậy nếu những người này mà không ứng dụng được
lời dạy của đức Phật vào đời sống hằng ngày của họ
thì dù những lời dạy ấy có cao siêu, tinh khiết đến đâu
đi nữa, đối với họ cũng là vô dụng. Tuy nhiên, nếu bạn
hiểu đúng tinh thần của giáo pháp, — không phải chỉ hiểu
theo từ ngữ — thì chắc chắn bạn có thể thực
hành Phật pháp trong khi vẫn sống cuộc đời bình thường.
Có
thể có một số người cảm thấy nếu ở ẩn tại một nơi
xa xôi vắng vẻ, chấm dứt các hoạt động xã hội, thì sự
hành trì Phật pháp sẽ dễ dàng và thoải mái hơn. Nhưng lại
cũng có thể có người thấy rằng đời sống ẩn dật đó
thật là tẻ nhạt, khiến cho cả tâm hồn và thể xác của
họ đều uể oải, không thể giúp cho cuộc sống tinh thần
và nội tâm của họ được thăng hoa.
Sự
ẩn dật chân chính không có nghĩa là phải xa lánh hẳn thế
gian. Tôn giả Sariputta, một đại đệ tử của Phật nói rằng,
một người có thể tu khổ hạnh trong rừng nhưng tâm vẫn
đầy những tư tưởng ô nhiễm, bất tịnh, trong khi một người
khác có thể sống trong làng mạc hay thành thị, không thực
hành khổ hạnh, mà tâm lại thanh tịnh, trong sáng. Ngài nói,
so sánh giữa hai người ấy, thì người sống cuộc đời thanh
tịnh nơi làng mạc, thành thị, lại cao cả và giá trị hơn
người kia rất nhiều.
Dường
như đối với một số người thì sự lui về ẩn tu trong
một nơi vắng vẻ, không bị quấy nhiễu phiền phức, sẽ
cảm thấy thoải mái. Nhưng nếu có thể thực hành Phật pháp
tại nơi ồn náo, sống giữa đồng loại để giúp đỡ và
phục vụ họ, thì lại càng can đảm và đáng khuyến khích
hơn. Trong vài trường hợp, người ta có thể sống ẩn dật
để tịnh tu một thời gian cho đời sống nội tâm thêm sâu
sắc, đạo lực thêm bền chắc, ngõ hầu trau giồi cho nhân
cách tăng trưởng, thêm khả năng để sau này giúp đỡ mọi
người.
Mặc
dầu vậy, nếu có người nào mà lại đem cả cuộc đời
dành cho sự sống trong cô độc, chỉ nghĩ đến hạnh phúc
và “cứu rỗi” cho riêng mình, không quan tâm đến đồng loại,
thì điều này chắc chắn không phù hợp với lời dạy của
đức Phật, vốn đặt nền tảng trên tình thương, lòng trắc
ẩn và sự phục vụ tha nhân.
Kinh
Sigala đã nói lên sự quan tâm sâu sắc của đức Phật đối
với cách hành xử của người cư sĩ tu tại gia, trong những
mối dây liên hệ với gia đình và thân bằng quyến thuộc,
như sau:
Có
một chàng thanh niên tên Sigala, vâng theo lời dặn dò của
người cha trước khi qua đời, hằng ngày thường quay mặt
về sáu Phương là Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới, để
sì sụp lễ lạy.
Đức
Phật bảo anh ta rằng theo Phật pháp, sáu Phương có nghĩa
khác. Phật pháp dạy rằng Phương Đông là cha mẹ, Phương
Nam là thầy dạy, Phương Tây là vợ con, Phương Bắc là bạn
bè, quyến thuộc, láng giềng, Phương Dưới là người làm
công và thợ thuyền, Phương Trên là tu sĩ và đạo sư. Ngài
dạy Sigala phải tôn kính sáu Phương này. Ở đây chữ tôn kính có ý nghĩa rất đặc biệt, vì người ta chỉ tôn
kính cái gì thiêng liêng, cao quý, đáng kính. Đạo Phật coi
sáu nhóm người này như là những điều thiêng liêng, xứng
đáng được tôn kính.
Nhưng
làm thế nào để tỏ lòng tôn kính?
Đức
Phật dạy rằng chỉ có thể tỏ lòng tôn kính chân thành
bằng cách làm tròn bổn phận đối với họ. Những bổn phận
này được đức Phật giảng giải rõ ràng cho Sigala như sau:
– Thứ
nhất: cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái. Cha mẹ là
Trời. Từ ngữ “Trời” để biểu tượng sự cao quý và
thiêng liêng nhất, theo tư tưởng Ấn Độ. Cho nên ngay tại
thời đại này, trong những gia đình theo đạo Phật thuần
thành, sáng chiều hằng ngày, con cái vẫn có những hành động
để tỏ lòng tôn kính cha mẹ. Họ phải làm một số bổn
phận đối với cha mẹ theo giáo lý nhà Phật: Săn sóc khi
cha mẹ già yếu, làm những điều cần thiết để giúp đỡ
cha mẹ, giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình, bảo vệ
tài sản cha mẹ để lại, và khi cha mẹ qua đời thì cử
hành các nghi thức trong tang lễ của cha mẹ.
Về
phần cha mẹ, họ cũng có những bổn phận đối với con cái,
phải giữ gìn, dạy bảo cho con cái tránh xa những đường
tà, khuyến khích con cái làm những việc tốt lành và ích
lợi, cho con cái được hưởng một nền giáo dục chu đáo,
tìm những gia đình lương thiện cho con cái kết hôn và khi
con cái đã trưởng thành thì chia gia tài cho họ.
– Thứ
hai: liên hệ giữa thầy và trò. Người học trò phải kính
trọng và vâng lời thầy, phải chú ý đến những sự cần
thiết của thầy, nếu thầy cần, phải chăm lo học hành.
Về phía thầy, phải tận tâm dạy bảo học trò một cách
chu đáo, giới thiệu bạn tốt cho trò và khi trò tốt nghiệp
thì cố gắng tìm việc làm để bảo đảm kế sinh nhai cho
trò.
– Thứ
ba: liên hệ giữa chồng và vợ. Tình yêu giữa vợ chồng
được coi gần như một nếp sống đạo, có tính cách thiêng
liêng. Giữa vợ và chồng phải có sự tin cậy, kính trọng,
hy sinh, và có những bổn phận đối với nhau. Chồng phải
luôn luôn tôn trọng vợ, không được thiếu sự kính nể
đối với vợ, phải thương yêu và chung thủy đối với vợ,
phải bảo đảm vị trí và tiện nghi của vợ, và nên làm
vui lòng vợ bằng cách tặng nàng y phục và nữ trang. (Sự
kiện đức Phật không quên đề cập đến việc tặng quà
cho vợ khiến chúng ta thấy được sự mẫn cảm và tế nhị
đầy nhân bản của Ngài đối với niềm cảm xúc của những
con người bình thường). Về phía người vợ, phải tề gia
nội trợ chu đáo, làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân nhân
và người làm công. Vợ phải yêu thương và chung thủy với
chồng, phải biết giữ gìn gia sản, phải khôn khéo và hoạt
bát trong công việc.
– Thứ
tư: liên hệ giữa bạn bè, bà con, hàng xóm láng giềng: Mọi
người phải niềm nở và tử tế đối với nhau, nói năng
vui vẻ, hòa nhã, phải làm việc có lợi ích cho nhau và đối
xử bình đẳng với nhau, không cãi cọ mà giúp đỡ lẫn nhau
khi cần và đừng bỏ rơi khi người ta gặp hoàn cảnh khó
khăn.
– Thứ
năm: liên hệ giữa chủ và người làm công: người chủ có
nhiều bổn phận đối với người giúp việc hoặc người
làm công, phải lượng sức của người ta để mà giao việc
phù hợp, tiền lương phải tương xứng, phải cung cấp thuốc
men và thỉnh thoảng tặng thưởng cho người ta. Về phía người
làm công thì phải chăm chỉ làm lụng, không lười biếng,
phải lương thiện và vâng lời chủ, không ăn gian nói dối
và phải tận tụy trong công việc
– Thứ
sáu: liên hệ giữa tu sĩ và cư sĩ: với niềm kính quý, người
cư sĩ phải quan tâm đến những nhu cầu vật chất của tu
sĩ,người tu sĩ phải truyền bá sự hiểu biết cho cư sĩ
với tấm lòng từ bi, lân mẫn và hướng dẫn họ đi trên
chánh đạo, không lọt vào tà đạo.
Như
vậy, chúng ta đã thấy rõ rằng dù là một người dân bình
thường sống trong gia đình, tham dự những sinh hoạt ngoài
xã hội, họ vẫn được thụ hưởng sự giáo hóa của đức
Thế Tôn, vẫn có thể tu tập, tạo sự an lạc trong nếp sống
của một người Phật tử …”…
Thưa
quý thính giả,
Những
điều đức Phật dạy thì thật là trong sáng, dễ hiểu và
gần gũi với mọi người. Nhưng có những kẻ do thói “bảo
hoàng hơn vua”, lại làm cho hình ảnh Ngài trở nên xa vời,
biến thành một thứ thần linh. Chúng tôi xin gửi tới quý
vị một thí dụ, là câu chuyện “Tu viện trưởng và
chú tiểu nhỏ”, trích trong cuốn Three Zen Masters : Ikkyu,
Hakuin, Ryokan — soạn giả : John Steven, như sau:
“Không
bao lâu sau khi vào tu viện, chú tiểu Ikkyu được vị viện
trưởng sai tắt những cây nến trên bàn thờ trước khi về
phòng ngủ. Khi chú tiểu về thưa với thầy là chú đã hoàn
tất công việc, vị viện trưởng hỏi:
– Thế
con tắt nến bằng cách nào?
Chú
tiểu thưa:
– Con
thổi tắt.
Vị
viện trưởng mắng:
– Không
bao giờ được làm thế. Đức Phật là đấng thiêng liêng,
mà hơi thở của con người thì dơ bẩn. Phải vẫy vẫy tay
hoặc dùng quạt để tắt nến.
Sáng
hôm sau, khi vị viện trưởng lên chính điện để cử hành
buổi lễ sáng, ông nhìn thấy chú tiểu Ikkyu đang quay mặt
ra phía ngoài, lưng về phía bàn thờ mà tụng kinh.
Nổi
trận lôi đình, ông quát lớn:
– Mi
đang làm gì đây hả thằng bé ngu ngốc?
Chú
tiểu ung dung trả lời:
– Thầy
bảo con là hơi thở của con người thì dơ bẩn, không nên
thở về phía các ảnh tượng đức Phật. Chúng ta làm sao
có thể tụng kinh mà không thở?
Vị
viện trưởng bối rối ấp úng:
– Chuyện
này khác.
Rồi
ông ra lệnh cho chú tiểu Ikkyu quay mặt lại bàn thờ.”
Ban
Biên TậpTVHS
Discussion about this post