LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO
Võ Quang Nhân (Làng Đậu)
1
Bối cảnh lịch sử Ấn Độ trước Phật giáo
2
Giai đoạn sơ khai và Giáo hội đầu tiên
2.1
Giai đoạn sơ khai
2.2
Tổ chức giáo hội đầu tiên
3
Các Hội nghị kết tập kinh điển chính
3.1
Kết tập lần thứ I
3.2
Kết tập lần thứ II
3.3
Vua Asoka và Kết tập kinh điển lần thứ III
3.4
Kết tập lần thứ IV và các lần sau đó
4
Các bộ phái chính hiện nay
5
Về khái niệm Tiểu thừa
6
Nguyên do suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ
6.1
Sự phân hoá trong Phật giáo ở Ấn Độ
6.2
Phật giáo và quan hệ với Ấn giáo (Hindu)
6.3
Sự bành trướng có tính cách bạo động của Hồi giáo
7
Các di tích, di chỉ, và trung tâm Phật giáo quan trọng trong
lịch sử
7.1
Ấn Độ
7.2
Sri Lanka (Tích Lan)
7.3
Nepal
7.4
Afghanistan (A Phú Hãn)
7.5
Tây Tạng
7.6
Miến Điện
7.7
Trung Hoa
7.8
Việt Nam
7.9
Triều Tiên
7.10
Thái Lan
7.11
Campuchia
7.12
Nhật Bản
8
Phật giáo ngày nay
9
Tóm tắt các diễn biến trong lịch sử Phật giáo
10
Đọc thêm
11
Tham khảo
11.1
Tiếng Việt
11.2
Tiếng Anh
Phật
giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni)
truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN.
Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và
lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển
của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi
thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích
Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một
giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó.
Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể
thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người,
và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật
giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong
các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
1. Bối cảnh
lịch sử Ấn Độ trước Phật giáo
Về
địa lý, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Hy-mã-lạp-sơn (Hymalaya)
cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình
nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc
với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua A Phú Hãn
(Afghanistan). Nền văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là
văn hóa Vệ Đà (Veda). Theo sử liệu hiện nay thì dân tộc
Ấn (Veda) có chung tổ tiên với các dân tộc châu Âu là các
bộ lạc du mục đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ
Tây Bắc Ấn và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng
1000 năm trước Công Nguyên.
Văn
hoá Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng
như có các quan điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát
triển về sau đã biến Veda thành một tôn giáo (đạo Bà La
Môn) và phân hoá xã hội thành 4 giai cấp chính trong đó giai
cấp Bà La Môn (hay tăng lữ) là giai cấp thống trị.
Tư
tuởng luân hồi và cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử
thoát thai từ đạo Bà La Môn (hay sớm hơn từ tư tưởng Veda).
Đạo này còn cho rằng tồn tại một bản chất của vạn
vật đó là Brahman (hay Phạm Thiên). Do việc giai cấp tăng
lữ được đề cao và được hưởng mọi ưu đãi bổng lộc
trong xã hội đã tạo điều kiện cho việc phân hoá thành
phần này ra rất nhiều hướng triết lý hay hành đạo khác
nhau và đôi khi chống chọi phản bác nhau. Trong thời gian trưóc
khi Thích Ca thành đạo đã có rất nhiều trường phái tu luyện.
Các xu hướng triết lý cũng phân hoá mạnh như là các xu hướng
khoái lạc, ngẫu nhiên, duy vật, hoài nghi mọi thứ, huyền
bí ma thuật, khổ hạnh, tu đức hạnh, tụng kinh…
Chính
sự phức tạp của xã hội, các tư tưởng về nhân sinh quan
vũ trụ quan khá phong phú, và sự xuất hiện của các phương
thức tu tập dị biệt nhau đã là một môi trường giúp cho
Thích Ca từ đó tìm ra con đường riêng cho đạo Phật về
sau.
2. Giai đoạn
sơ khai và Giáo hội đầu tiên
Điêu
khắc bằng đá vào thế kỉ thứ I dấu chân Phật có chạm
hình bánh xe Pháp Luân
2.1
Giai đoạn sơ khai
Ngay
sau khi thành đạo (vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN
– có tài liệu cho đó là vào năm 544 TCN) thì Thích Ca đã quyết
định thuyết giảng lại hiểu biết của mình. 60 đệ tử
đầu tiên là những người có quan hệ gần với Thích Ca hình
thành tăng đoàn (hay giáo hội) đầu tiên. Sau đó, những người
này chia nhau đi khắp nơi và mang về thêm ngày càng nhiều
người muốn theo tu học. Để làm việc được với một lượng
người theo tu học ngày càng đông, Phật đã đưa ra một chuẩn
mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm
người. Các chuẩn mực này phần chính là việc quy y tam bảo
— tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Phật, những
lời chỉ dạy của Phật (Pháp), và cộng đồng Tăng đoàn.
2.2
Tổ chức giáo hội đầu tiên
Trong
thời còn tại thế thì giáo hội trực tiếp chịu sự hướng
dẫn của Thích Ca về giáo lý và phương cách tu tập. Đây
là tổ chức thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên
không phân biệt gíới tính, tuổi tác, điạ vị xã hội và
có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên.
Nhờ vào tổ chức chặt chẽ và qui củ nên giáo hội tránh
được nhiều chia rẽ.
Kỷ
luật của giáo hội dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong các
kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự
xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được
đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và
kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn.
Ngoài
những người xuất gia, Phật còn có rất nhiều đệ tử tại
gia (hay cư sĩ). Giới cư sĩ cũng được Phật thuyết giảng
và ngược lại tham gia ủng hộ tăng đoàn về nhiều mặt.
Sau
khi Phật nhập tịch thì Tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa)
thay phần lãnh đạo giáo hội. Giáo hội giữ nguyên các hoạt
động truyền thống của mình cho đến kì kết tập kinh điển
lần thứ hai.
3. Các Hội
nghị kết tập kinh điển chính
3.1
Kết tập lần thứ I
Lí
do
Khi
Phật còn sinh tiền thì các giảng thuyết đều chỉ truyền
miệng. Phật lại tuỳ theo trình độ hiểu biết và khả năng
hấp thụ để có lời giảng thích hợp. Các phương pháp dùng
lại rất phong phú tùy theo hoàn cảnh và phưong tiện. Do đó,
sự dị biệt khó tránh khỏi trong các lời giảng.
Ngay
sau khi Phật nhập diệt đã có các đệ tử cho rằng phải
làm điều này, không làm điều nọ, không chịu ràng buộc
tâm ý… Để tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp
và luật lệ cho được toàn vẹn, Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa)
đã đề nghị kết tập và phân loại toàn bộ lời dạy của
Phật lại thành kinh điển để tránh chia rẽ, sai lầm về
giáo pháp.
Diễn
biến và Kết quả
Cuộc
kết tập đã được tổ chức tại Tỳ Xá Ly (Rajagriha, nay
là Rajgir) gồm 500 tì kheo do sự trợ giúp của vua A Xà Thế
(Ajatasatru) xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) vào khoảng đầu thế kỷ
thứ 5 TCN. A Nan Đà (Ananda) là người theo hầu Phật suốt
30 năm, được xem là người có trí nhớ tuyệt vời, đứng
ra trì tụng lại những điều Phật giảng thuyết (bởi vậy
các bộ kinh đều bắt đầu bằng câu “Tôi nghe như vầy:”,
lời của A Nan Đà). Còn Upali, là người thợ cạo, kể lại
về giới luật.
Phương
pháp kết tập được kể lại bằng trí nhớ và cũng không
có ghi thành văn bản. Những điều ghi nhận này sau đó được
viết lại thành 4 bộ kinh:
Kinh
Trường A Hàm (Digha agama)
Kinh
Trung A Hàm (Majjhima agama)
Kinh
Tăng Nhất A Hàm (Anguttara agama)
Kinh
Tạp A Hàm (Samyutta agama)
Đây
là các tài liệu cổ nhất có ghi lại cuộc đời của Phật
và hoạt động của Tăng đoàn, đánh dấu bước đầu hình
thành Kinh tạng và Luật tạng. Các bộ kinh văn trên cũng là
căn bản cho Phật giáo nguyên thuỷ.
3.2
Kết tập lần thứ II
Lí
do
Sau
100 năm (đầu thế kỉ thứ 5 TCN) thì có nhiều người muốn
thay đổi một số điều chi tiết trong giới luật. Đại hội
kết tập lần thứ II cốt để bàn thảo về những thay đổi
này.
Đại
hội còn nhằm mục đích ngăn không để các tư tưởng của
các đạo khác thâm nhập vào giáo lý Phật giáo.
Diển
biến và Kết quả
Đại
hội có 700 vị tỳ kheo, được tổ chức tại Vesali trong tám
tháng dưới sự trợ giúp của vua Kalasoka. Trong đại hội
những người không đồng ý với việc giữ nguyên giới luật
ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị kết tập
riêng và thành lập Đại chúng bộ (Mahàsamghika). Số người
còn lại vẫn tiếp tục kết tập kinh điển, sau đó hình
thành Thượng tọa bộ (Theravada).
3.3
Vua Asoka và Kết tập kinh điển lần thứ III
Thời
vua A Dục, đạo Phật đã truyền ra ngoài Ấn Độ
Asoka
(A Dục) là vua của xứ Mauryan, ra đời khoảng năm 273 TCN.
Trước khi trở thành Phật tử, ông có tính khí rất hung bạo,
đã giết nhiều anh em của mình để cướp ngôi vua cũng như
đã xua quân chiếm lãnh thổ Kalinga (ngày nay thuộc về Orissa)
phía Đông Ấn. Nhưng ngay sau đó nhờ gặp được Sa di Nigrodha,
ông theo Phật giáo cải hối và làm rất nhiều điều thiện,
chống lại bạo lực. Ông là ngưòi có công lớn khuyến khích
Phật giáo, xây dựng hàng chục ngàn chùa chiền, bảo tháp
Phật giáo cũng như xây dựng hệ thống đường xá, nhà thương
cho đất nước.
Đây
là giai đoạn đánh dấu sự phát triển của Phật giáo ra
khỏi địa bàn nước Ấn Độ. Nhiều đoàn truyền giáo đạo
Phật đã được cử đến khắp nơi từ Âu sang Á đến tận
Hy Lạp, các nước tại Trung Á, tại Trung Đông cũng như Trung
Quốc, Miến Điện và Tích Lan. Một tranh luận khá sôi nổi
hiện nay là liệu đoàn thuyết pháp của vua Asoka đã đến
được Việt Nam hay không? Câu hỏi này còn trông chờ vào
việc tìm ra thêm các bằng chứng về di chỉ khảo cổ ở
Việt Nam. Ngoài ra, vua Asoka còn là người bảo trợ cho kì
kết tập kinh điển thứ lần thứ III.
Kết tập kinh
điển lần thứ III
và bản dịch
tiếng Pali của toàn bộ Tam Tạng kinh
Lí
do:
Trong
thời gian vua Asoka trị vì vào giữa thế kỉ thứ 3 TCN, Phật
giáo đã phát triển rộng ra nhiều nơi. Một điều tất yếu
là có nhiều sự phân hóa, ngay trong đạo Phật. Tăng đoàn
cũng đã bị một số người trà trộn và lạm dụng, gây
nhiều bất hòa nội bộ.
Diễn
biến và Kết quả: Hội nghị được chủ trì bởi Moggaliputta
Tissa bao gồm 1.000 tì kheo ưu tú được cử đến. Hội nghị
được tổ chức vào khoảng năm 325 TCN và kéo dài trong 9 tháng.
Địa điểm kết tập là thành Pataliputta thuộc về xứ Maggadha
dưới sự khởi xướng và giúp đỡ của vua Asoka. Đây là
lần đầu tiên Tam Tạng Kinh bao gồm Kinh tạng, Luật tạng
và Luận tạng được hoàn thành đầy đủ.
Cuối
đại hội, Moggaliputta Tissa ra “Những Điểm Dị Biệt” (Kathavatthu)
để bác bỏ luận thuyết không hợp lệ của một số bộ
phái. Đại hội kết tập này có hạn chế là chỉ được
sự công nhận về giáo pháp của tông phái Phật giáo nguyên
thuỷ (Theravada), tông phái chiếm đa số lúc bấy giờ.
Sau
đại hội, Tam Tạng kinh cùng với các chú giải được đem
tới Tích Lan bởi con trai vua Asoka là Mahinda. Các kinh điển
này sau đó đã được dịch sang tiếng Pali còn nguyên vẹn
cho đến nay.
Kết tập lần
thứ IV và các lần sau đó
Đối
với kì kết tập lần thứ IV thì các sử liệu đã không
hoàn toàn thống nhất với nhau về thời gian tính và địa
điểm. Có hai thuyết đáng lưu ý là:
Thuyết
thứ nhất:
Lí
do:: Vua Kanishka là tín đồ trung thành với Phật giáo, rất
ưa được nghe giảng kinh văn nên thường mời nhiều tu sĩ
Phật giáo đến giảng kinh. Tuy nhiên, ông nhận thấy có rất
nhiều sự khác biệt về các kiến giải trong Phật giáo nên
khởi tâm bảo trợ cho kì kết tập lần thứ IV.
Diễn
biến và Kết quả: Thời gian kết tập là vào khoảng 400 năm
sau khi Phật nhập diệt (thế kỉ thứ 1). Địa điểm là vùng
Kasmira miền tây bắc Ấn Độ. Hội nghị bao gồm 500 học
giả giỏi về Tam Tạng kinh và do Vasamitra chủ tọa với sự
trợ giúp của Parsva.
Sau
khi kết tập, Vua Kanishka đã ra lệnh khắc lại toàn bộ Kinh
tạng, Luật tạng và Luận tạng lên trên những lá đồng,
bảo quản tại một nơi cố định, không cho mang ra ngoài.
Tuy nhiên, những di vật này đã bị thất lạc, nay chỉ còn
phần thích luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (Abhidharma Mahavibhasa
sastra) mà Trần Huyền Trang đã dịch sang tiếng Hán, gồm hai
trăm quyển.
Thuyết
thứ hai:
Thời
gian kết tập là vào khoảng 400 năm sau khi Phật nhập Niết
Bàn, do vua xứ Tích Lan là Vattagàmani hỗ trợ. Kì kết tập
này đã đọc, hiệu đính và xếp lại thứ tự của Tam Tạng
kinh cũng dịch lại chúng sang tiếng Pali. Thuyết này được
nhiều học giả công nhận chính là kết tập lần thứ IV
của Thượng Tọa Bộ (Theravada).
Các
kì kết tập khác: Các lần kết tập còn lại đều là của
riêng bộ phái Thượng Tọa Bộ (còn gọi là Nam Truyền) tiến
hành.
Kết
tập lần thứ V được tổ chức vào năm 1871, trong suốt 5
tháng tại thủ đô của Miến Điện lúc bấy giờ là Mandalay.
Số người tham dự gồm 2.400 cao tăng dưới sự bảo trợ
của vua Mindon. Kết quả là việc hiệu đính lại 3 tạng kinh
và đem khắc trên 729 phiến đá hình vuông được cất vào
trong chùa tháp Kuthodaw.
Kết
tập lần thứ VI bắt đầu ngày 17 tháng 5, nhân dịp lễ Phật
Đản, năm 1954, trong suốt thời gian là 2 năm. Địa điểm
kết tập là phía bắc của Ngưỡng Quãng, trên đồi núi Nghệ
Cố. Dưới sự khởi xướng của Giáo hội Phật giáo Miến
Điện và bảo trợ của Chính phủ Miến Điện. Kết quả
là sự tham khảo lại tất cả kinh điển của các nước Phật
giáo Nam truyền, rồi đúc kết và đem xuất bản để truyền
bá.
Theravada,
còn được gọi là Phật giáo nguyên thuỷ hay Phật giáo Nam
truyền (tiếng Phạn: Sthaviravada). Tông phái này hình thành
ngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi Thích Ca viên tịch. Chữ
Theravada có nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”.
Do đó nhiều sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ. Chính
xứ Sri Lanka là nơi bảo tồn được truyền thống của Theravada
mặc dù đạo Phật tại đó là một kế thừa từ trung tâm
Ấn Độ. Phật giáo ở Ấn đã bị suy tàn và biến mất từ
thế kỉ thứ 6 do việc lan tràn của Hồi giáo và Ấn Độ
giáo.
Quan
Thế Âm Bồ Tát
Một
hình ảnh tiêu biểu của tư tưởng Đại thừa ở các nước
Đông Nam Á
Mahayana,
còn có tên là Đại thừa hay Phật giáo Bắc truyền . Từ
thế kỉ thứ 1 TCN các tư tưởng Đại thừa đã bắt đầu
xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay Đại thừa, chỉ thực
sự có khi nó được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên
Hoa (Saddharma pundarika sutra). Nói chung, ý tưởng Mahayana là có
xu hướng rộng rãi và tự do hơn là các phép tắc ràng buộc
của Theravada.
Đến
thế kỉ thứ 3 khái niệm Mahayana mới được xác định rõ
ràng qua các trước tác của bồ tát Long Thọ (Nagarjuna) trong
Trung Luận (hay Trung Quán Luận), chứng minh tính không của
vạn vật. Các ý này đã được Long Thọ khai triển. Bên trong
Đại thừa, lại có các trường phái khác như là Madhymaka,
Yogacara.
Vajrayana
còn có các tên gọi là Tantra, Mật tông, Kim cương thừa. Mật
tông thường có khuynh hướng giữ bí mật các thông tin nên
khó xác định được chính xác thời điểm ra dời của tông
này. Nó xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ 6, hay chắc chắn
hơn là thế kỉ thứ 7. Mật tông có rất nhiều kĩ thuật
thực nghiệm trong đó bao gồm Mandala, Mantra, Mudra, Yidam, Dhyani-Buddhas,
Bija, Mahamudra, Vajra và Ghanta.
Khối
lượng kinh điển Mật tông rất khổng lồ chưa được biết
hết. Trong đó cần kể đến đại Nhật, Kim Cang Đảnh, Tô
tất địa, Du ký, Yếu lược niêm tụng
Pure
Land, hay Tịnh Độ tông (Ching T’u), xuất hiện vào giữa thế
kỉ thứ 4 từ sự truyền bá của sư Huệ Viễn (Hui-yuan).
Tư tưởng về Tịnh Độ thì có sẵn trong Phật giáo Ấn Độ
nhưng tới khi sang Trung Hoa thì nó phát triển thành một tông
phái.
Kinh
điển phái này phần chính là các kinh Vô Lượng Thọ, Quán
Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà, cộng với luận Vãng sinh Tịnh
độ. Phương pháp tu học có 3 nguyên tắc Tín, Nguyện và Hành.
Đây là một trong các tông phái tương đối dễ tu học nên
ở Đông và Nam Á có rất nhiều Phật tử trong vùng theo tông
này, nhất là các người lớn tuổi.
Ch’an
còn có các tên gọi là Thiền tông, Zen. Thiền là phương pháp
tu tập có từ khi Thích Ca truyền giảng. Nó được Bồ Đề
Đạt Ma (Bodhidharma) đem sang Trung Hoa vào đầu thế kỉ thứ
6. Đến đầu thế kỷ thứ 8 thì Thiền tông thực sự phát
triển và lớn mạnh sâu rộng hơn các tông phái khác. Thiền
tông cũng thường được xem là một nhánh của Đại thừa.
Tuy nhiên, phương cách tu học được nhấn mạnh là việc tự
nỗ lực để phá bỏ các định kiến chấp trước, các kinh
nghiệm, hay lề lối suy diễn cũ của bản thân để trực
tiếp chứng nghiệm chân lý. Do sự lớn mạnh đặc biệt,
Thiền tông còn được chia ra thành nhiều tông phái nhỏ, quan
trọng là Lâm Tế (Lin-chi) và Tào Động (Tsao-t’ung).
Ngoài
ra các bộ phái khác tầm mức nhỏ hơn đáng kể là Luật
tông (Vinaya), Duy Thức tông còn có tên là Pháp Tướng tông
(Vijnànavàda hay Dharmalaksana), Thiên Thai tông (T’ien T’ai), Hoa
Nghiêm tông (Avatamsaka) hay Hiền Thủ tông, Thành Thật tông
(Satyasiddi), và Chân Ngôn tông (true-word).
4. Về khái
niệm Tiểu thừa
Trước
đây đã có một sự đánh giá không đầy đủ về các danh
từ Tiểu thừa (Hinayana) và Đại thừa (Mahayana). Cả hai khái
niệm trên xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ 1 trong kinh
Diệu Pháp Liên Hoa.
Đã
có một số nhầm lẫn khi nhập chung khái niệm Tiểu thừa
với Thevarada (Nguyên thuỷ hay Trưởng lão bộ) làm một. Sự
thật là Thevarada được truyền tới và phát triển ở Tích
Lan vào thế kỉ thứ 3 TCN (thời vua Asoka). Trong thời gian này
thì chưa hề có các khái niệm Tiểu thừa và Đại thừa.
Mãi cho đến khi bộ phái Tiểu thừa hình thành ở Ấn Độ
thì Thevarada hoàn toàn phát triển độc lập ở Tích Lan. Phái
Tiểu thừa ngày nay đã hoàn toàn không còn tồn tại. Do đó,
Hội Phật giáo Thế giới (World Fellowship of Buddhists, WFB) đã
quyết định xoá bỏ danh từ này vào năm 1950 vì nó hoàn toàn
không liên quan tới đạo Phật hiện diện ngày nay ở Tích
Lan, Thái Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào …
5. Nguyên do
suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ
Sự
suy tàn của đạo Phật tại Ấn Độ có thể đã bắt đầu
từ thế kỉ thứ 7 và đạo Phật thực sự biến mất trên
đất Ấn vào thế kỉ thứ 14. Mãi cho đến thế kỉ thứ
19 thì phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn mới bắt đầu
lại.
5.1
Sự phân hoá trong Phật giáo ở Ấn Độ
Từ
thế kỉ thứ 7 trở đi, đạo Phật đã có nhiều phân hoá.
Nhiều tông phái đã xuất hiện lại có đường lối dị biệt
và nhiều lúc chia rẽ nhau. Thời gian đó, cũng là lúc ra đời
các tông phái Mật tông. Các phái này đưa ra rất nhiều hình
ảnh bồ tát và có nhiều hoạt động về hình thức tương
tự với việc thờ cúng thần linh của Ấn giáo. Do đó, ít
nhiều đã làm lu mờ các điểm đặc thù của Phật giáo.
Sự bao dung và tự do của Phật giáo cũng là một tiền đề
cho sự suy tàn. Các vua trong nước Ấn mặc dù rất sùng bái
đạo Phật nhưng khó tìm thấy trong đạo này một vị trí
tôn xưng xứng đáng. Do đó, họ có thể sẵn sàng nghe thuyết
pháp nhưng vẫn không bỏ quên đạo Bà La Môn và không ngừng
phát huy đạo này thay vì Phật giáo.
5.2
Phật giáo và quan hệ với Ấn giáo (Hindu)
Ấn
độ giáo (hay Bà La Môn) là một đạo giáo ra đời từ thế
kỉ 15 TCN, với một điểm đặc thù là nó sẵn sàng tiếp
thu các nguyên lý hay khái niệm của đạo khác.
Một
mặt, trong số tín đồ Phật giáo có rất nhiều tu sĩ phát
gốc từ đạo Bà La Môn nên các tư tưởng và nề nếp của
Ấn giáo có ảnh hưởng ít nhiều đến đạo Phật.
Mặt
khác, quan trọng hơn là việc Ấn giáo đã mặc nhiên thu nạp
các tư tưởng của Phật giáo làm thành tư tưỏng Bà La Môn.
(Trong đó có việc Phật Thích Ca Mâu Ni trở thành một vị
tiên tri quan trọng của đạo này). Những cuộc tự đổi mới
của đạo Ấn kể từ thế kỉ thứ 7 đã đem lại sinh khí
cho đạo đó cũng như làm mờ nhạt dần hình ảnh Phật giáo.
Sư pha trộn các tư tưởng Phật giáo vào Ấn giáo sâu và
nhiều đến nỗi một người bình dân rất khó tìm được
một sự phân biệt rõ ràng giữa Ấn giáo và Phật giáo. Mãi
cho đến ngày nay, khi nghiên cứu về Phật giáo và Ấn giáo
vẫn còn nhiều tác giả Tây phương bối rối khi phân biệt
hai tôn giáo này.(Xin xem thêm Exploring Hindu-Buddhist Connections)
Ngoài
ra, trong thời gian đó, với đặc tính dễ thích nghi và hợp
với nhu cầu thờ phưọng của người bình dân ở Ấn, nên
đạo Phật dần dà trở thành thứ yếu hay trở thành đạo
của giai cấp trí thức.
5.3
Sự bành trướng có tính cách bạo động của Hồi giáo

Đại
học Nalanda một trung tâm Phật giáo quan trọng ở Ấn Độ
(bị
phá huỷ năm 1197)
Vào
nửa cuối thế kỉ thứ 8, vua al-Mahdi (775-785) của triều đại
Hồi giáo Abbasad đã xua quân tấn công Ấn Độ và họ đã
phá huỷ, cướp bóc các tài liệu, công trình, kiến trúc Phật
giáo — trong đó quan trọng là trung tâm Phật học Valabhi (Valabhī).
Mặc dù sau đó họ không tiếp tục bức hại Phật giáo nhưng
dầu sao đây cũng là bước đầu trong việc huỷ hoại Phật
giáo tại Ấn Độ, Afghanistan và Trung Đông.
Cho
đến 1178 thì quân đội Hồi giáo của Muhammad Ghuri đã tiến
hành nhiều cuộc chinh phạt Ấn Độ, hầu hết các công trình
Phật giáo đã dần dà bị tiêu huỷ. Vào năm 1197 Trung tâm
Phật giáo Nālandā bị huỷ diệt hoàn toàn kể cả các tăng
sĩ. Vikramaśīla cũng bị chiếm năm 1203, chấm dứt toàn bộ
một thời đại lịch sử của Phật giáo tại Ấn Độ.
6. Các di tích,
di chỉ,
và trung tâm
Phật giáo quan trọng trong lịch sử
6.1
Ấn Độ
Là
cái nôi đầu tiên của Phật giáo. Các trung tâm Phật giáo
đã ra đời ngay từ thời Thích Ca truyền đạo và phát triển
mạnh vào thời vua Asoka. Ngày nay, những di tích quan trọng
ở Ấn Độ là:
Dhamekh di tích được xây rất sớm (thế kỉ 6 TCN)
cao
150 bộ bằng gạch nung
Bồ
Đề đạo tràng (BodhGaya). Đây là nơi mà Thích Ca đã ngồi
thiền và thành đạo. Alexander Cunningham và các cộng sự đã
tìm ra các chứng tích về các cột trụ của đạo tràng này
vào thập niên 1880. Tháp Bồ Đề ngày nay được dựng lại
từ thế kỉ thứ 7. BodGaya cách thành phố Gaya 12 km bằng đường
bộ. Người ta có thể đến đó qua ngõ Gaya bằng đường
hàng không hay dùng xa lộ Deli-Calcuta.
Sarnath,
còn gọi là Mrigadava (Deer park). Đây là nơi mà Phật bắt đầu
thuyết giảng giáo lý cho 5 anh em Kiều Trần Như (vườn Lộc
Uyển). Di tích còn sót lại là tháp Dhamekh được xây vào
triều đại Gupta thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. (Chữ
Phạn dharmekh nghĩa là chánh pháp.)
Sarnath
chỉ cách Varanasi ở Uttar Pradesh khoảng 8 km và có thể đến
đó từ Varanasi bởi đường hàng không, hay xe lửa.
Kusinagara
Đây là nơi mà Phật nhập niết bàn. Qua các khai quật thì
người ta đã tìm thấy được các mảnh vỡ của các tượng
phật và các cột tụ mà vua Asoka đã xây dựng. Nơi này ngày
nay là Kasia, thuộc về Deoria của bang Utta Pradesh.
Trung
tâm Phật giáo Nalanda. Đây là trường đại học Phật giáo
đầu tiên trên thế giới. Nalanda nằm cách Patna 90 km. có thể
đến Patna bằn đường hàng không hay đường bộ. Sau đó
có thể đến Nalanda bằn đưòng tàu hoả. Trạm Nalanda nằm
trên nhánh đường của Bhaktiyarpur-Rajgir trong phần Eastern Railway.
Hoặc từ Patna, có thể dùng xe bus để đến Nalanda.
6.2
Sri Lanka (Tích Lan)
Ở
Sri Lanka có rất nhiều các di tích Phật giáo. Quan trọng nhất
bao gồm.
Anuradhapura:
Đây là cố đô của Sri Lanka (thời ấy có tên là Tích Lan,
hay Ceylon) có rất nhiều di tích Phật giáo. Trong số đó, đáng
chú ý là:
Cây
bồ đề được chiết cành từ cây bồ đề gốc nơi mà Thích
Ca đã thành đạo. Cây này có tuổi thọ hơn 2100 năm. Cây
bồ đề chính ở Ấn đã bị huỷ hoại. Hầu hết các nhánh
bồ đề hiện tại chiết ra về các nơi khác trên thế giới
đều chỉ xuất phát từ cây bồ đề con này.
Đền
Thuparama, đây là một trong những ngôi đền cổ nhất của
Phật giáo tại Sri Lanka, xây dựng vào thế kỉ thứ 3 TCN dưới
triều đại vua Devanmpiyatissa. Đền này có đặt một mảnh
vụn xương vai phải của Phật. Ngôi đền đã được trùng
tu và xây lại nhiều lần. Ngôi đền hiện tại là phiên bản
năm 1862.
Khu
đền Ruvanveli đã được xây cất bởi vua Dutugemunu vào thế
kỉ thứ 2 TCN. Đây là một kiến trúc khổng lồ cao 103 mét
và chiếm chu vi 286 mét. Khu di tích này được được phát
hiện vào đầu thế kỉ 20 và được phục chế theo đúng
kích thước ban đầu.

Tượng
Phật ngồi thiền Lord Buddha
được
tạc vào thế kỉ thứ 12 cao 14 mét ở Sri Lanka
Anuradhapura,
cách Colombo 250 km về phía bắc. Từ Colombo có nhiều chuyến
xe buýt Colombo-Anuradhapura mỗi ngày. Phương tiện tàu hoả từ
Colombo đến Anuradhapura cũng có.
Tượng
Phật ngồi thiền Lord Buddha tìm thấy ở Polonnaruwa. Tượng
được tạc vào thành núi đá bằng granit vào thế kỉ thứ
12 cao 14 mét. Gần đó, cũng có hai khối tượng hình sư Anan
đứng khoanh tay bên cạnh Thích Ca tịch diệt trong tư thế
nằm. Polonnaruwa nằm ở phiá Đông Sigiriya, tốn chừng 1,5 giờ
đi xe buýt.
Quần
thể tượng và tranh Phật trong các hang động ở Dabulla. Đây
là nơi trú ẩn của vua Valagam Bahu ở thế kỉ thứ 1 TCN. Tổng
cộng hơn 80 hang động đã được các sư thời đó dùng để
toạ thiền. 5 trong tổng số các hang này có nhiều tượng
và tranh Phật được kiến tạo vào thời gian đó. Dambulla
nằm cách Kandy 72 km về hướng bắc và cách Anuradhapura 64 km
về hướng đông nam trên đường nối hai thành phố này. Từ
đường cái người ta phải di bộ lên cao 150 mét qua các bậc
đá trọc. Nên mang theo dù khi thăm viếng.
6.3
Nepal
Nepal
cũng có nhiều trung tâm Phật giáo quan trọng như:
Tháp
được dựng từ thời vua Asoka để đánh dấu nơi Phật Thích
Ca ra đời
Lumbini,
nơi Phật Thích Ca ra đời. Vùng di tích tìm thấy ở hướng
Tây Nam là một đồng bằng ở chân của rặng núi Churia (xem
thêm bản đồ trong bài Thích Ca Mâu Ni). Trước đây người
ta không xác định được địa danh này. Mãi đến 1 tháng
12 năm 1886, nhà khảo cổ người Đức Dr. Alois A. Fuhrer mới
tìm thấy cột tháp của vua Asoka ghi lại làm xác nhận nơi
ra đời của Thích Ca Mâu Ni.
Để
đến Lumbini, dùng đường hàng không từ Kathmandu tới Bhairawa.
Từ nơi này có các loại xe buýt hay taxi đưa đến Lumbini cách
đó 22 km.
Kathmandu:
Đây là thành phố mà có khoảng 1/3 số người theo Phật giáo.
Đáng dể ý có:
Tháp
Swayambhunath (có nghĩa là “tự tại”) ở Kathmandu. Nằm về phiá
tây của trung tâm thành phố. Tháp này đã có 2000 năm tuổi.
Tháp này nằm trên đỉnh của một đồi cao 77 mét và có 350
bậc thang đi bộ. Đỉnh tháp là các khung thiếp vàng của
các mắt Phật nhìn về bốn phiá. Giữa hai mắt thường có
thêm mắt thứ 3 tượng trưng cho khả năng thiên nhãn thông.
Tháp
Bodhnath (hay Boudhanath) ở Kathmandu. Đây là tháp lớn nhất Nam
Á cách 5 km về phiá đông của Katmandu. Đây đuợc xem là trung
tâm Phật giáo Tây Tạng quan trọng nhất bên ngoài Tây Tạng.
Trong khuôn viên của tháp có 35 thiền đường. Tháp có thể
đuợc xây vào thế kỉ thứ 14.
Có
một ít đường bay đến Kathmandu. Sân bay quốc tế ở đó
là Tribhuvan.
6.4
Afghanistan (A Phú Hãn)
Afghanistan
nằm trên con đường tơ lụa (the Silk Road), đường bộ huyết
mạch giao thương Á-Âu trong lịch sử loài người. Đạo Phật
trước khi truyền sang Trung quốc cũng đã lan đến xứ này
từ rất sớm, khoảng thế kỉ thứ 2 TCN. Vua Kaniska, một Phật
tử, đã cai trị Afghanistan từ thế kỉ thứ 1 TCN. Đến thế
kỉ thứ 3, thời đại vua Asoka, thì Phật giáo ở đây trở
nên hưng thịnh. Một trung tâm Phật giáo quan trọng hình thành
vào cuối thế kỉ thứ 1 tại nơi này là Gandhara.
Tượng
Phật khổng lồ tạc vào núi đá ở Bamiyan, Afghanistan (nay
không còn nữa)
Grandhara
là một trung tâm Phật giáo rất lớn. Nghệ thuật Phật giáo
ở đây đã đạt đến đỉnh cao. Các thành phố chính của
văn minh Granhara bao gồm Zaranj, Bamiyan, Paktia, Kabul, Zabul, và
Peshawar. Một trong những công trình nghệ thuật Phật giáo
tiêu biểu là các tưọng Phật tạc vào núi đá khổng lồ
ở Bamiyan. Các công trình này được xây dựng khoảng thế
kỉ 2-5. Pho tượng lớn nhất cao khoảng 52 mét (pho nhỏ hơn
cao 35 mét). Nghệ thuật này chịu ảnh hưởng kiến trúc văn
hoá của Hy Lạp, Ba Tư, Trung và Nam Á. Công trình đã bị phá
huỷ một lần bởi Hephthalites (White Huns, Yanda, 厌哒) vào thế
kỉ thứ 6. Lần đó, pho tượng lớn nhất vẫn còn. Sau đó,
các tượng đã bị chính quyền Hồi giáo cực đoan Taliban
phá huỷ hoàn toàn vào tháng 3 năm 2001.
Ngoài
ra, trong năm 1994 thì thư viện quốc gia Anh công bố tìm được
một di chỉ kinh Phật cổ lấy từ Grandhara bao gồm nhiều
mảnh gốm. Tiếp sau đó, Đại học Washington (Hoa Kỳ) vào
tháng 8 năm 2002 cũng tìm được thêm 8 mảnh vỡ của cùng
một di chỉ này. Bản kinh Phật này, viết bằng tiếng Grandhara,
được xem là bản văn tự kinh Phật lâu đời nhất (vào khoảng
thế kỉ thứ 1) hiện tìm thấy. Việc nghiên cứu giải mã
nội dung đã được tiến hành trong nhiều năm qua và đang
được xuất bản từ từ
6.5
Tây Tạng
Tây
Tạng là quốc gia mà trước khi bị Trung Quốc chiếm (1951)
có hơn 99% dân số theo Phật giáo mà đa số là Mật tông.
Thủ đô Tây Tạng là Lhasa và cũng là trung tâm Phật giáo
quan trọng. Sau khi bị chiếm đóng, hàng chục ngàn chùa chiền
bị tiêu huỷ và rất nhiều di sản quý liên quan tới Phật
giáo ở đây bị cướp phá nghiêm trọng, và khoảng hơn 87,000
Phật tử Tây Tạng bị giết. Số di tích còn sót lại hiện
nay thuộc về thành phố Lhasa

Điện
Potala, Lhasa Tây Tạng
Lhasa
Thành phố ở độ cao gần 3700 mét này có từ thế kỷ thứ
7 và ngay từ khi thành lập nó đã dung nạp Phật giáo. Hai
địa danh còn giữ lại và được chính quyền Trung Quốc trùng
tu cho mụch tiêu du lịch là đền Jokhan và điện Potala
Chùa
Jokhan (hay Đại Chiêu) ngày trước là trung tâm của bộ phái
Shakya (Thích Ca) thuộc Mật tông. Trên đỉnh chùa có hình tượng
bánh xe Pháp Luân. Ngôi chùa là một công trình kiến trúc khổng
lồ với 3 tầng bên trong phủ đầy bởi các tượng Phật.
Đáng kể nhất là tượng Jowo Shakya (Thích Ca khi 12 tuổi).
Nơi này là trung tâm cho hàng trăm ngàn người Tây Tạng đến
hành hương.
Điện
Potala, nghĩa là “thánh địa Phật giáo”, là nơi mà các Dalai
Lama trú ngụ. Đây là một biểu tượng của Phật giáo Tây
Tạng. Điện này được xây cất từ thế kỉ thứ 7. Dáng
hiện tại của nó là kiến trúc đã trùng tu vào thời gian
của Dalai Lama thứ 5. Điện này có 13 tầng cao 117 mét gồm
gần 1000 phòng là nơi làm việc ngày xưa của chính quyền
Tây Tạng.
6.6
Miến Điện
Miến
Điện, nay là Myanma, là một quốc gia mà Phật giáo đã truyền
đến rất sớm. Phật giáo là quốc giáo của xứ này. Truyền
thuyết cho rằng Phật giáo đã du nhập xứ này từ khi Phật
Thích Ca còn sống, hai đệ tử là Tapussa and Bhallika đã mang
được 8 sợi tóc của Phật về và hiện các di tích vẩn
còn giữ tại các chùa tháp. Dữ liệu được xác minh chắc
chắn là các đoàn truyền giáo thời vua Asoka đã đến Miến
Điện vào thế kỉ thứ 3 TCN. Hiện tại đa số Phật tử
theo Thevarada.
Tháp
Shwedagon tại Yangon Myanma, toàn thân tháp được dát vàng
ước
lượng lên đến 30 tấn
Yangon
(hay Rangoon) và vùng phụ cận. Đây là trung tâm Phật giáo
lớn còn giữ lại rất nhiều đền đài trong số này có:
Tháp
Shwedagon: Ngôi đền lớn nhất tại đây toàn bộ được dát
vàng và trang trí rất nhiều gỗ, đá quí. Chu vi của ngôi
tháp là 1.420 feet và cao 326 feet. Xung quanh có 64 đền nhỏ.
Truyền thuyết cho rằng đền này có hơn 2500 năm được xây
từ thời Thích Ca còn tại thế. Độ cao nguyên thuỷ của
ngôi đền là 66 feet nhưng sau nhiều lần trùng tu nó đã đạt
được độ cao hiện tại.
Tháp
Sule: Theo truyền thuyết thì đây là nơi chứa tóc Phật do
hai đệ tử của Thích Ca Mâu Ni nên số tuổi của nó được
cho là hơn 2000 năm. Tháp có tiết diện dạng bát giác, nhìn
xa gần giống như một cái chuông đặt úp, cao 152 feet, lần
cuối cùng nó được trùng tu vào thập niên 1880.
Đền
Botataung (nghĩa là “một ngàn sĩ quan”) được xây dựng gần
như cùng lúc với đền Shwedagon. Đền cao 132 feet dùng thờ
tóc Phật.
Thành
phố Bago, 80 km bắc Yangon là nơi đóng đô của 42 vị vua triều
đại Bago. Nơi này có những di tích quan trọng là:
Tượng
đài Kyaik Pun là sự ghép của 4 hình tạc Phật khổng lồ
nhìn về 4 hướng. Nằm gần dường nối Yangon-Bago. Tượng
đài được xây bởi vua Zedi năm 1467 chưa bị huỷ hoại.
Chùa
Shwemawdaw, đây là chùa cổ nhất Bago có hơn 1000 năm tuổi,
cao 114 mét và có thờ hai cọng tóc Phật trong bảo tháp.
Trung
Tâm Phật giáo Bagan, hay pagan. Thành phố cổ này thuộc vùng
Trung Miến nằm về phiá tả ngạn sông Irrawaddy. Đây là nơi
được các nhà khảo cổ cho là có nhiều di chỉ nhất thế
giới mà chính yếu là di chỉ Phật giáo. Các vua ở nơi dây
từ thế kỉ 11 tới thế kỉ 13 đã cho xây hàng ngàn chùa
tháp. Anawrahta (1044-1077), vị vua đầu tiên, trở thành một
Phật tử phái Thevarada sau khi hành hương đến Sri Lanka và
ông đã chuyển xứ Bagan theo Phật giáo. Đến năm 1287 thì
triều đại này sụp đổ bởi quân Mông Cổ và thành phố
Bagan bị xoá sổ.
Nhiều
đền đài ở đây đặc trưng cho các kiến trúc Phật giáo.
Tháp Shwezigon là tháp duy nhất phủ vàng trở thành kiểu mẫu
cho nhiều đền tháp sau này.
Đền
Ananda, đây là một trong những ngôi đền còn nguyên vẹn nhất
được xây bởi Kyansittha trong năm 1090. Nó là biểu tượng
cho năng lực trí huệ vô biên của Phật. Ngôi tháp ở trung
tâm khu đền có mặt cắt ngang hình vuông, độ cao 175 feet.
Trong trung tâm của khối là 4 ảnh Phật cao 31 feet quay về
bốn hướng chính: Kakusanda (Phật Ca La Tôn Đại) hướng bắc,
Konagamana (Phật Kim Tịch) hướng đông, Kassapa (Phật Ca Diếp)
hướng nam và Gotama (Phật Cồ Đàm) hướng tây.
Tháp
Maha Bodhi, đây là ngôi tháp rập lại theo khuôn mẫu của tháp
Bodhgaya và đã được đặt cùng tên “Bồ Đề Đạo Tràng”
được xây trong triều vua Nadaungmya (1211-1234). Tương truyền,
chính những người thợ xây tháp này đã được gửi sang
Ấn Độ để phục hồi lại ngôi bảo tháp nguyên thuỷ Bodh
Gaya.
Ngoài
ra nơi đây còn có các tháp như là Bupaya (850), Nathlaung Kyaung
(931), Nga-kywe-na-daung (khoảng thế kỷ thứ 9), Shwezigon Paya
(cuối thế kỷ 11), Pahtothamya…
6.7
Trung Hoa
Phật
giáo phát triển rất sớm ở Trung Hoa. Do địa bàn rộng lớn
nên có nhiều di tích liên quan đến lịch sử Phật giáo. Đáng
kể là:
Tượng
Phật lớn nhất thế giới cao 71m được tạc
trong
núi đá từ 713, công trình mất 90 năm mới xong
Nhà
thơ Tô Đông Pha, Một Phật tử đời Tống có viết bài
thơ về Lô Sơn như sau
Lô
sơn yên tỏa Chiết Giang triều,
Vị
đáo bình sinh hận bất tiêu.
Đáo
đắc bản lai vô biệt sự,
Lô
sơn yên tỏa Chiết Giang triều.
鑪山煙鎖浙江潮
未
到 平生恨不 消
到得本來無別事
鑪山煙鎖浙江潮
Dịch
nghiã: (theo Tuệ Sỹ):
Mù
tỏa Lô sơn sóng Triết giang
Khi
chưa đến đó hận muôn vàn
Đến
rồi về lại không gì lạ
Mù
tỏa Lô sơn sóng Triết giang
Chùa
Thiếu Lâm (Shaolin), được xây khoảng năm 540. Nơi đây, sơ
tổ phái Thiền tông Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma)
đã trụ trì và truyền đạo cho Huệ Khả cũng như dạy võ
tăng cường sức khoẻ cho những người phụ việc dịch kinh
Phật trong chùa. Chùa xây trên một phần rừng còn lại sau
khi cánh rừng này đã bị cháy (Thiếu Lâm có nghĩa là rừng
non) trên núi Tung sơn (Songshan) tỉnh Hà Nam. Ngôi chùa sau này
đã không còn giữ được tinh thần Phật giáo ban đầu bởi
ảnh hưởng của Lão giáo. Ngôi chùa nguyên thuỷ đã hoàn
toàn bị phá huỷ trong thời gian nội chiến giữa quân đội
Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông. Trước đó nó đã
bị đốt cháy nhiều lần do chiến tranh.
Nga
Mi Sơn (Emei) ở phía nam tỉnh Tứ Xuyên, dãy núi này có đến
hàng trăm ngôi chùa và chùa lớn nhất kiến trúc bằng gỗ
là Baoguo được xây vào thế kỷ 16. Phật giáo truyền tới
Tứ Xuyên từ thế kỉ thứ 1. Truyền thuyết cho rằng núi
Nga Mi là nơi tu luyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Pho tượng Phật
lớn nhất thế giới cũng ở tại đây, nó được đục vào
trong núi Lư sơn (Leshan) cao 71 mét được bắt đầu khởi công
năm 713 và xong năm 803 (90 năm).
Ngũ
Đài Sơn (Wutai), tỉnh Sơn Tây. Nơi đây từ đời nhà Hán
(25-220), có nhiều ngôi chùa được đục vào trong núi. Nơi
này được tin là chỗ mà Văn Thù Bồ Tát hóa thân. Hiện
nay vẫn còn khoảng 47 ngôi chùa còn nguyên vẹn. Tổng cộng
có đến hàng trăm ngàn tượng và hình vẽ Phật lớn nhỏ.
Hai ngôi chùa cổ quan trọng nhất ở đây là Nanchan (1200 tuổi)
và Foguang (được bắt đầu xây từ thế kỉ thứ 7).
Cửu
Hoa Sơn (Jiuhua) — chữ Jinhua nghĩa là “9 toà sen” — tỉnh An
Huy, nơi này theo truyền thuyết là chỗ mà Địa Tạng Vương
Bồ Tát hóa thân. Chùa cổ nhất nơi đây là Huacheng.
Phổ
Đà Sơn (Putuo) nằm trên đảo nhỏ gần Thượng Hải thuộc
tỉnh Triết Giang, là nơi Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện.
Hai chùa lớn là Pháp Vũ Thiền Tự và Phổ Tế Thiền Tự
Động
Đôn Hoàng (Dunhuang) tại tỉnh Cam Túc nằm trên con đường
tơ lụa. Tại đây có vài chục thạch động mà bên trong được
tạc tượng, vẽ tranh hay kinh văn Phật giáo bằng nghiều thứ
tiếng mà đa phần là tiếng Hán có từ thời Wei đến đời
Song.
Tên
của một hang động chính là Mogao (Mạc Cao) được Le Zun tìm
thấy và khởi đầu việc tạc tượng Phật nhằm ghi nhớ
lại sự việc ông ta thấy ánh hào quang như của nghìn vị
phật phát ra tại đó.
Ngoài
ra còn có động Long Môn (Lung-men) tại tỉnh Hồ Nam và động
Vân Cương (Yungang hay Yun-Kang) tại tỉnh Sơn Tây (Datong) cũng
có các kiến trúc hay nghệ thuật Phật giáo nổi tiếng.
6.8
Việt Nam
Có
nhiều bằng chứng cho thấy Phật giáo du nhập vào Việt Nam
vào thế kỉ thứ 1, sớm hơn cả Trung Hoa. Tuy nhiên, Việt
Nam cũng như các nước lân bang khó tránh khỏi nhiều ảnh
hưởng về văn hoá và truyền thống tôn giáo của Trung Hoa.
Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh với ngoại
bang và những lần nội chiến đã có hệ quả tất yếu là
hầu hết các công trình kiến trúc đặc sắc nói chung và
Phật giáo nói riêng bị huỷ hoại phần lớn. Chưa kể ngay
cả trong thời bình các phù điêu tượng khắc hay nghệ thuật
cổ Phật giáo Việt Nam cũng đã bị thất thoát ra nước ngoài.
Hiện tại các vùng còn lại những di chỉ quan trọng là:

Chùa
Dâu tỉnh Bắc Ninh xây khoảng thế kỉ thứ 3, tại trung tâm
Phật giáo
Luy
Lâu Việt Nam
Bắc
Ninh với trung tâm Phật giáo Luy Lâu (hay Liên Lâu). Đây là
trung tâm Phật giáo lớn của quận Giao Chỉ vào thế kỉ thứ
1. Còn sót lại tại đây có:
Chùa
Dâu, còn có tên là Diên Ứng, ở làng Dâu. Ngôi chùa cổ nhất
Việt Nam hiện nay, được xây vào đầu thế kỷ thứ 3. Cuối
thế kỷ thứ 4, Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi đã thuyết pháp
tại chùa này, lập nên thiền phái đầu tiên ở Việt Nam.
Chùa được ông Mạc Đĩnh Chi dựng lại với qui mô lớn vào
thế kỷ 14, và trùng tu nhiều lần ở các thế kỷ sau.
Chùa
Bút Tháp, có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278), xây lại
vào năm 1646-1647 tức là thời nhà Hậu Lê – thế kỷ 17. Chùa
có tên nguyên thuỷ ghi trên bia dựng vào năm 1646 là “Ninh Phúc
Tự”. Theo Phật sử Việt Nam thì thiền sư Chuyết Chuyết,
người để lại nhục thân không bị thối rữa cho đến ngày
nay, đã trụ trì tại chùa này (viên tịch năm 1644).
Chùa
Phật Tích, nằm trên sườn nam núi Phật Tích, được khởi
công vào năm 1057. Qua các cuộc chiến tranh chùa này đã bị
hư hại nhiều lần và được nhiều lần trùng tu. Theo các
tin tức gần đây (năm 2004-2005) thì nhục thân của thiền
sư Chuyết Chuyết được đặt tại chùa này.
Hà
Nội: (Tên cũ Thăng Long) Là thủ đô lâu đời của nước
Việt, Phật giáo đã từng là quốc giáo nên nơi này một
thời lâu dài là trung tâm Phật giáo lớn. Các di chỉ Phật
giáo còn lại đáng kể là:
Chùa
Trấn Quốc, đây là ngôi chùa cổ nhất Hà Nội. Tương truyền
chùa được xây vào đời Lý Nam Đế (544-548) với tên gọi
“Khai Quốc”. Sau này, tên chùa thay đổi nhiều lần như “An
Quốc” thời Lê Thánh Tông (1434-1442), “Trấn Quốc” năm 1628,
“Trấn Bắc” năm 1844 và nay chùa Trấn Quốc. Chùa cũng đã
có nhiều đợt trùng tu. Kiến trúc còn giữ được đến nay
là từ cuộc trùng tu của vua Gia Long năm 1815, chùa chiếm diện
tích hơn 3000 mét vuông.
Chùa
Báo Ân, xây thời nhà Trần, là một trong những trung tâm lớn
nhất của Thiền phái Trúc Lâm, nơi vua Trần Nhân Tông, các
thiền sư Pháp Loa và Huyền Quang đều đã từng trụ trì.
Ngôi chùa từng tồn tại trong một thời gian dài, từ thế
kỷ 8 đến thế kỷ 15. Đến nay Chùa Báo Ân ở Gia Lâm hiện
chỉ còn trong quy mô rất nhỏ.
Chùa
Một Cột, tức chùa Diên Hựu nằm giữa Hà Nội. Theo truyền
thuyết, vua Lý Thái Tông (1028-1054) nằm mộng thấy Phật Quan
Thế Âm dắt vua lên tòa sen. Sau đó, Sư Thiền Tuệ khuyên
vua xây chùa, dựng cột đá giữa ao, đặt tòa sen của Phật
trên cột như đã thấy trong chiêm bao. Đó là vào năm 1049.
Chùa Một Cột đã bị phá huỷ và được trùng tu nhiều lần
trong lịch sử. Đài hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 mét,
mái cong, dựng trên một cột cao 4 mét, đường kính 1,20 mét
gồm 2 trụ đá ghép chồng lên nhau liền thành một khối.
Quảng
Ninh: Núi Yên tử thuộc tỉnh này đã là nơi Phát xuất của
phái thiền Yên Tử. Nơi đây là một quần thể nhiều chùa
trong đó có chùa Hoa Yên (tên cũ là Vân Yên – thế kỉ 13)
nơi mà các tổ phái Yên Tử trụ trì. Ngôi tháp nổi trội
nhất là Tháp Tổ, bằng đá, 6 tầng. Còn lại là các chùa
Quỳnh Lâm, Long Động, Giải Oan, Bảo Sái, Một Mái và chùa
Đồng là chùa cuối nằm trên đỉnh Yên Tử.
Hà
Tây:
Chùa
Đậu. Tương truyền chùa có từ đầu công nguyên, nhưng theo
văn bia ở chùa thì chùa được dựng từ đời nhà Lý, theo
kiểu “Nội công ngoại quốc”. Chùa còn lưu lại nhiều di vật
và đồ thờ cổ có giá trị như đôi rồng đá, khánh, chuông…
Đặc biệt, trong chùa có hai pho tượng là nhục thân của
hai vị thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường đã trụ
trì chùa vào khoảng thế kỷ 17.
Chùa
Thầy, còn được gọi là chùa Cả, tọa lạc ở chân núi
Sài Sơn. Chùa được dựng từ đời vua Lý Nhân Tông (1072-1128).
Lúc đầu chùa chỉ là một thảo am nhỏ của thiền sư Từ
Đạo Hạnh. Sau đó, được mở rộng ra. Chùa xây theo hình
chữ “Tam” có ba lớp: Chùa Hạ, chùa Giữa, chùa Thượng. Lớp
ngoài cùng là nơi tế lễ, lớp giữa thờ phật, lớp trong
cùng thờ sư Từ Đạo Hạnh.
Di
chỉ văn hoá Óc-eo: Khu vực văn hoá Óc-eo trải rộng nhiều
tỉnh miền Tây và Đông Nam bộ, các di chỉ khai quật được
xác định là từ thế kỉ thứ 1 đến thế kỉ thứ 7. Trong
số các di vật tìm thấy có nhiều tượng Phật gỗ chứng
tỏ Phật giáo đã du nhập vào khu vực này từ rất sớm bằng
đưòng biển.
6.9
Triều Tiên
Đạo
Phật được truyền sang Triều Tiên khoảng cuối thế kỷ
thứ 4 (năm 372). Do lịch sử phát triển đặc thù, tại đây
có mặt đủ các tông phái lớn Thevarada, Mahayana (kể cả Zen)
và Vajrayana. Hiện nay, có đến 90% dân chúng theo Phật giáo.
Các di tích ở đây rất nhiều nhưng cũng bị tàn phá do chiến
tranh hay do sự cấm đoán hoạt động như là dưới triều
Joseon (1395-1910). Hơn nữa từ đầu thế kỷ 20 ở Bắc Hàn,
do chính sách tiêu diệt tôn giáo, các công trình Phật giáo
ở nơi này đã hoàn toàn bị huỷ hoại. Nam Hàn ngày nay có
khoảng 90% dân theo Phât giáo và có đến hàng chục ngàn chùa
chiền. Do đó, rất khó để liệt kê hay đánh giá hết các
công trình quan trọng ra. Ở đây chỉ hạn chế vài kiến trúc
Phật giáo tiêu biểu.
Nhóm
chùa Tam Bảo bao gồm
Tongdosa:
nằm trên đường nối hai thành phố Ulsan và Busan có từ giữa
thế kỷ thứ 7 (năm 646). Đây là ngôi chùa quan trọng nhất
ở bán đảo Triều Tiên được sư Jajang-yulsa khởi công. Chữ
“Tongdosa” theo tiếng Triều Tiên có nghĩa là “vuợt qua để
giác ngộ”. Chùa có lưu giữ một số mảnh xương Phật (Xá
Lợi Phật) trong ngôi tháp chính. Trước đây, nó đã từng
có đến hàng trăm công trình xây dựng nhỏ và hàng ngàn sư
cư ngụ. Sau đó, bộ phận lớn của chùa đã bị huỷ hoại
do quân Nhật trong thế chiến thứ 2, ngoại trừ toà tháp Daeungjeon.
Lần cuối chùa được tu sửa là vào đầu thế kỷ 17. Người
ta thường gọi đây là “chùa không Phật” vì nó không có bất
kì tượng Phật nào ở các cửa ra trong tầng trệt. Đối
với người Triều Tiên thì đây là “Bảo tự thứ nhất của
Hàn Quốc” (Korea’s first Jewel Temple) hay Phật Bảo tự.
Haeinsa:
ở Đông Nam Daegu, xây năm 802, được gọi là Pháp Bảo tự
(Dharma). Nơi này có chứa các bộ kinh điển Đại thừa (Mahayana
) gọi là “Triều Tiên Tam Bảo Kinh” (Tripitaka Koreana) nguyên
vẹn nhất thế giới bao gồm 52 triệu Hán tự (chữ cái Trung
Hoa) được khắc vào trong 81.258 khối gỗ và được làm vào
thế kỷ thứ 13. Chùa là trung tâm chính của “Hoa Nghiêm Tông”
(Avatamsaka hay Garland Sutra).
Songgwangsa:
nằm về phía Đông Gwangju, ban đầu chỉ là một chùa nhỏ
thời Silla. Đến cuối thế kỷ 12 thì được sư Chinul mở
rộng ra thành trung tâm thiền và được người Triều Tiên
mệnh danh là Tăng Bảo Tự. Chữ Songgwangsa có nghĩa là “thiền”.
Chùa có hơn 50 thiền đường cho tăng và 30 cho ni. Đây cũng
là Trung Tâm thiền quốc tế đầu tiên của Triều Tiên do
thiền sư Kusan sáng lập.
Bulguksa:
Được xây vào năm 535 với tên gọi cũ là Hwaeombeomnyusa. Ngôi
chùa nằm phiá Đông Daegu trên núi Doham gồm hơn 80 toà nhà
cùng với hai ngôi đền lớn là Shakyamuni và Tabotap. Tại đây
có chứa bản in cổ nhất thế giới là Tịnh Quang Đà La Ni
kinh (Pure Light Dharani Sutra). Chữ Bulguksa có nghĩa là “đất
Phật”. Ngoài ra ở đây cũng có pho tượng phật thiền Seokguram
có khoảng 1250 năm lịch sử. Chùa bị đốt năm 1592 bởi quân
đội Hideyoshi Toyotomi. Ngôi chùa hiện tại trùng tu trên nền
móng ngôi chùa cũ vào thập niên 1970.
Tượng
Phật Dược Sư nằm trên đỉnh núi Gwanbong
Ngoài
các công trình Phật giáo kể trên, ở Triều Tiên còn có các
kiến trúc Phật giáo khác không phải là các ngôi chùa như:
Sinse-dong:
tháp 7 tầng (xây vào khoảng thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ
thứ 10), nằm ở ngoại ô Andong, là ngôi tháp bằng đá lớn
nhất của Triều tiên. Tháp cao 7,75 mét đưuợc trang trí theo
cung cách 8 người bảo vệ của Phật giáo. Thân tháp làm bằng
những viên đá xám cỡ 24x14x6 cm chiếm 7,75 mét vuông.
Tượng
Phật Dược Sư (Gatbawi Buddha): được tạc vào thế kỷ thứ
9, nằm trên đỉnh núi Palgongsan (hay Gwanbong) ở Daegu. Điểm
đặc biệt là tượng Phật có đội nón dạng bất thường
dầy khoảng 15 cm và trên tay có cầm một siêu thuốc chữa
bệnh tượng trưng cho việc đẩy lui ma đạo. Pho tượng ngồi,
cao khoảng 4 mét. Đây là một trung điểm du lịch vì cảnh
trí đẹp. Để đến nơi du khách phải mất ít nhất 1 giờ
leo bộ
6.10
Thái Lan
Nhiều
người tin là Phật giáo đã truyền tới Thái Lan trong thời
gian vua Asoka ở Ấn đưa người đi truyền giáo vào thế kỷ
thứ 3 TCN. Một cách chắc chắn thì Phật giáo và Ấn Độ
giáo đã đến đây qua các ngõ giao thương đường biển hay
qua các nước lân bang như Miến Điện và Campuchia vào thế
kỷ thứ 6. Ngày nay, có đến 94% dân Thái theo Phật giáo. Các
di tích ở đây rất nhiều nhưng đa số được xây sau thế
kỉ 14. Những công trình hay trung tâm có giá trị lịch sử
lớn bao gồm:

Tháp
Phật giáo lớn nhất Phra Pathom, Nakhon Pathom, Thái
Phra
Pathom Chedi thuộc tỉnh Nakhon Pathom, 56 km tây Bangkok. (Chữ chedi
có nghĩa là “tháp”). Nakhon Pathon được xem là nơi xuất phát
đạo Phật đầu tiên ở Thái. Ngôi tháp Phra Pathom cao 120 m
với đáy tròn bán kính 233,5 m. Tháp hiện nay là được khởi
công trong thời vua Mongkut Rama IV (1804-1868) trong vòng 17 năm
nhằm bao bọc cho một tháp nhỏ hơn được cho là có từ hơn
2000 năm tuổi. Đây là tháp lớn nhất thế giới.
Wat
Mahathat (chữ wat có nghĩa là “đền” hay “chùa”). Đây là công
trình kiến trúc tiêu biểu cho ảnh hưởng của văn hoá Khmer
(giai đoạn nghệ thuật Tích Lan). Khu đền nằm ở trung tâm
thành phố Sukhothai thuộc về Ayutthaya có tổng cộng hơn 200
ngôi tháp. Cứ mỗi ngôi tháp lớn dạng đài sen sẽ được
vây quanh bởi 8 tháp nhỏ hơn. Đền này có lẽ xây vào năm
1374, nơi đây ngày trước được dùng để thờ mảnh xưong
Phật. Ngày nay thì tháp trung tâm đã bị đổ nát do thời
gian.
Ngoài
ra, tại Ayuttaya còn có các đền Phật nổi tiếng là Phra Si
Sanphet (xây năm 1448 với 3 ngôi tháp hình chuông úp là biểu
tượng cho Ayuttaya), Ratchaburana (xây vào thế kỉ 15), và Lokaya
Sutha (chưa xác định chính xác niên đại).
Trung
tâm Phật giáo Haripuchai, ngày nay thuộc về thành phố Chiang
Mai. Đây là trung Phật giáo lớn của Thái khoảng 1000 năm
trước. Hiện tại còn lại rất nhiều chùa tháp. Trong số
đó, có tháp Wat Chiang Man dựng năm 1306. Bên trong đền đặc
biệt có một bức tranh Phật được cho là mang về từ Tích
Lan 2000 năm trước đây và một tượng Phật bằng tinh thể
(crystal) lấy về từ Lopburi có khoảng 1800 năm tuổi.
Ngoài
ra, trung tâm Haripuchai còn các các đền Phật khác như là:
Chedi Luang (xây năm 1391), Chet Yot (xây cuối thế kỷ 15), Doi
Suthep (xây năm 1386), Phra Sing (xây năm 1345) và Wat Suan Dok (xây
vào thế kỷ 16).
6.11
Campuchia
Một
số thuyết cho rằng đạo Phật đã du nhập vào xứ Campuchia
vào thế kỉ thứ 3 TCN do kết quả của việc gởi các nhà
truyền đạo Phật giáo đi khắp nơi của vua Asoka. Tuy nhiên,
thuyết đáng tin cậy hơn là đạo Phật đã du nhập cùng lúc
với đạo Bà La Môn qua việc mở rộng giao thương với Ấn
Độ sớm nhất là vào thế kỷ thứ 1 TCN. Nhưng lúc đó đạo
Bà La Môn đã hưng thịnh hơn đạo Phật trong suốt thời gian
dài của triều đại Funan. Đến thế kỷ 12, vua Jayavarman II
đã cho xây dựng ngôi đền Hindu khổng lồ Angkor để thờ
thần Vishnu. Đền này mở rộng thành Angkor Wat. Nhưng đến
triều vua Jayavarman VII, trị vì từ 1181 đến 1215, Phật giáo
đã gần như thay thế hoàn toàn vai trò của Ấn Độ giáo
và vua Jayavarman VII đã xây một đền Phật giáo rất lớn
là Angkor Thom ở gần đền Angkor Wat, đã bị làm hư hại bởi
quân đội Chàm.
Cổng
đền Angkor Thom — sự pha trộn văn hoá Hindu vào một kiến
trúc Phật giáo ở Kampuchia
Angkor
Thom là một công trình Phật giáo lớn nhất ở Campuchia được
xây vào cuối thế kỷ 12, nay thuộc về tỉnh Siem Reap. Nó
có đặc điểm là chịu rất nhiều ảnh hưởng của kiến
trúc Bà La Môn. Ngay sau khi xây xong ít lâu thì công trình Angkor
lại bị sự tấn công, đốt phá và chiếm đóng của quân
Chàm. Đền này có hào nước bao bọc rộng 100 mét cặp theo
bốn vách tường cao 8 mét làm thành một khu vực hình vuông
mỗi cạnh khoảng 3 km theo các hướng chính. Các cổng lớn
được trổ ngay trung điểm của các bức tường cho các hướng
Tây, Nam và Bắc có các cầu bắc qua. Riêng hướng Đông có
hai cổng vào. Các đường dẫn tới cổng vào có các dãy 54
hình tượng bằng đá.
6.11
Nhật Bản
Đạo
Phật chính thức du nhập vào Nhật Bản từ thế kỉ thứ
6. Hai trung tâm Phật giáo tại đây là cố đô Nara, Kyoto, và
Tokyo
Vườn
sỏi kiến tạo do thực hành thiền – chùa Ryoan-ji Nhật
Nara
nằm ở điểm cuối của con đường tơ lụa (the Silk Road)
với các chùa:
Horyu-ji
xây năm 607, đây là chùa cổ nhất bằng gỗ còn sót lại
trên thế giới. Thiên tai đã huỷ đi phiên bản đầu tiên
của chùa. Nó được xây lại vào khoảng 710. Gian tháp chính
của nó có đến 5 tầng.
Chùa
Kokufuji xây năm 730, có tháp năm tầng bằng gỗ cao nhất nước
Nhật (50 m), trùng tu năm 1426 và chùa Todaiji (760).
Kyoto
tập trung khá nhiều chùa cổ nhưng đa số xây từ thế kỷ
14 trở đi. Quan trọng là các chùa Kiyomizudera (dựng khoảng
798, trùng tu lại năm 1633), Ninnaji (xây năm 888, trùng tu nhiều
từ thế kỷ 17 trở đi), Byodoin (1053) và chùa Ryoan-ji, dựng
năm 1450, nổi tiếng với vườn sỏi kiến tạo do việc thực
hành thiền, chùa Chionin của Tịnh Độ tông dựng năm 1234
nhưng phiên bản còn lại xây từ thế kỉ 17.
Tokyo
với chùa quan trọng nhất là Sensoji (từ thế kỷ thứ 7),
được xây dựng do việc 3 ngư phủ tìm thấy ảnh nhỏ của
Quan Thế Âm Bồ Tát (Kannon) trong luới của họ.
7. Phật giáo
ngày nay
Theo
số liệu thống kê của Adherents thì số người theo đạo
Phật trên toàn thế giới là 376 triệu (vào năm 2005), chiếm
khoảng 6% dân số thế giới.
Cũng
theo thống kê Adherents, 10 nước có đông người theo Phật
giáo nhất là:
Trung
Quốc 102,000,000 người
Nhật
Bản 89,650,000 người
Thái
Lan 55,480,000 người
Việt
Nam 49,690,000 người
Myanma
41,610,000 người
Sri
Lanka 12,540,000 người
Hàn
Quốc 10,920,000 người
Đài
Loan 9,150,000 người
Campuchia
9,130,000 người
Ấn
Độ 7,000,000 người
Đạo
Phật ở các nước Tây phương:
Hoa
Kỳ: Theo World Almanac năm 2004 có khoảng 2-3 triệu người theo
đạo Phật. Đạo này đứng hàng thứ 5 ở đây. Tỉ lệ tăng
số người theo đạo từ 1990 đến 2000 là 170%.
Theo
Australian Bureau of Statistics của Úc thì số người theo đạo
Phật có tỉ lệ tăng nhanh nhất nước này từ 1996 đến 2001
(hơn 150%). Năm 2002 có đến hơn 360,000 người theo Phật giáo.
Theo
Pluralism Project thì trong năm 1997 ở Pháp có khoảng 650,000 và
ở Anh có 180,000 tín đồ Phật giáo.
8.Tóm
tắt các diễn biến trong lịch sử Phật giáo
Sự
phát triển của Phật giáo thời vua Asoka
566-486
TCN: Siddhartha Gautama đản sinh. Những nhiên cứu gần đây cho
rằng Phật ra đời khoảng 490-410 TCN. Do đó, thời gian tính
trong 500 năm đầu kể từ khi ra đời của Phật giáo sẽ không
được chính xác, sự kiện chỉ ghi lại khoảng chừng.
530
TCN: Thích Ca giác ngộ (ở tuổi 36) và thuyết pháp trong khoảng
45 năm.
486
TCN: Thích Ca tịch diệt.
486
TCN: Hội nghị kết tập kinh điển lần I ở Rajaghgraha khoảng
500 tì khưu, do Mahakassapa chủ trì nhằm góp nhặt lại các
bài giảng của Thích Ca. Hình thành Giới tạng và Kinh tạng.
Khoảng
443-379 TCN: Hội nghị kết tập kinh điển lần II ở Vesali,
bàn về một số điểm dị biệt trong giới luật đã nảy
sinh.
297
TCN: Vua Asoka (274-236 TCN) cải đạo sang Phật giáo; đạo Phật
phát triển thành một quốc giáo và bắt đầu lan truyền ra
khỏi Ấn Độ.
250
TCN (308 TCN?): Hội nghị kết tập lần thứ III dưới sự bảo
trợ của vua Asoka ở Pataliputra, Ấn Độ. Chủ trì bởi Moggaliputta
Tissa. Bàn thảo và ngăn ngừa sự phân hoá trong giáo pháp.
Lần đầu tiên ra đời đủ Tam tạng kinh. Các nhà truyền
giảng Phật giáo được vua Asoka gửi tới Tích Lan (Ceylon,
nay là Sri Lanka), Kanara, Karnataka, Kashmir, vùng Hy Mã Lạp Sơn,
Miến Điện (Burma, nay là Myanma), Afghanistan, ngay cả đến Ai
Cập, Macedonia và Cyrene.
240
TCN Tích Lan: Thành lập cộng đồng Theravada đầu tiên. Công
chúa Sanghamitta, con vua Asoka, thành công chiết nhánh cây bồ
đề, chỗ Phật thành đạo, về trồng tại Tích Lan.
94
TCN Tích Lan: Kỳ kết tập kinh điển lần thứ IV của Theravada
ở mũi Aloka trong thành Malaya.
Năm
35 Tích Lan: Hình thành sự phân phái giữa Mahavira và Abhayagiri
Vihara ở Tích Lan.
Năm
65 Trung Quốc: Di chỉ sớm nhất chứng tỏ Phật giáo thâm
nhập vào Trung Hoa.
Thế
kỉ thứ 1: Kỳ kết tập lần kinh điển lần VI tại Jalandhar,
Ấn Độ được vua Kaniska bảo trợ. Các nhà sư từ Tích Lan
truyền Phật giáo Theravada đến Thái Lan và Miến Điện. Đạo
Phật xuất hiện tại Việt Nam cùng ở thời điểm này.
Cuối
thế kỉ thứ nhất: Đạo Phật đến Campuchia.
Thế
kỉ thứ 2: Năm 200 ở Ấn Độ, Đại học Phật giáo ở Nalanda
ra đời và trở thành trung tâm Phật học của thế giới hơn
1000 năm (có tài liệu cho rằng đại học này ra đời vào
đầu thế kỉ thứ 5). Cùng thời gian này hình thành phái Mahayana
bắt đầu tách ra từ Theravada.
Hậu
bán Thế kỉ thứ 2: Đạo sư Nagarjuna (Long Thọ); được biết
đến do các thuyết giảng về tính không. (Thật sự tính không
đã được Thích Ca giảng dạy cho Ananda từ khi còn tại thế
nhưng tới đạo sư Long Thọ thì khái niệm này được làm
nổi bật lên và cũng định nghĩa rõ hơn về Mahayana).
Thế
kỉ thứ 3: đạo Phật lan tới Ba Tư (Persia) qua ngõ buôn bán.
Năm
320: Phái Vajrayana hình thành và phát triển ở Ấn Độ từ
cơ sở Mahayana.
Thế
kỉ thứ 4: Đạo sư Vasubandhu (Thế Thân) làm nổi bật khái
niệm “duy tâm” (mind-only) và niệm Phật A Di Đà (Amitabha) cho
sự tái sinh miền Tịnh Độ (Pure Land). Tịnh Độ tông hình
thành từ thời gian này. Ở Nepal hình thành sự tồn tại giữa
hai đạo Phật giáo và Ấn giáo.
334-416:
Sư Huệ Viễn (Hui-yuan), đem Tịnh Độ tông vào Trung Hoa (Bạch
Liên Hội).
372:
Phật giáo thâm nhập đến bán đảo Triều Tiên.
390:
Phái Pháp Hoa ra đời tại Trung Hoa.
Thế
kỉ thứ 5: Mahayana du nhập vào Indonesia và Philippines.
499:
Nhất Thiết Hữu Bộ Tông (Sarvàstivàdah) hình thành ở Ấn
Độ. (Có tài liệu cho rằng Nhất thiết hữu bộ hình thành
ngay sau lần Kết tập Kinh điển thứ II.)
526:
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) từ Ấn Độ đến Trung Hoa. Ông
là sơ tổ của Thiền tông (Ch’an hay Zen) và tổ sư của phái
võ Thiếu Lâm.
552:
Đạo Phật đến Nhật Bản và trở thành quốc giáo.
Thế
kỉ thứ 6: Thiên Thai tông (T’ien T’ai) được sư Trí Giả (Chih-I)thành
lập.
641:
Đạo Phật du nhập vào Tây Tạng (Tibet).
Nửa
sau thế kỉ thứ 7: Sư Pháp Tạng (Fa-tsang) thành lập phái
Hoa Nghiêm.
Cùng
trong cuối thế kỉ thứ 7: Thiền sư Huệ Năng phát triển
Thiền tông mạnh ở Trung Hoa. Trong khi đó, ở Kashmir và Tây
Tạng Mật tông phát trển mạnh.
Từ
năm 713: Nhiều Thiền phái hình thành trong đó có Lâm Tế (Lin-Chi)
với khái niệm đốn ngộ và công án (koan), Tào Động (Tsao-t’ung).
Thế
kỉ thứ 8: Cổ Mật tông ra đời tại Tây Tạng.
Thế
kỉ thứ 9: Chân Ngôn tông (Shigon) ra đời ở Nhật từ đạo
sư Kukai.
Từ
giữa thế kỉ thứ 9: Angkor Wat được xây dựng ở Campuchia.
Đạo Lão phát triển mạnh làm ảnh hưởng nhiều đến đạo
Phật ở đó. Trong khi đó, đạo Hồi đã bắt đầu thay thế
cho đạo Phật ở nhiều nơi.
Thế
kỉ 11 tới thế kỉ 13: Ở Ấn Độ đạo Hồi đã thâm nhập
mạnh; những người cực đoan đã tiêu huỷ nhiều kiến trúc
cũng như tổ chức Phật giáo. Năm 1193 họ chiếm Magahda tàn
phá các công trình và các đại học Phật giáo như Nalanda
và Vikramasila.
Thế
kỉ 13: Đạo Phật phát triển nhiều tông phái ở Nhật đặc
biệt là các phái Thiền tông (Tào Động và Lâm Tế) cũng
như Tịnh Độ tông. Nhật Liên tông cũng ra đời tại đây
do đạo sư Nichiren Daishi (1222-1282). Cũng trong giai đoạn này,
Phật giáo Theravada du nhập tới Lào, Phật giáo Tây Tạng thâm
nhập vào Mông Cổ.
Thế
kỉ 14: Gelugpa (phái Nón Vàng) hình thành ở Tây Tạng do Tsong-kha-pa.
Thế
kỉ 15: Sự ra đời của nhiều giáo phái Ấn giáo đánh dấu
sự suy tàn cuối của Phật giáo tại Nam Ấn. Ở Tây Tạng
thì dòng Dalai Lama (Đạt Lai Lạt Ma) bắt đầu.
Thế
kỉ 16: Bồ Đào Nha chiếm Tích Lan, đạo Phật không còn là
quốc giáo và hầu như bị biến mất do hệ quả của các
hành động phân biệt tôn giáo như phá huỷ chùa chiền để
dựng nhà thờ, hầu hết các sư sãi phải đào tị. Mãi cho
đến thế kỉ 17, với ảnh hưởng của Hà Lan thì đạo Phật
mới bắt đầu du nhập lại nơi này từ Miến Điện. Cũng
trong thời gian này, thiền phái Obaku được ra đời do đạo
sư Ingen (1592-1673). (Tuy nhiên có tài liệu cho rằng Obaku đuợc
sư Yin-Yuan Lung-ch’i (Ẩn Nguyên Long Khí)- nguyên thuộc phái
Lâm Tế – sáng lập từ 1654 tại Nhật.
1862:
Lần đầu tiên Kinh Pháp cú (Dhammapada) được dịch ra tiếng
Đức.
1871:
Bắt đầu kỳ kết tập kinh điển lần thứ V ở thủ đô
Miến Điện là Mandalay. Kinh điển Pali đã được khắc trên
729 phiến đá hoa cương.
Cũng
trong giữa sau thế kỉ 19, khi xuất hiện cộng đồng người
Hoa tại Bắc Mỹ thì đạo Phật cũng thâm nhập vào đây và
một phần của kinh Liên Hoa được dịch ra tiếng Anh.
Năm
1905: Đạo sư Soyen Shaku là người đầu tiên dạy Thiền tại
Bắc Mỹ.
Từ
năm 1920: Chủ nghĩa cộng sản công khai tìm cách dẹp bỏ tôn
giáo đặc biệt bắt đầu là đạo Phật tại Mông Cổ.
1950:
Trung Quốc chiếm Tây Tạng bắt đầu công việc đàn áp phá
huỷ các chùa chiền Phật giáo ở đây. Đến 1959 thì vị
Dalai Lama của Tây Tạng phải tị nạn tại Ấn Độ và Phật
giáo Tây Tạng lại được phát triển mạnh ở các nước
Tây phương. Sau đó Dalai Lama được giải Nobel hoà bình năm
1989.
1954:
Hội nghi kết tập kinh lần thứ VI tại Miến Điện ở Ngưỡng
Quảng (Rangoon).
1966:
Tu viện Theravada đầu tiên xây dựng ở Hoa Kỳ.
9. Tài liệu
Tham khảo
Tiếng
Việt
Lịch
sử kết tập kinh luật — Thích Phước Sơn
Phật
Giáo Khắp Thế Giới. Thích Nguyên Tạng
Sơ
lược lịch sử Phật giáo Ấn độ sau thời đức Phật —
Thích Tâm Hải
Cẩm
Nang Du Lịch Chấm Com
Kinh
đô cổ nước Việt: Dấu tích những đô thị cổ
CÁC
HANG THỜ PHẬT NỒI TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI -Văn Hưng
Hành
hương Trung Quốc
Hang
Mạc Cao Đôn Hoàng – Trung Quốc
Những
Thánh Địa Phật Giáo tại Ấn Độ -Thích nữ Minh Tâm dịch
TINH
HOA và SỰ PHÁT TRIỂN của ĐẠO PHẬT – Edward Conze
Sơ
lược lịch sử hình thành và phát triển các tông phái Phật
giáo Trung Quốc — Thích Tâm Khanh
LỊCH
SỬ KẾT TẬP PHÁP TẠNG LẦN THỨ V – VI – Thích Phước Sơn
Thăng
Trầm Của Phật Giáo Tại A-Phú-Hãn -Đặng Tấn Hậu
Xã
Hội Ấn Độ Trước Khi Phật Ra Đời — Thích Thiền Tâm
Phật
giáo và Văn Hóa Ấn Độ –Dr. Bimlendra Kumar
Đạo
Phật Nguyên Thủy và Đạo Phật Đại Thừa – W. Rahula
Đại
Cương Lịch Sử Phật Gíao Thế Giới — Andrew Skilton
Tiếng
Anh
The
History of Buddhism — Dr. C. George Boeree — Shippensburg University
History
of Buddhism của trang about
Buddhism
Timeline
Dictionary
of the History of Ideas
Timeline
of Buddhist history
The
Buddhist Hand Book – A Complete Guide to Buddhist Schools, Teaching, Practice,
and History. John Snelling. Barnes & Nobles. 1998. ISBN 0760710287
Buddhism
and Hinduism
Historical
Sketch of Buddhism and Islam in Afghanistan
Sacred
Island – A Buddhist Pilgrim’s Guide to Sri Lanka
Buddhism
and Its Spread Along the Silk Road
History
of the Shaolin Temples
Travel
China Guide
Pagan,
Myanmar
Bagan
(Pagan)
Buddhism
in Myanmar A Short History – Roger Bischoff
Myanmar
travel information
Korean
Buddhism
Survey
of Korean Buddhism and Temples – Brian Barry
Asian
Historical Architecture
The
Buddhist World
HISTORY
OF BUDDHISM IN KINGDOM OF CAMBODIA
History
of Cambodia
Angkor
History
Angkor
Thom
Lưu
ý: bài viết này đã được tác giả khởi đăng trên wikipedia.org
với vài chi tiết nhỏ khác nhau
Namo
shakyamuni
Làng
Đậu
Discussion about this post