LÒNG TỪ BI
Toàn
Không
Quán Từ Bi để trừ lòng sân giận hận thù
Từ là cho vui, Bi là cứu khổ diệt khổ, Từ Bi là cho vui diệt khổ cho tất cả
mọi loài chúng sanh, đó là hành động lợi tha cứu đời.
Từ
Bi không phải là thụ động yếm thế nhu nhược mà nhiều người lầm tưởng rằng hễ có
lòng từ bi, ai muốn làm gì dù phải trái cũng im lặng nghe theo. Thực ra lòng từ
bi khiến người ta vận dụng tâm tư khả năng phương tiện để làm cho mọi người mọi
loài thoát khổ được vui, Từ Bi bao hàm ý nghĩa rộng lớn vô bờ bến, vì cho vui
diệt khổ không những về vật chất mà cả tinh thần, không những với loài người mà
còn bao gồm tất cả chúng sinh.
I). Tại sao phải có lòng Từ Bi?
Tính
sân giận oán hờn của con người là một nguyên nhân tai hại lớn gây ra khổ đau
cho người và muôn vật. Từ việc nhỏ bé gây đổ vỡ mất hạnh phúc giữa những người
thân như vợ chồng anh em, họ hàng bạn bè, cho đến việc lớn như chém giết khủng
bố chiến tranh giữa các phe phái, các nước, màu da, tôn giáo, v.v… Tất cả đều
do sân hận mà ra, nó nằm sẵn ở trong mỗi con người, có dịp là nó bùng nổ. Vì
thế từ thời tiền cổ đến bây giờ, giết chóc chiến tranh luôn luôn xảy ra không ở
nơi này thì ở nơi khác, không sao dứt được cảnh khổ; Phật giáo có phương cách
dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc
diệt khổ cho vui, vì thế chúng ta cần “quán Từ Bi” là vậy.
II). Từ Bi cho vui cứu khổ ra sao?
Người có lòng từ bi không bao giờ sát sinh người và vật, người Phật tử
chân chính không giết súc vật để ăn, không giết súc vật để vui như đi săn bắn
câu cá; chính nhờ lòng từ bi mà cuộc đời thêm vui bớt khổ, sự chém giết giảm đi
bớt tàn khốc, người và muôn vật coi nhau như anh em họ hàng.
Nhưng chỉ cho vui và diệt khổ trong hiện tại, chưa đúng với ý nghĩa của
nó, người Phật tử còn phải nghĩ đến cho vui và diệt khổ tương lai nữa, tức là
phải gây nhân vui cho tương lai và diệt nhân khổ cho tương lai, làm sao thực
hành từ bi ở diểm này? Mọi người đều biết tâm ý là nguồn gốc của mọi hành động
thiện ác trong ý khẩu thân, ý điều khiển khẩu nói năng thân hành đông thiện ác.
Do đó, muốn gây nhân vui cho tương lai và diệt nhân khổ cho tương lai chúng ta
phải tu tâm ý trước nhất. Tâm ý tu rồi thì khẩu thân theo ý mà nói làm những
việc tốt, bỏ nói làm các việc ác, vì thế phải chú trọng tu tâm dưỡng tánh là
vậy.
III). Từ Bi và Bác Ái khác nhau chỗ nào?
Có
người cho rằng Bác Ái rộng hơn Từ Bi, có người cho rằng Bác Ái cũng giống như
Từ Bi; để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta lần lượt phân tích ý nghĩa của hai danh
từ này:
Bác Ái: Bác nghĩa là rộng,
lớn, Ái là yêu thương, Bác Ái là lòng thương mọi người; người có lòng Bác Ái
thương yêu mọi người, thường cứu giúp người hoạn nạn, ốm đau, khuyết tật, bất
bình thường, nghèo khổ từ vật chất đến tinh thần.
Từ Bi, như trên đã giải
thích, Từ Bi là cho vui diệt khổ cho mọi loài chúng sanh, nó bao gồm sáu cõi
Trời, Người, A Tu La (Thần), Súc Sinh, Ngạ Qủy, Địa Ngục. Nó rộng lớn bao la
như thế chứ không chỉ một loài người, nhưng chúng ta thường sống chung và đụng
chạm với loài Súc Sinh vì chúng ta chỉ có mắt thịt không trông thấy bốn loài
kia. Từ Bi còn có ý nghĩa cho vui diệt khổ tất cả nguồn gốc ngọn ngành, chứ
không phải chỉ xoa dịu cái hiện tại mà thôi, như người làm vườn không phải chỉ
cắt các cây cỏ dại mọc hoang, mà phải nhổ tận gốc rễ của cây cỏ dại không cho mọc
lại nữa.
Như
thế Từ Bi về không gian bao gồm tất cả mọi loài trong sáu cõi, về thời gian bao
gồm cả hiện tại và tương lai; còn Bác Ái về không gian chỉ chú trọng một loài
người, về thời gian chỉ chú trọng trong hiện tại mà thôi. Nói một cách khác, Từ
Bi bao gồm hết nghĩa của Bác Ái, còn Bác Ái không trùm được nghĩa lý Từ Bi rộng
lớn.
Cũng
cần phân biệt lòng từ bi và lòng yêu thương quyến luyến khác nhau mà đức Đạt
Lai Lat Ma thứ 14 đã nói: “Tình yêu thương khắn khít giữa vợ chồng, cha mẹ, anh
chị em, họ hàng, bạn bè thân thiết v.v…thường phát xuất từ lòng quyến luyến;
khi lòng quyến luyến thay đổi, lòng yêu thương cũng thay đổi hay biến mất luôn,
đây không phải là tình yêu thương chân thực.
Tình
yêu thương chân thật không phát xuất từ sự quyến luyến, mà phát xuất từ lòng vị
tha, như khi thương xót hay động lòng trắc ẩn đối với người nghèo khổ bệnh tật;
trong trường hợp này, lòng từ bi của bạn sẽ tồn tại như một sự đáp ứng cho con
người bị đau khổ”.
IV). Làm sao để có lòng từ bi?
Muốn
huân tập được lòng từ bi, chúng ta phải dùng phương pháp quán tưởng, có ba cách
sau đây:
1). Quán chúng sinh duyên từ (quán sát cảnh đau khổ của chúng sanh
để phát sinh ra lòng từ bi):
Đây
là phương pháp dễ thực hành nhất, khi quán thấy chúng sinh đau khổ mà thành cảm
lòng thương xót đưa đến lòng từ bi sinh khởi; chúng sanh ở trong sáu cõi còn
đang chìm đắm trong sinh tử phiền não nhiễm ô, chỉ có loài Trời là tốt đẹp hơn
cả, nhưng vẫn còn ngũ suy trước khi lâm chung là: Tràng hoa đội trên đầu héo
đi, áo choàng dính dơ bẩn, thân mất mùi thơm lại có mùi hôi, thể nữ bỏ đi,
không muốn ngồi tòa nữa. Loài A Tu La (Thần) có phiền não cãi cọ, đấu tranh,
xung đột, giết chóc, sợ hãi; loài Ngạ Qủy (Ma Qủy) bị đói khát bức khổ; loài
đọa Địa Ngục bị giam cầm hành hạ vô cùng đau khổ liên tục lâu dài, như phải nằm
trên giường chông, giường sắt nóng đỏ, bị lửa đốt, bị lột da chặt chân tay
v.v…thật là khổ cùng cực. Tất cả những loài trên đây, chúng ta không thể trông
thấy mà chỉ được biết qua Kinh Phật nói; còn loài Súc Sinh có nạn khổ là ăn
nuốt nhau, bị loài người giết để ăn, giết hại cho vui, giết hại vì vô ý, coi
sinh mạng loài vật từ lớn đến nhỏ như cỏ rác, nên loài vật khổ biết chừng nào;
loài người cũng chịu khổ não từ vật chất đến tinh thần trong mưu sinh hàng
ngày, cho đến già bệnh chết, có trăm nghìn nỗi khổ kể sao cho hết được.
Quán như thế nào để phát khởi lòng từ bi?
Đức
Phật dạy: “Quán sát tất cả chúng sanh trong sáu cõi đều là bà con thân thuộc
với mình”. Chúng ta có thói quen những gì ngoài ta đều không để ý đến, giờ đây
chúng ta bỏ cái vỏ hẹp hòi mà nhận ra rằng:
1- Loài người chúng ta sống trên trái đất này
như sống trong một cái nhà lớn, một đại gia đình, không phân biệt màu da chủng
tộc, không phân biệt nước này nước kia, không phân biệt tôn giáo này tôn giáo nọ
v.v…. Những sự khác biệt ấy chỉ là bề ngoài, vì ai cũng có xương thịt và các cơ
quan bộ phận như nhau, cũng đồng sợ khổ thích vui như nhau v.v…
2- Rộng lớn hơn nữa, đối với năm loại chúng
sinh khác, chúng ta coi như thành phần trong đại gia đình trong thái dương hệ
này; mặc dù khác nhau về hình thức vì khác loài, nhưng cũng là chúng sanh có
chung một mặt trời là nguồn sống chung; tất cả đều tham sống sợ chết như nhau,
đều biết cảm nhận nỗi vui sướng và đau khổ như nhau. Gần gũi chúng ta nhất là
loài vật, tuy chúng không thông minh biết nói như chúng ta, nhưng chúng có
những điểm riêng đặc biệt của chúng mà có khi ta không có. Chúng cũng biết
thông cảm với chúng ta và giúp chúng ta nhiều việc lợi ích, biết đâu rằng đời
trước hay đời sau này chúng chẳng phải là anh em bà con chúng ta?
Phương pháp quán này giúp chúng ta mở rộng được cái nhìn hẹp hòi của cái
ngã nhỏ bé để thể nhập vào cái ngã to lớn là đại gia đình của toàn thể chúng
sinh.
2)- Quán Pháp duyên từ (quán mình và chúng sinh cùng một thể tánh do
đó từ bi phát khởi):
Chúng sanh đau khổ là chính ta đau khổ, phép quán này cao siêu hơn phép
quán ở trên; ở đây dùng lý trí để quán sát. Lòng từ bi do duyên “pháp tánh”(bản
tính chung) mà phát khởi. Hành giả quán sát thấy tất cả chúng sanh cùng mình đều
đồng một “pháp giới tánh”(bản tính của chúng sinh), cho nên chúng sinh đau khổ
là mình đau khổ, do đó hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ ban vui cho tất cả
chúng sinh. Đến địa vị này, hành giả không còn phân biệt mình với người, không
còn phân biệt thân thích hay người ngoài, và chỉ thấy mình và người có cùng bản
tánh (cùng pháp giới tánh) mà thôi; các vị Bồ Tát nhận thấy mình và chúng sinh
cùng đồng một bản thể, nên khi cứu khổ không còn phân biệt người đó là ai, và
khi làm cũng không chấp mình đã làm. Chúng sanh có khổ thì Bồ Tát có bi, Bồ Tát đã chứng “Pháp duyên từ” chỉ có mục
đích làm sao cho chúng sinh hết khổ được vui thôi.
3)- Quán Vô duyên từ (không cần duyên vẫn có từ):
Loại
quán này rất cao siêu rất khó thực hành, Vô duyên từ là lòng từ bi không có tâm
năng (làm) duyên và cảnh bị (được) duyên, không dụng công đối đãi giữa mình và
người; lòng từ bi đã sẵn sàng trong thể tánh (Phật tính), nó sẵn sàng lan tràn
bao la trùm khắp, không chọn lựa phân biệt. Hễ chúng sinh có nhu cầu là có đáp
ứng ngay như tình thiêng liêng giữa mẹ và con, cũng như mặt trời mặt trăng
chiếu soi cùng khắp không chừa chỗ nào, sự chiếu soi vô tư, không thiên lệch
chọn lựa, không phân biệt chỗ dơ sạch, nơi cao thấp. Tâm từ bi luôn luôn sẵn
sàng, chúng sanh hễ có cảm cầu là có linh ứng đáp lại.
V). Lợi ích của quán Từ Bi:
Người quán Từ Bi sẽ trừ được lòng sân hận giận hờn, bỏ được lòng tật đố
ganh tị, dẹp được ngã chấp hẹp hòi, và đoàn kết được với mọi người; mọi người
nếu đều có lòng từ bi, nhân loại sẽ không còn giận hờn giữa người và người,
không còn ghét hại giữa chủng tộc này và chủng tộc kia, không còn chiến tranh
giữa quốc gia này với quốc gia kia v.v…. Mối liên hệ giữa mọi người, mọi chủng
tộc, mọi nước, mọi tôn giáo sẽ được gắn bó cùng nhau xây dựng hạnh phúc; lúc ấy
con người vô cùng sung sướng khi thấy quanh mình toàn là bà con quyến thuộc như
anh em trong một nhà cùng nhau an hòa.
Từ
xưa tới nay, con người trong nhân loại bị đau khổ là do lòng sân hận giận thù
gây ra, nếu mọi người biết áp dụng lòng từ bi, sự thù hằn độc ác phải giảm đi,
đâu còn việc đầu độc oán hờn vương khắp nơi nơi, mưu lừa dối trá rắc reo nghi
ngờ sợ hãi nữa. Nếu mọi người đều có lòng từ bi, đâu còn cảnh tạo bất an chèn
ép bức đọa con người, gây khủng bố chiến tranh chết bao sinh mạng; nếu mọi
người đều thực thi lòng từ bi, thế giới này là thiên đường vậy.
Trong Tăng Nhất A Hàm, quyển 3, trang 475 đức Phật dạy: “Nếu có chúng
sanh tu hành tâm từ, lưu truyền rộng nghĩa của tâm từ, vì người diễn nói, sẽ
được qủa báo tốt đẹp là: Ngủ yên ổn không chiêm bao dữ, sống yên ổn không bị ác
hại, được Trời Người thương mến, không bị binh đao đạo tặc xâm tổn, không bị
lửa nước nguy khốn, được sinh lên cõi trời Phạm Thiên”. Cũng quyển 3 trang 176,
đức Phật khuyên khi bị giam cầm chớ khởi tâm ác mà phải khởi tâm từ rải khắp
Trong Tạp A Hàm, quyển 4 Kinh 1253, 1255, 1256, đức Phật dạy: “Số người
tu tập lòng từ bi ít như hòn đất trong tay so với số người không tu lòng từ bi
nhiều như đất của đại địa này. Có người mang 300 chảo cơm bố thí ba lần sáng,
trưa, chiều, công đức bố thí này không bằng một phần muôn ức của người rải lòng
từ bi đến khắp cả chúng sinh dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn như người vắt
sữa bò. Nếu có qủy thần ác muốn đến dò xét tìm chỗ sơ hở của người tu tập tâm
từ bi này thì không thể được, mà ngược lại ngay lúc ấy qủy thần kia tự bị
thương tổn.
Toàn
Không
Discussion about this post