LỜI KHUYÊN TÂM LINH
CHO THIÊN NIÊN KỶ MỚI
Trước hết, tôi muốn chào mừng tất cả các bạn, những bạn hữu và học trò
đã có mặt tại giảng đường ngày hôm nay. Vào thời gian này, do tham dự một sự
kiện ở nước Anh, nên tôi tranh thủ thời gian đến đây để gặp gỡ và tổ chức lễ
đón mừng năm mới cùng tất cả các bạn.
Thực sự
thì năm mới không phải là thời điểm rất quan trọng cần kỷ niệm. Việc tổ chức lễ
kỷ niệm đón chào năm mới thường không quan trọng vì thời khắc này chỉ là một
phần trong cuộc đời, chỉ là một trong những đổi thay của thời gian do chúng ta
tạo ra, không có gì cần phải ồn ào về nó cả. Song năm nay, mọi người đang rất
tưng bừng tổ chức đón mừng năm mới vì có sự chuyển giao từ thế kỷ hai mươi sang
thềm thế kỷ hai mươi mốt. Do có rất nhiều người đang bàn tán về thời khắc đặc
biệt này nên tôi nghĩ có một trường năng lượng đang được tạo ra, và vì thế
chúng ta sẽ phải cùng nhau hướng nguồn năng lượng vào mục đích đúng đắn.
Trên thực
tế, toàn bộ thế giới hay còn gọi là cõi luân hồi này đang vận hành thông qua sự
vọng tưởng. Ngoài ra, chúng ta tạo ra nhiều hoạt động từ việc vọng tưởng đó,
vốn là sự khởi tạo của trạng thái tâm chúng ta. Việc mọi người đều đang bàn
nghĩ rất nhiều về thiên niên kỷ tới có một số ảnh hưởng nhất định đến thế giới,
không chỉ đối với toàn thể thế giới bên ngoài mà còn cả đối với thế giới của
mỗi cá nhân. Do vậy, chúng ta cần tập trung nỗ lực theo cách thức và phương
hướng đúng đắn để có thể đưa toàn bộ thế kỷ mới vào một con đường, một quỹ đạo
tốt đẹp. Dù làm bất cứ điều gì, tất cả chúng ta đều đang sống trong một thế
giới với những mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, thế nên chúng ta phải chung tay
tạo lập và phát triển thế giới này theo cách đúng đắn nhất. Vì những lý do trên
mà ngày mai, ngày đầu tiên của thiên niên kỷ mới, là một ngày rất quan trọng.
Nếu các bạn có thể thành công trong việc thay đổi, hay chuyển hướng nguồn năng
lượng của bản thân thành một con đường tâm linh, thì toàn bộ thế kỷ tới sẽ lợi
ích không chỉ cho riêng bản thân các bạn mà còn tới hết thảy chúng sinh. Động
lực này, là cốt lõi tinh túy của việc tu tập thực hành theo Đạo Phật.
Như tôi vẫn thường xuyên nhấn mạnh, con đường tâm linh là giá trị đích
thực duy nhất của cuộc sống, vì con đường này dẫn dắt bạn đến bến bờ hạnh phúc
cho bản thân mình và cho cả người khác. Do vậy, bất cứ điều gì bạn làm đều nên
theo sự dẫn dắt, mách bảo của hiểu biết về tâm linh, nếu không cuộc sống của
chúng ta sẽ không còn đọng lại nhiều ý nghĩa. Đây không phải là ý kiến của
riêng tôi, song tôi cho rằng mọi người đều có thể hiểu được điều này nếu họ
thực sự suy ngẫm một cách phù hợp và đúng đắn. Đây cần là một trong những lý do
khiến chúng ta nên chuyên cần trưởng dưỡng đạo tâm và cùng thực hành nhiều
thiện hạnh để tạo ra những năng lượng từ trường tích cực cho thiên niên kỷ tới!
Nhiều người
nói chuyện và có suy nghĩ rất tiêu cực về thế kỷ tới. Họ thậm chí còn nói về
ngày tận thế, hay thời khắc tận thế đang đến gần. Họ kêu ầm lên rằng, chỉ trong
vài tiếng đồng hồ nữa, thế giới sẽ đến lúc diệt vong. Cũng có một số người
phỏng đoán thế kỷ tới sẽ là khoảng thời gian vô cùng tồi tệ và tiêu cực. Họ
muốn nói gì cũng được, điều quan trọng nhất bạn cần nhớ là, chúng ta cần tiên
quyết bước vào con đường tu tập thực hành tâm linh, nếu chúng ta thực sự làm
được điều này thì sẽ không có vấn đề, rắc rối lớn nào xảy ra cả.
Trong thực tế, các bạn có thể thấy các thảm họa đang diễn ra khắp nơi
trên thế giới, và trong chừng mực những ai có mặt nơi đây vẫn đang sống tốt đẹp
và chưa thực sự bị những thảm họa, chiến tranh, bão táp,… đe dọa, thì bạn cần
hiểu rằng đó là vì chúng ta chưa phải trả nghiệp ấy. Đứng trên phương diện cá nhân mà nói, do có duyên nghiệp tốt nên chúng ta may mắn không bị những thảm họa đó
gây ảnh hưởng hay đe dọa. Song nhìn chung, thế giới này có đầy những thảm họa
và vô vàn nỗi khổ đau. Khi xem tin tức thời sự hay đọc báo, điều đầu tiên bạn
có thể nhận thấy là dường như các chuyện xấu đang xảy ra ở khắp mọi nơi. Tuy
nhiên, chúng ta cũng không nên khóc lóc hoặc phiền não về những điều này. Thay
vì nghĩ tới những gì tồi tệ hơn, chúng ta nên thực sự suy nghĩ một cách lạc
quan về thế giới và về triển vọng của thế giới trong thế kỷ tới.
Cá nhân
tôi thành tâm mong nguyện thế giới sẽ phát triển và thay đổi theo chiều hướng
tốt đẹp hơn và nhờ đó chúng ta sẽ có thể chia sẻ tình thương yêu sống hạnh phúc
tương thân tương ái với nhau. Cùng với việc chia sẻ tình thương yêu và lòng bi
mẫn thông qua hiểu biết về tâm linh, tôi cho rằng thế kỷ mới sẽ đem đến cho
chúng ta nhiều cơ sở để lạc quan và hy vọng. Tôi đang đề cập đến tầm quan trọng
của việc xây dựng con đường tâm linh, bởi con đường này giúp chuyển hóa thế
giới chúng ta thành một thế giới tích cực, được soi sáng bởi ánh tuệ đăng của
sự hiểu biết giác ngộ. Trong bối cảnh thế giới đang suy vi, dường như chỉ có
con đường tâm linh là giải pháp duy nhất để chúng ta thực sự tồn tại và phát
triển một cách tích cực. Thông qua con đường tâm linh, chúng ta có thể xây dựng
tình yêu thương, lòng bi mẫn và hiểu biết cảm thông đích thực về cõi luân hồi,
thế giới và những điều khác. Tuy nhiên, dường như có sự cản trở rất mạnh mẽ
đang ngăn chặn chúng ta thực hành tình yêu
thương và lòng bi mẫn. Dường như chúng ta chưa trưởng dưỡng hoàn hảo
những phẩm hạnh này, do còn thiếu hiểu biết về tâm linh. Do vậy, khoảng thời
gian hiện tại của chúng ta là một thời kỳ quá độ quan trọng. Chúng ta đang ở tại thời điểm chuyển giao từ thế
kỷ này sang thế kỷ tiếp theo, và các bạn cần nghĩ rằng: “Kể từ sáng ngày mai
trở đi, tôi sẽ nhất định đưa bản thân mình đi đúng hướng, đi theo hướng có sức
mạnh tâm linh.” Bạn phải hứa với bản thân và quyết tâm rằng: “Tôi sẽ thực hành
tu tập con đường tâm linh để phát triển cuộc sống của mình, để chia sẻ tình yêu
thương và lòng bi mẫn với tất cả các chúng sinh.” Điều này chắc chắn sẽ thay
đổi cuộc sống của bạn. Nói đúng hơn, đây là cách duy nhất có thể thay đổi tích
cực và rốt ráo cuộc sống của chính bạn.
Chúng ta
cần thay đổi cuộc sống của chính mình, vì dường như cho đến giờ chúng ta vẫn
thường gặp trở ngại khi thực hiện những thiện hạnh tốt lành, trong khi lại có
thể dễ dàng gây ra những ác hạnh. Cho đến nay, chúng ta đã rất thành công trong
việc làm những điều xấu. Các suy nghĩ của chúng ta phần lớn đều mang tính tiêu
cực. Chúng ta trò chuyện một cách tiêu cực, hành động cư xử theo cách thức tiêu
cực, và chúng ta lấy làm thích thú về điều đó! Song sự thích thú đó cuối cùng
sẽ đem lại những kết quả vô cùng khổ đau. Vì thế, chúng ta phải quyết tâm đoạn
tuyệt lối sống này. Chúng ta muốn có nhân quả tốt, muốn gieo nhân lành trong
kiếp sống này và cả những kiếp sống về sau. Cả nhân và quả đều cần phải được
thay đổi bằng một quá trình tích cực để có kết quả tốt. Thực sự thì, tôi không
thích gọi quá trình này là “tốt” và “xấu” mà nên gọi là “tích cực” và “tiêu
cực.” Tôi không biết giữa hai thuật ngữ “tốt” và “tích cực” có gì khác biệt
không, song tôi cảm thấy khách quan hơn nhiều khi nói “tích cực và tiêu cực” vì
“tốt và xấu” là những thuật ngữ mang tính rất tương đối. Chúng ta hãy cùng tìm
kiếm và đi theo con đường tích cực. Trong chừng mực con đường đó có ý nghĩa
tích cực thì cho dù người khác có đánh giá “tốt hay xấu” theo nghĩa thế gian,
nó cũng không thành vấn đề.
Tất cả các bạn đều đã trải nghiệm những khó khăn, trở ngại khi bắt đầu
một việc làm tích cực nào đó. Ví dụ như việc thực hành các thiện nghiệp, hay
trên phương diện tu tập, thực hành Pháp tu mở đầu Ngondro hoặc thực hành tụng
niệm hay thực hành bố thí, dường như đều là chuyện khó khăn. Ban đầu, chúng ta
cần nhiều ngày hoặc thậm chí nhiều tháng, nhiều năm để ngẫm nghĩ về những điều
tích cực mà mình cần làm, để sau đó nhiều năm sau vẫn chẳng có điều gì xảy ra
cả. Và rồi, một lúc nào đó trong quãng thời gian này, dự định tích cực của
chúng ta biến mất và không bao giờ trở lại. Ngay cả suy nghĩ về việc làm chuyện
tích cực cũng biến mất, và rồi đương nhiên, những thiện hạnh này không xảy ra
thì ta cũng không gặt được. Tôi thấy điều này khá phổ biến với rất nhiều người
trong số chúng ta.
Đối với
những người có may mắn bắt đầu thực hiện được những điều tích cực sau nhiều năm
suy ngẫm, họ thường gặp phải nhiều trở ngại. Khi bạn bắt đầu những thiện hạnh,
có thể sức khỏe của bạn sẽ yếu đi hoặc trí tuệ của bạn sẽ suy giảm. Có thể về
thể chất và tinh thần, bạn đều mạnh khoẻ, song bạn lại bị khánh kiệt về tài
chính, hoặc gặp phải một hoàn cảnh khó khăn tương tự. Sẽ có vấn đề liên tục
diễn ra do có những trở ngại. Những chướng ngại này luôn tồn tại và ngăn trở
việc bạn thực hành những thiện nghiệp. Những trở ngại đó được gọi là các “ác
nghiệp” hay “nghiệp xấu”. Ác nghiệp có thể cản trở những việc làm tích cực của
bạn bất chấp ý chí của bạn muốn làm những việc tốt đó. Nghiệp xấu đó phải được
các thiện nghiệp của bạn làm tiêu tan!
Trên thực
tế, nghiệp xấu không phải là điều chúng ta buộc phải đương đầu. Chúng có thể
được chuyển hoá thành nghiệp tốt thông qua những công đức, thiện hạnh mà bạn
tích lũy. Thông qua việc thực hành thiện hạnh hoặc tinh tiến tu tập, bạn có thể
tạo duyên cho các thiện nghiệp được khởi sinh. Tôi cho rằng các bạn có thể biến
các điều kiện đó thành hiện thực. Nếu bạn không tin vào việc thay đổi các duyên
nghiệp thì hoàn cảnh của bạn sẽ gần như là vô vọng, vì nghiệp của chúng sinh có
đến 97 hay 98% là tiêu cực, chỉ còn hai đến ba phần trăm cơ hội tích cực mà
thôi. Có thể một số người có duyên nghiệp rất tốt, rất tích cực. Tuy nhiên, 98%
dân số thế giới có nghiệp tiêu cực. Do vậy, lẽ đương nhiên là đời sống riêng
của mỗi chúng ta cũng như hoàn cảnh chung của thế giới này có cái gì đó chưa
được hoàn toàn tươi sáng.
Như chúng
ta có thể thấy, thế giới chúng ta sống đang đầy tiêu cực nhiễm ô. Tuy nhiên,
bằng con đường tâm linh, mọi người có niềm hy vọng vào những điều kiện sống tốt
hơn. Các điều kiện này là những thứ duy nhất chúng ta có thể tạo ra thông qua
nỗ lực của chính bản thân chúng ta và thông qua sự gia trì từ các bậc Thượng
sư, các Daka và Dakini, tất cả các chư Phật và chư Bồ Tát, các hộ pháp thiện
thần… Về cơ bản, đây là những sự gia trì đầy tốt lành từ các Ngài, song trên
phương diện thực hành, việc mỗi chúng ta nhận ra bản chất tâm của mình mới là
điều quan trọng nhất. Nếu chúng ta có sự gia trì từ chư Phật, chư Bồ tát, có
trí tuệ để hiểu biết nội tâm và biết chuyển hóa bản thân thì việc chuyển hoá
thế giới thành tích cực sẽ không gặp nhiều khó khăn. Chúng ta sẽ có thể chuyển
hoá thế kỷ tới thành một thế kỷ thực sự tích cực.
Có thể, các bạn đã nghe nhiều đến các “nhân duyên”, song cho đến nay,
chúng ta chưa thực sự tập trung việc thực hành, tu tập vào các nhân duyên. Đó
là lý do tại sao chúng ta vẫn ngồi đây, gần như không làm gì. Chúng ta chỉ ồn ã
và hứng thú với sự giải đãi của cuộc sống nhưng kết quả là chúng ta sẽ không
bao giờ đạt được thành tựu. Vào cuối đời, chúng ta có thể sẽ nhận ra rằng:
chúng ta đã phí hoài năng lượng của bản thân và toàn bộ mọi cơ hội tốt đẹp đến
từ cuộc sống quý giá. Nhưng lúc đó đã quá muộn rồi. Do vậy, thông điệp thực sự
cho thế kỷ sắp tới, vào thời khắc quan trọng của năm mới này là bạn hãy thực
hành tâm nguyện của mình trên con đường tâm linh!
Các bạn
cần phát nguyện tạo ra những điều kiện tốt đẹp trong đời sống của mình. Chừng
nào chưa có tâm nguyện đó chúng ta chưa tạo dựng được những nhân duyên tốt đẹp cho
bản thân, và vì thế mà phần lớn thời gian, chúng ta vẫn chịu ảnh hưởng của
duyên nghiệp. Nghiệp luôn tự vận hành, không cần sự thúc đẩy, và chúng ta không
cần làm bất cứ điều gì để nghiệp diễn ra. Đó là lý do tại sao chúng ta lại làm
theo duyên nghiệp, nói một cách khác, chúng ta luôn chịu tác động của nghiệp.
Chúng ta không thể kiểm soát được bản thân. Nói một cách khác, chúng ta không
có các nhân duyên. Chúng ta đã không kiểm soát được các nhân duyên vì chúng ta
thiếu sự phát nguyện cam kết làm những điều đó.
Do vậy, từ giờ phút này trở đi, chúng ta nên đưa cam kết phát nguyện vào
việc tu tập thực hành. Từ thời khắc chào đón năm mới này đến khi chúng ta đạt
được giác ngộ, chúng ta nhất thiết phải thực hành phát nguyện. Trong đời sống
chúng ta cần có tâm nguyện. Thế nhưng, tâm nguyện lại không phải là điều tự
nhiên tức thì được viên mãn. Khi thấy tâm nguyện không được đáp ứng ngay, chúng
ta thường vội vã cho rằng rốt cuộc chẳng có gì trong cuộc sống này là nhiệm màu
và chẳng có tâm nguyện nào của mình được viên mãn nữa cả. Tôi muốn nói, những
tâm nguyện của bạn có thể được viên mãn hay có thể không, nhưng nếu chúng ta
chỉ biết ngồi đó mà chờ thì mọi chuyện sẽ luôn quá muộn. Do không có tâm nguyện
nào có thể thành tựu ngay tức khắc nên chúng ta cần phải dần dần thực hành để
biến tâm nguyện đó thành sự thật. Chúng ta cần hiện thực hóa tâm nguyện của
mình với niềm cảm hứng, và nếu không có sự trợ duyên của phát nguyện thì quá
trình này sẽ trở nên rất khó khăn. Nếu không có động lực, nếu chúng ta chỉ uể
oải thụ động để mặc mọi việc diễn ra theo cơn gió nghiệp thì cuộc sống này sẽ
sớm trôi qua một cách vô cùng luống uổng. Trong khi đó, việc thực hiện những
nghiệp tiêu cực lại là điều gì đó rất dễ thực hiện, thực sự dễ dàng và với
những kết quả gần như tức thời.
Những việc
như trò chuyện một cách tiêu cực, suy nghĩ một cách tiêu cực, ăn uống một cách
tiêu cực là những điều tự nhiên chúng ta có thể làm mà không cần cố gắng. Lấy
ví dụ như việc hầu hết chúng ta đều muốn ăn nhiều đồ ăn có hại. “Có hại” ở đây
có nghĩa là “tiêu cực”. Nếu đồ ăn đó không có hại cho cơ thể, nó có thể có hại
cho đời sống tâm linh, hoặc nếu không phương hại đến đời sống tâm linh, nó có
thể có hại cho thể chất. Nói chung, dường như những đồ ăn, đồ uống của chúng ta
và những điều chúng ta nói đến và suy nghĩ đến đều có sự tiêu cực. Kiểu tiêu
cực này diễn ra gần như tức khắc. Tuy nhiên, như tôi đã nói ở phần trước, việc
thực hiện những điều tích cực là việc làm rất khó khăn. Các bạn cần phải được
khích lệ sách tấn để có thể bắt đầu chuyển hóa mình qua việc thực hiện những
thiện nghiệp. Sự khích lệ này được gọi là thệ nguyện, và giới hạnh. Tôi cho
rằng, những điều này rất quan trọng để các bạn có thể thực hành tu tập tâm
linh.
Tứ vô lượng tâm
Tâm nguyện
mà chúng ta đang nói đến nằm trong phạm vi của “Tứ vô lượng tâm”. Tứ vô lượng
tâm là những suy nghĩ chúng ta cần có trong tâm chúng ta và trong cuộc sống
hàng ngày. Chúng ta cần luôn suy nghĩ và thực hành, tu tập theo con đường mà
chư Bồ tát đã phát nguyện đi theo và thực hiện. Con đường của chư Bồ tát khởi
đầu bằng bài cầu nguyện Tứ vô lượng tâm như sau:
nhân an lạc Sống an vui từng chớp
sát na. Nguyện chúng sinh muôn
khổ lìa xa Thoát vòng tục lụy
phiền hà thế gian. Nguyện chúng sinh dứt
khổ hân hoan Vô lượng hỷ lạc từ
quang sáng ngời Nguyện chúng sinh an
trụ không rời Trong bình đẳng xả muôn đời vô ưu.
Đây là
những suy nghĩ hay còn gọi là tâm nguyện chúng ta cần nghĩ đến và thực hành
trên bước đường tu tập.
Những lời
phát nguyện trên nói: “Nguyện chúng sinh…”, nhưng khi chúng ta nguyện:
“Nguyện chúng sinh đắc nhân an lạc” thì cùng lúc chúng ta phải thực hành tâm
nguyện đó. Khi những lời nguyện này được viết ra, nghe có vẻ như đó chỉ là một
nguyện ước chứ chưa phải là một cam kết thực hành. Tuy nhiên, cùng lúc phát
nguyện, chúng ta thực sự cần phải cam kết làm mọi việc với động lực mạnh mẽ
được nâng đỡ bởi đại nguyện này để biến những những tâm nguyện của chúng ta trở
thành hiện thực. Chúng ta phải có sự cam kết thực hành, phải thực sự phát
nguyện thực hành. Ví dụ như, khi chúng ta nói: “Nguyện chúng sinh…” thì cùng
lúc chúng ta phải nguyện rằng: “Tôi sẽ biến điều này thành hiện thực, tôi sẽ
giải thoát mọi chúng sinh khỏi khổ đau và cội rễ của khổ đau, tôi sẽ đem lại an
lạc, hạnh phúc, tôi sẽ thấy hạnh phúc khi làm cho người khác hạnh phúc.” Do đó,
“tôi sẽ” là một dạng cam kết. Nếu muốn, bạn có thể nói đây là một dạng thệ
nguyện bạn đang đưa ra. Việc nghĩ về điều này theo cách như vậy chẳng có gì là
sai trái cả. Điều đó không phương hại và cũng không gây ra khổ đau gì, cũng như
không làm chúng ta rối trí hay bất cứ điều gì mang tính tiêu cực. Bạn có thể
lặp lại lời thệ nguyện này bao nhiêu lần tùy thích. Việc đó không có gì là sai
trái. Những lời thệ nguyện này cần được phát nguyện càng nhiều càng tốt, qua
đó, những lời phát nguyện sẽ tự động nuôi dưỡng, thúc đẩy bạn trên con đường
thực hành tâm linh.
Tứ vô lượng tâm có ba khía cạnh hoặc còn gọi là ba cách thực hành. Ví dụ
như trong Kim Cương thừa chúng tôi nói: “sem chen tham ched de wa dang de
wei gyu dang den par gyur chig,” và cùng lúc đó nói: “de wa dang den
nang chi ma rung,” và sau đó nói “den par ja’o.” Mặc dù những câu
này thường được nói, song chúng không được đưa vào các văn bản. Trong các văn
bản thường chỉ có: “den par gyur chig”, có nghĩa là ‘Nguyện cho mọi
chúng sinh’. Tuy nhiên, trong thực tế có ba khía cạnh đối với việc thực hành cụ
thể này. Ví dụ:
Sem chen tham ched de
wa dang de wei gyu dang den par gyur chig,
Sem chen tham ched de wa dang den nang chi ma rung, và
Sem chen tham ched de wa dang den par ja’o.
Dòng đầu
tiên là lời cầu chúc và dòng thứ hai là một tâm nguyện mạnh mẽ hơn, là tâm
nguyện kết hợp với tâm khát khao giác ngộ. Dòng thứ ba là một lời cam kết hay
phát nguyện biến điều đó thành hiện thực.
Việc cầu mong hết thảy chúng sinh được hạnh phúc là căn duyên của tâm
khao khát giác ngộ. Trong khi việc phát nguyện là điều tốt, chỉ có phát nguyện
không thì vẫn chưa đủ. Lời nguyện của bạn phải được sự hỗ trợ nâng đỡ của tâm
khao khát tìm cầu giác ngộ. Tâm khao khát giác ngộ khởi phát khi chúng ta có
những mong ước tốt đẹp cho hết thảy chúng sinh. Điều này phải xuất phát từ thái
độ vô ngã (không vị kỷ). Thái độ vị kỷ là trở ngại lớn nhất đối với Bồ đề tâm,
đối với lòng yêu thương và từ bi đích thực mà bạn có thể chia sẻ cho khắp thảy
mọi chúng sinh. Bạn không thể có được tâm khao khát giác ngộ trừ khi bạn có
thái độ không vị kỷ. Nếu không, như những gì chúng ta giờ đang trải nghiệm,
chúng ta sẽ không thể chia sẻ tình yêu thương đích thực tới bất cứ chúng sinh
nào khác. Đương nhiên là chúng ta có tình yêu thương thể xác và chúng ta có
kiểu tình yêu cảm tính mà chúng ta có thể chia sẻ với một số người. Song đó
không phải là tình yêu thương mà chúng ta đang nói đến. Tình yêu thương mà
chúng ta nói đến là một tình yêu thương vô điều kiện, hoàn toàn vì lợi ích của người
khác và không hề liên quan đến lợi ích cá nhân mình. Động lực này đủ để hướng
những hoạt động của các bạn theo con đường đúng đắn để thực hành tu tập tâm
linh.
Tâm nguyện
đạt giác ngộ rất quan trọng trong việc hỗ trợ cho sự thực hành tu tập của các
bạn cũng như thực hành tu tập Bồ đề tâm, là sự thực hành về bố thí, trì giới,
thiền định và trí tuệ… Tất cả các thực hành Bồ tát đều có liên hệ chặt chẽ với
tâm nguyện đạt giác ngộ. Điều này khá dễ hiểu bởi nếu bạn không có tâm nguyện
đạt giác ngộ, bạn sẽ không có động lực để hướng đến giác ngộ. Bạn cần phải cân
nhắc, quán xét kỹ lưỡng bởi chúng ta đang thực hành để đạt được giác ngộ, nếu
không thì tại sao giờ này chúng ta lại có mặt ở đây? Các bạn có thể tận hưởng
một kỳ nghỉ thú vị ở miền Nam
trong tiết trời ấm áp, thú vị hơn rất nhiều thay vì phải ngồi đây để lắng nghe
những gì tôi đàm luận. Việc ở đây sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu bạn không có tâm
nguyện đạt giác ngộ hoặc ít nhất là có nguồn cảm hứng đó. Có thể, chúng ta
không nhất thiết phải có tâm nguyện đạt giác ngộ, nhưng phải có chút cảm hứng
hoặc động cơ tương tự, nếu không bạn đã không đến đây, tất cả chúng ta đã không
có mặt ở đây.
Tất cả
chúng ta ở đây là để truyền cảm hứng cho nhau và để truyền cảm hứng cho tâm của
chúng ta đạt đến giác ngộ. Đó là mục tiêu chính, nếu không có mục tiêu này,
chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu. Tâm cảm hứng hướng đến giác ngộ cần phải được
thực hành trong bất cứ hoạt động nào. Điều này rất quan trọng không chỉ khi bố
thí, trì giới, thiền định, trì tụng chân ngôn mà trong tất cả thực hành. Mọi
thứ đều phụ thuộc vào tâm nguyện đạt giác ngộ. Việc thực hành của bạn có đúng
pháp hay không, có đạt được kết quả hay không đều phụ thuộc vào tâm nguyện đạt
giác ngộ. Ví dụ, sở dĩ chúng ta gặp khó khăn trong việc thực hành trì tụng, thiền
định, bố thí, cúng dàng, trì giới, đều do thiếu tâm nguyện đạt giác ngộ. Đó là
nguyên nhân chính khiến chúng ta không thể thực hành.
Dĩ nhiên
là chúng ta có rất nhiều lý do. Lấy ví dụ như, hầu hết mọi người trong chúng ta
đều cho rằng mình không có đủ thời gian để thực hành tu tập, tức là đổ lỗi cho
thời gian. Hoặc là chúng ta có nhiều trách nhiệm đối với gia đình, tức là đổ
lỗi cho gia đình. Đó là lý do vì sao chúng ta không thực hành tu tập được.
Nhiều khi, những bận bịu của công việc cũng là một lý do. Tuy vậy, tất cả các
lý do này chủ yếu là do ta thiếu tâm nguyện đạt giác ngộ. Nếu bạn thực sự có
tâm nguyện đạt giác ngộ thì chắc chắn không có vấn đề gì. Ngay cả khi đang gặp
rất nhiều ràng buộc từ gia đình, công việc…, bạn vẫn sẽ thực hành được giáo pháp
và phát triển con đường tâm linh. Nếu bạn xem xét kỹ lưỡng xem vấn đề chủ yếu
có phải là do công việc bận rộn hay vì lý do nào khác, bạn sẽ thấy lý do là bạn
thiếu tâm nguyện đạt giác ngộ. Vì thế, phát được tâm nguyện đạt giác ngộ là
việc tối quan trọng.
Để có được
điều đó, như tôi đã nói: trước hết chúng ta cần phải có niềm cảm hứng. Ngay lúc
này chúng ta đã có, nhưng chúng ta không biết chắc điều gì đang truyền cảm hứng
cho chúng ta. Để có được điều này, chúng ta cần biết đâu là nguyên nhân thực sự
của nguồn cảm hứng. Một số người nghĩ rằng, những bài giảng của tôi là nguồn
cảm hứng. Hoặc họ cho rằng, sự hiện diện của tôi mới là nguồn cảm hứng chứ
không phải là những bài giảng. Một số người lại cho rằng, sự hiện diện của tôi
thì chưa đủ, nhưng những bài giảng cũng không tồi. Một số người có thể nghĩ
rằng, đến đây cũng thấy vui rồi, đó là một nguồn cảm hứng. Dù sao thì, họ cũng
đã có nguồn cảm hứng nào đó. Tuy vậy, số đông trong chúng ta chắc chắn không có
tâm nguyện đạt giác ngộ, đơn giản là vì chúng ta không biết tâm giác ngộ là gì.
Vậy tâm giác ngộ là gì, ở đâu? Tôi nghĩ rất khó chứng đạt được tâm giác ngộ,
nhưng tất cả chúng ta đều có chủng tử hoặc có tiềm năng giác ngộ, vì chúng ta
đã có được nguồn cảm hứng. Đó chính là nguyên nhân đã dẫn chúng ta tới đây.
Như các
giáo pháp thường nhắc tới, có được nguồn cảm hứng đối với giáo pháp là điều
quan trọng nhất. Cảm hứng đối với giáo pháp sẽ khơi nguồn cho sự thực hành hàng
ngày của các bạn. Rồi chính giáo pháp lại nâng đỡ thúc đẩy sự thực hành. Đây là
nền tảng cho việc thành tựu sự thực hành. Thực tế là, những bài pháp đều bắt
nguồn từ sự giác ngộ, không phải từ người giáo thọ mà từ sự giác ngộ của người
giáo thọ. Sau khi hiểu rằng, giáo pháp của bậc thầy đến từ sự giác ngộ, thì tâm
nguyện đạt giác ngộ của bạn sẽ xuất hiện ngay tức khắc, và bạn sẽ có tâm nguyện
mạnh mẽ để đạt giác ngộ.
Khi nói về giác ngộ thì không có cái gì gọi là sự giác ngộ của anh ấy,
của tôi hay của cô ấy. Thực ra, không có sự khác biệt trong việc giác ngộ. Giác
ngộ chỉ là một, thậm chí cũng không phải một, nó ở khắp mọi nơi. Vì thế, chúng
ta bước vào “cảnh giới” của giác ngộ bất nhị. Đó là thời điểm mà bạn có thể tự
nhận mình là một hành giả. Trước lúc đó, chúng ta có thể vẫn thực hành, nhưng
chỉ thực hành một cách tương đối, chúng ta chưa thực sự tiếp cận, xúc chạm hay
chứng đạt được trạng thái chân thực của thực hành.
Khi bạn có
tâm nguyện đạt giác ngộ, thì lòng từ bi cũng cùng lúc nhậm vận xuất hiện. Tất
cả những ai chưa nhận ra được bản chất của tâm hay bản chất của giác ngộ, tất
cả những ai chưa thể tự khuyến tấn bản thân bằng nguồn cảm hứng từ giác ngộ đều
là những đối tượng của lòng từ bi. Lòng từ bi này gần như ngay lập tức xuất
hiện. Ví dụ như, tất cả chúng ta đều đã chịu đói trong nhiều tiếng đồng hồ
liền, không có bất cứ thứ gì để ăn nên ai ai cũng cảm thấy vô cùng khổ sở.
Nhưng rồi thì bằng cách nào đó, tôi có thể có một bữa ăn ngon và tôi sẽ không
còn cảm thấy khổ sở vì bị cơn đói hành hạ nữa. Khi ấy, một cách tự nhiên tôi sẽ
cảm thông và lòng bi mẫn nhậm vận phát khởi với những ai vẫn còn đang đói khổ,
vì chỉ cách đó vài giờ hay vài phút thôi, chính tôi cũng đang rất khổ sở bởi sự
hành hạ của những thứ này. Giờ đây, tất cả những người này vẫn đang phải chịu
đựng sự khổ sở dày vò, cũng chỉ vì họ không có đồ ăn, nhưng tôi thì đã có được
một bữa ăn ngon miệng. Tôi không còn thấy khổ sở nữa, song họ vẫn còn phải chịu
khổ đau. Vì vậy, gần như ngay tức khắc, tôi cảm thông sâu sắc với những người
còn lại.
Cũng vậy,
khi bạn phát khởi được tâm nguyện đạt giác ngộ hay chính tâm giác ngộ, thì một
cách tự nhiên bạn sẽ cảm thấy Đại từ bi với tất thảy chúng sinh vẫn còn đang
phải chịu khổ đau ở ngoài kia chỉ vì thiếu tín tâm, hiểu biết hay giác ngộ.
Điều này được gọi là “Đại từ bi.” Hai trải nghiệm, hay hai sự thấu hiểu này gần
như song hành xuất hiện. Đây cũng được gọi là sự hợp nhất, hợp nhất trong thực
hành Bồ tát. Hiểu biết và sau đó là lòng từ bi sẽ xuất hiện cùng lúc để tạo
thành sự hợp nhất. Hai yếu tố này rất quan trọng. Không ai có thể bay chỉ bằng
một chiếc cánh. Các bạn có thể đã nghe nói điều này hàng trăm lần. Nhiều bậc
thầy cũng đề cập đến điều này, song có thể các bạn vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa.
Chúng ta, phải tự quán chiếu liệu rằng, bản thân có đủ đôi cánh, hay chỉ một
hay thậm chí là chẳng có gì. Thật nực cười, nhưng có thể chúng ta thậm chí
chẳng có đôi cánh nào mà chỉ có hai tay, khua lên khua xuống thì có thể, nhưng
để cất cao trên bầu trời bao la thì hãy thôi mơ tưởng tới. Nếu bạn muốn tự do
bay lượn, bạn cần phải có cả đôi cánh, không phải chỉ một, mà là cả hai. Chúng
ta cần phải có đủ cả đôi cánh để có thể bay từ cõi luân hồi khổ đau này tới
thẳng Niết bàn, cõi cực lạc hoàn toàn không có khổ đau và lầm lạc.
Với sự nâng đỡ của đôi cánh này, chúng ta có thể thực hành con đường của
Bồ tát. Với sự nâng đỡ của con đường Bồ tát, chúng ta có thể thực hành Kim
Cương thừa. Với sự nâng đỡ của Kim Cương thừa, chúng ta có thể đạt được giác
ngộ trong hiện đời hay thậm chí chỉ trong một vài giây phút tới. Đó chính là
tâm nguyện đạt giác ngộ mạnh mẽ! Đó là điều, chúng ta nên phát khởi nguồn cảm
hứng nhiệt huyết để hướng tới. Tâm nguyện tràn đầy cảm hứng này sẽ ngay tức
khắc khiến chúng ta phải cam kết hành động. Đây chính là, cách dựng xây một
tương lai tốt đẹp hơn. Đây chính là điều chúng ta nên thực sự thực hành.
Như chúng ta
thường nói: trong thực hành Đại thừa, ngày hôm nay là nguyên nhân của một ngày
mai tốt đẹp hơn. Những trải nghiệm đã qua chỉ là những trải nghiệm, nhưng hiện
tại thì rất quan trọng, bởi vì hiện tại là nguồn cội của tương lai. Điều quan
trọng nhất là sự phát triển trong tương lai. Để gặt hái thành quả trong tương
lai, chúng ta cần phải trưởng dưỡng từ hoàn cảnh hiện tại. Chúng ta cần quan
tâm nhiều đến tình hình hiện tại. Những gì đã xảy ra trong quá khứ không còn
quá quan trọng. Kinh nghiệm trong quá khứ đã là quá khứ, đó chỉ là những trải
nghiệm đã qua. Bạn không thể quay trở lại, mặc dù có một vài người cố gắng làm
điều đó bằng kỹ thuật thôi miên. Nhưng điều đó cũng thật vô ích vì chỉ tạo thêm
ảo tưởng. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy ảo tưởng. Nhờ thuật thôi
miên, chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang quay lại quá khứ và chúng ta thậm chí có
thể cảm thấy như thế, nhưng rốt cục cũng chỉ là một ảo tưởng. Đây không phải là
việc làm hữu ích. Điều duy nhất, chúng ta phải quan tâm là hiện tại và tương lai.
Tương lai mới là quan trọng nhất. Chính vì thế, trong buổi thuyết giảng sáng
hôm nay tôi luôn khích lệ các bạn trưởng dưỡng cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Tương lai có thể được lượng hóa về mặt thời gian như trong thế kỷ tới chẳng
hạn.
Thời gian
chuyển mình giữa các thế kỷ có thể không mấy quan trọng, song như tôi đã đề cập
ban đầu, hẳn sẽ có một tác động nhất định vì có đến hàng triệu, hàng tỷ người
đã, đang nói và nghĩ đến điều này. Như vậy, sẽ tạo ra một hiệu ứng ảnh hưởng.
Chúng ta cần định hướng nguồn năng lượng này theo hướng đúng đắn, để có thể làm
lợi ích, chia sẻ tình yêu thương và từ bi với tất cả và để mọi phút giây đều
trở nên an lành, hạnh phúc.
Trở lại
với Tứ vô lượng tâm, tâm vô lượng đầu tiên là tình yêu thương, thứ hai là từ
bi, thứ ba là sự an vui hỷ lạc và cuối cùng là cảm giác trân trọng, hay bình
đẳng – xả (từ, bi, hỷ, xả). Tứ tâm vô lượng này là những nền tảng quan trọng
nhất mà chúng ta cần phải có được trên con đường tâm linh.
Như tôi vừa nhắc đến, Tứ vô lượng tâm cần xuất hiện cùng lúc với sự giác
ngộ hiểu và biết thông qua tâm nguyện đạt giác ngộ. Khi đó, tình yêu thương
đích thực sẽ được ban trải đến tất cả chúng sinh. Tình yêu thương này xuất hiện
qua việc hiểu biết về giác ngộ và là một tình yêu thương mạnh mẽ với quyết tâm giúp
đỡ khắp hết thảy chúng sinh được an vui, hạnh phúc. Mọi thứ, kể cả hạnh phúc và
khổ đau đều phải có nguồn gốc. Nếu không có nguồn cội, sẽ không có thứ gì tồn
tại được trên thế gian này. Do đó, để có được hạnh phúc, chúng ta cần phải gieo
trồng cội nguồn, nguyên nhân của hạnh phúc. Chúng ta cần trưởng dưỡng tâm
nguyện mạnh mẽ với tin chắc rằng tất cả chúng sinh sẽ được an vui, hạnh phúc.
Song hành là một quyết tâm kiên cố giúp đỡ tha nhân có được điều kiện sống tốt
đẹp hơn.
Các bạn cần tự phát nguyện phụng sự tất cả chúng sinh để họ đạt được an
vui, hạnh phúc. Đây là những thệ nguyện cam kết mà chúng ta đang đề cập. Cam kết thứ hai trong việc phát nguyện phụng sự tất cả
chúng sinh là giúp họ giải thoát khỏi khổ đau bằng cách loại bỏ nguyên nhân của
khổ đau. Không chỉ cần loại bỏ khổ đau, mà quan trọng hơn cần loại bỏ nguyên
nhân của những khổ đau. Bản thân khổ đau đã là một điều khủng khiếp thì nguyên
nhân gây ra khổ đau còn khủng khiếp hơn rất nhiều lần. Ví dụ như nếu bạn bị đau
đầu, thuốc giảm đau sẽ rất hiệu quả giúp bạn làm giảm cơn đau nhưng nó sẽ không
có tác dụng mãi mãi. Liều thuốc có thể giúp bạn thấy dễ chịu trong một vài giờ
hay một vài ngày, song cơn đau đầu rồi sẽ quay trở lại vì căn nguyên gây ra cơn
đau vẫn còn đó. Để điều trị được chứng bệnh này vĩnh viễn, bạn phải tìm ra
nguyên nhân và loại bỏ ngay những nguyên nhân đó, bất kể là do đâu. Có thể, một
số bộ phận trong cơ thể hoặc hệ tuần hoàn bị trục trặc, và cần được chữa trị để
chữa khỏi hoàn toàn chứng đau đầu. Cũng tương tự như thế, nguồn gốc của khổ đau
cần phải được loại bỏ. Đây chính là hạnh nguyện thứ hai để phụng sự chúng sinh.
Thật khó
để giải thích bằng thứ tiếng không phải tiếng mẹ đẻ của tôi, song cam kết thứ
ba là giúp hết thảy chúng sinh không bao giờ xa lìa hỷ lạc, an vui và hạnh phúc
đích thực. Tôi không biết làm thế nào để diễn đạt rõ điều này cho các bạn, song
các bạn cần phát nguyện cam kết là mọi chúng sinh trên thế gian này chắc chắn
sẽ luôn an trụ trong đại hỷ lạc hay hạnh phúc đích thực. Một mặt, đây là một
hình thức mong nguyện. Mặt khác, các bạn cam kết hành động để điều đó trở thành
hiện thực. Đây là hạnh nguyện tiếp theo để phụng sự hết thảy chúng sinh.
Cam kết thứ
tư là cam kết quan trọng nhất. Cam kết này
liên quan đến việc không có tham luyến và sân giận, thay vào đó là việc thực
hành tu tập với tâm bình đẳng xả. Hầu hết chúng ta – những người đang thực hành
từ tâm và bi tâm, đặc biệt là những người luôn nói đang theo một tôn giáo hay
phải có lòng từ bi – đều có sự tham luyến hoặc không cũng là những kiểu sân
giận thù ghét khác nhau. Hiển nhiên phần lớn thời gian, chúng ta sống chung với
cảm giác tham luyến, khiến cho việc tu tập của chúng ta không còn được thanh
tịnh và viên mãn. Vô lượng tâm thứ tư nhắc nhở bạn một cách toàn diện về tầm
quan trọng của việc đối diện với tham luyến và sân giận. Dù tham luyến hay sân
giận cũng đều không tốt. Người dân Tây Tạng thường hay nói về việc ban trải
lòng từ bi tới hết thảy mọi chúng sinh một cách trừu tượng và mông lung. Ai
cũng nói về “tất cả chúng sinh” nhưng mỗi người lại có những cách áp dụng khác
nhau. Một số rất giàu lòng từ bi đối với người nghèo, song lại ít có từ bi đối
với người giàu. Một số có lòng từ bi dành cho nam giới, nhưng không dành cho nữ
giới. Một số người lại chỉ có lòng từ bi cho nhân loại, song không dành cho các
chủng loài khác, như động vật chẳng hạn.
Trên thực
tế, có nhiều người trong các quốc gia phát triển mạnh về vật chất đang không có
sự quan tâm đúng mức tới những người thân của mình, nhưng lại hết mực yêu
thương chiều chuộng những con vật họ nuôi nấng trong nhà. Nếu cần thiết, thậm
chí họ có thể dễ dàng nạt nộ cha mẹ hoặc gia đình của họ, nhưng lại thậm chí
không bao giờ la mắng những con vật nuôi trong nhà, vì những vật nuôi đó rất
quan trọng đối với họ. Đây là vô số những kiểu thái độ khác nhau của chúng ta.
Nếu có ai hỏi liệu rằng, đây thực sự có phải là lòng từ bi hay tình yêu không,
thì chúng ta có thể trả lời rằng đó cũng là lòng từ bi hay tình yêu thương,
nhưng nó lại song hành với tham luyến, thờ ơ hoặc sân giận. Do đó, vô lượng tâm
thứ tư là một phần rất quan trọng trong thực hành của chúng ta. Tâm vô lượng đó
khuyên mọi người không nên tham luyến và cũng không thờ ơ.
Trong thực
tế, cả sân giận và tham luyến đều là những hình thức bám chấp. Mặc dù, sân giận
hay thờ ơ nghe có vẻ đối lập với tham luyến, song đó lại là một hình thức bám
chấp lớn. Thuật ngữ “vô chấp” dùng để chỉ đến việc hoàn toàn không có bám
luyến, song “thờ ơ” là sự từ bỏ hay từ chối một khía cạnh nào đó trong cuộc
sống. Bản thân sự tham luyến chỉ là tham luyến, nhưng sự thờ ơ còn tồi tệ gấp
đôi, đó là sự tham luyến nhân đôi, tham luyến đi đôi với rời bỏ. Vì vậy, cả
tham luyến hay thờ ơ đều không thể chấp nhận được trong việc thực hành tu tập
của chúng ta.
Chúng ta
hiến dâng bản thân mình để phụng sự cho hết thảy chúng sinh, để giúp họ có được
trạng thái bình đẳng xả. Tôi cho rằng, điều này chỉ có thể thực hành nhờ lắng
nghe giáo pháp. Nếu không, sẽ chẳng ai rõ bình đẳng xả là gì. Bình đẳng xả có
nghĩa là chẳng có những xúc tình như tham luyến hay thờ ơ. Điều này nghe có vẻ
rất kỳ lạ và như thể bạn sẽ trở thành một mẩu gỗ vô tri. Nhưng thực tế không
phải vậy. Bạn cần hiểu rõ khi tham luyến hay thờ ơ vắng bóng, một cảm thức lớn
lao tươi mới về tình yêu thương, lòng từ bi vô bờ bến sẽ nhậm vận xuất hiện.
Trong trạng thái này, bạn cũng sẽ thấu hiểu Đại thủ ấn là gì. Trong hiểu biết
của chúng ta, Đại toàn thiện hay Đại thủ ấn bị che ám bởi hai trạng thái tham
luyến và thờ ơ. Tịnh hóa được những điều này, vạn pháp sẽ trở nên tuyệt vời,
toàn thiện. Ngay cả hiểu biết nho nhỏ cũng sẽ trở thành hiểu biết lớn lao.
Không chỉ có vậy, thấu hiểu về bình đẳng xả đem lại cho bạn tình yêu
thương vĩ đại (Đại từ), cảm giác về lòng bi mẫn lớn lao (Đại bi); cảm giác về
sự hỷ lạc vô biên (Đại hỷ) và cảm giác về sự tri ân vô hạn. Nếu không, chúng ta
sẽ chẳng tri ân bất cứ thứ gì trong cuộc sống. Đơn cử như, chúng ta không tri
ân những lời đề nghị giúp đỡ từ phía người khác. Chúng ta không tri ân bất cứ
thứ gì vì chúng ta không có trải nghiệm về bình đẳng xả. Bình đẳng xả giúp bạn
tri ân mọi việc, hạnh phúc, an vui và hỷ lạc. Mọi điều thiện lành sẽ khởi sinh
từ tâm bình đẳng xả. Nếu không, bạn có thể cảm thấy thăng trầm. Đôi lúc, chúng
có thể rất thăng hoa hướng thượng nhưng đôi lúc lại trầm chìm u ám, tựa như một
trái bóng nảy lên nảy xuống tuỳ theo tính khí, hay những năng lực vận hành bên
trong bạn. Trái bóng nảy lên và xuống theo những xúc tình vốn cũng rất bấp
bênh. Chúng không thể đem lại cảm giác an vui, hạnh phúc lâu bền, hay tình yêu
thương và sự hỷ lạc lâu dài nào. Nhưng chúng ta không ai không mong muốn an
lạc, hạnh phúc lâu dài, những thứ lâu bền thường trụ. Hỷ lạc vô biên chỉ sinh
khởi từ tâm bình đẳng xả. Nếu không xuất phát từ bình đẳng xả, không điều gì là
chắc chắn, là hạnh phúc hay thăng hoa tích cực.
Tôi cho rằng, chiêm nghiệm về sự tri ân rất quan trọng. Nếu chúng ta
không tri ân cuộc sống, không tri ân chính mình và tập thể, thì sẽ chẳng còn gì
đáng giá. Cuộc sống sẽ trở nên vô cùng khổ đau và khó nhọc. Bất cứ điều gì xảy
đến hay cái gì chúng ta có được đều không thể truyền cảm hứng cho bạn, chẳng
điều gì giúp bạn cảm thấy được hạnh phúc. Tình bạn đẹp hay thực phẩm ngon,
chẳng thứ nào hấp dẫn hay tích cực có thể khiến bạn hạnh phúc, vì bạn không có
ý thức tri ân cuộc sống. Bạn không tri ân bất cứ thứ gì bạn có. Đây là vấn đề
cơ bản chúng ta thường gặp phải. Mọi người, không chỉ riêng phương Tây mà cả
phương Đông đều đang đối mặt với những rắc rối kiểu này.
Thực sự,
nếu bạn quán chiếu sâu sắc về cuộc sống, chúng ta có hàng trăm ngàn cảm xúc
tích cực, vô số những điều tích cực, thiện lành, đẹp đẽ để ăn, mặc, đi bộ, đàm
thoại và tận hưởng. Vô vàn những điều thiện lành tích cực đang diễn ra trên thế
giới một cách tự nhiên, song chúng ta không hề biết tri ân. Chúng ta không cảm
nhận được những điều tốt đẹp ấy và không có được cảm giác tích cực nào ngay cả
khi những điều tốt đẹp này đang đến với chúng ta.
Chúng ta không thực sự cảm thấy cần phải tri ân cuộc sống vì chúng ta
không chịu tiếp nhận. Tại sao lại như vậy? Đó
là vì chúng ta chưa có cảm thức về bình đẳng
xả. Trên thực tế, chúng ta quá bận rộn với tham luyến hay thờ ơ, chúng áp đảo
đến nỗi chúng ta không còn khoảng trống để đón lấy những món quà tuyệt diệu của
tạo hoá. Những điều tốt đẹp đang ở ngay đây. Những điều bất thiện cũng ở đó. Dù
luôn luôn có những điều tốt đẹp để đón nhận, song đa phần chúng đều ẩn khuất
khiến chúng ta không dễ dàng cảm nhận hay nhận ra để trải nghiệm. Sau khi, trải
qua khá nhiều khổ đau, có lẽ thi thoảng chúng ta cũng cảm nhận được hương vị
nào đó về tri ân cuộc sống. Khi những khổ đau về tâm lý, tình cảm trôi qua,
chúng ta có thể cảm thấy thư thái và chợt nhận ra cuộc sống thú vị đến nhường
nào. Đôi khi, chúng ta cảm nhận được một điều thực sự tích cực nhưng chúng hy
hữu chẳng khác nào một ánh sao đêm giữa bầu trời mù mịt. Mà thường thì, các bạn
không cảm nhận được, chúng xuất hiện chỉ đơn giản là một phần của cuộc sống.
Đôi khi,
chúng ta cảm thấy cuộc sống thật nhàm chán và mong muốn thay đổi, có một cuộc
sống tích cực hơn. Bạn có thể cảm thấy: “Ngày nào cũng là những món này, chán
quá.” hay “Ngày nào tôi cũng phải mặc những bộ quần áo này, tôi muốn diện thứ
gì đó khác cơ.” Kiểu thái độ này có nghĩa là bạn đang không biết trân trọng
những gì bạn đang có. Bạn đang tìm kiếm những điều mới lạ, bạn đang kiếm tìm
rắc rối! Một mặt, thì thay đổi có thể đem lại niềm vui. Ví dụ như, tôi thích đi
mua sắm, nếu vậy thì việc đi mua sắm đem lại cho tôi niềm vui. Quanh chúng ta
có nhiều niềm vui. Tuy nhiên, chúng ta đang tiếp cận trên phương diện căn bản
của sự thực hành. Tôi không nói rằng, bạn không nên đi mua sắm, không nên tìm
kiếm những bộ quần áo mới, hay thưởng thức những món ăn khác lạ…, song cơ bản
là chúng ta đang có cảm giác tham đắm, vì không thực sự biết trân trọng, tri ân
cuộc sống. Nếu bạn tiếp tục trong tình trạng này, cuộc sống của bạn sẽ luôn
nhàm chán, u ám và tiêu cực. Chúng ta sẽ luôn cảm thấy rằng mình chẳng có thứ
gì. Chúng ta có thể nghĩ: “Mình chẳng có thứ gì, thứ mình cần thì lại không có
tiền, mình không có bạn bè, mình không có nhà cửa, mình không có gia đình, mình
không có con trai, mình không có con gái…” Lúc nào chúng ta cũng sẽ nghĩ một
cách tiêu cực như vậy! Ngay cả khi có được những thứ này, bạn cũng sẽ không
biết tri ân chúng, đây là điều mà tôi thường thấy. Các bạn có thể tự suy ngẫm
về điều này. Đây là cách tôi cảm nhận, song các bạn không cần phải nhất nhất
tuân theo những gì tôi nói. Các bạn cần tìm hiểu xem những điều tôi nói có thực
sự đúng đắn hay không, đến mức nào.
Do vậy,
các bạn nên thực sự quán chiếu suy ngẫm về những điều này trong cuộc sống của
chính mình. Bạn đang định hướng cho cuộc sống của mình như thế nào? Bạn có thực
sự trân trọng, tri ân cuộc sống hay không? Hoặc bạn trân trọng điều gì, có thực
sự trân trọng không? Bạn có đang trải qua những khổ đau lớn lao không? Nếu bạn
cảm thấy đang khổ đau, thì tại sao bạn lại đang cảm thấy vậy? Thậm chí, nếu bạn
có một danh sách hàng trăm điều tiêu cực trong cuộc sống của bản thân, bạn vẫn
có thể thấy một danh sách nhiều điều tích cực. Do đó, tại sao chúng ta không
thể làm cho bản thân hạnh phúc và trân trọng mọi thứ trong cuộc sống để hân
hưởng cuộc sống của chính mình? Phương pháp quán chiếu này là một cách tiếp cận
thực hành tâm linh thực tế, là tinh túy của con đường tâm linh. Nói cách khác,
đó chính là việc làm thế nào để bản thân chúng ta được hạnh phúc, để hân hưởng
cuộc sống trong thế kỷ tới, thiên niên kỷ tới, hay ngay từ ngày mai cho tới mãi
về sau.
Các bạn
cần thực sự quán chiếu về những thệ nguyện cam kết trong buổi thuyết giảng này.
Chúng ta nói rằng, chúng ta nên có cam kết phụng sự hết thảy chúng sinh, song
tại sao lại cam kết hiến dâng bản thân mình để phục vụ tất cả? Chúng ta cần
thấu hiểu nguyên nhân. Nếu không thấu hiểu thì chúng ta đang thực hiện những
điều đó để làm gì? Nếu chỉ vì chúng ta đang phụng sự một tôn giáo thì thật vô
nghĩa. Các bạn không nên làm bất cứ điều gì chỉ vì lý do tôn giáo. Các bạn
không nên làm bất cứ điều gì chỉ vì một người khác nói bạn cần phải làm điều
đó. Các bạn nên làm mọi việc xuất phát từ chính sự hiểu biết của bản thân –
hiểu biết đã được xây dựng trên con đường tâm linh qua những hướng đạo của các
bậc thầy. Con đường tâm linh có nghĩa là hành động với hiểu biết của chính bản
thân mình. Hiểu biết những gì là chân lý cần phải khởi sinh từ bên trong bạn.
Hiểu biết của chính mình là suối nguồn khích lệ quan trọng.
Tìm kiếm hạnh phúc và nguyện cầu hạnh phúc cho hết thảy chúng sinh là
những điều vĩ đại, đây được gọi là “tình yêu thương.” Song suối nguồn hạnh phúc
này có thể dễ dàng bị lòng tham luyến ảnh hưởng và tác động. Tuy nhiên, tâm
bình đẳng xả đem lại cho bạn cảm giác hạnh phúc lớn lao. Có sự khác biệt lớn
giữa hạnh phúc chúng ta đang nói đến trong vô lượng tâm thứ nhất và vô lượng
tâm bình đẳng xả này. Tôi cho rằng, chúng hoàn toàn khác biệt cũng như cảm nhận
và trải nghiệm về chúng cũng rất khác biệt. Bản thân tôi có thể cảm nhận được
sự khác biệt lớn giữa hai loại hạnh phúc này.
Dĩ nhiên,
hạnh phúc là hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều có những lúc cảm thấy rất hạnh
phúc. Chúng ta có thể hạnh phúc khi gặp gỡ một ai đó, được ở bên cạnh một ai
đó, khi ăn những món ăn ngon lành và những điều tương tự như thế. Có nhiều kiểu
hạnh phúc mà chúng ta có thể mô tả được. Song hạnh phúc mà các bạn có thể trải
nghiệm qua tâm bình đẳng xả là một hạnh phúc vĩ đại, khó diễn đạt được, là một
hạnh phúc rất mạnh mẽ và an bình. Đó là một hạnh phúc rất sâu sắc. Khi tôi nói
đến từ sâu sắc, tôi không có ý định nói đến Đại thủ ấn, hay Đại toàn thiện. Đó
vẫn chỉ là một hạnh phúc tương đối, song hạnh phúc đó rất mãnh liệt, sâu sắc và
ổn định. Do đó, tôi muốn nhấn mạnh rằng, tinh thần thư thái an lạc là điều rất
quan trọng, song tôi hoàn toàn không thể diễn đạt đầy đủ điều này bằng tiếng
Anh vì vốn từ của tôi có hạn.
Dù sao đi nữa, mặc dù tinh thần thư thái nghe có vẻ nhàm chán nhưng đây
là một điều quan trọng mà chúng ta cần suy ngẫm. Một số người bạn của tôi đã
nói: “Tôi không thích ý tưởng về tinh thần thư thái. Tinh thần thư thái có
nghĩa là không sướng vui cũng chẳng đau buồn. Trạng thái đó mới nhàm chán làm
sao!” Song theo kinh nghiệm của tôi, trạng thái tinh thần đó chẳng có gì nhàm
chán cả. Tinh thần thư thái thực sự là một điều lớn lao. Trạng thái tinh thần
đó đem lại cho các bạn nhiều hỷ lạc. Các bạn chưa tưởng tượng được điều đó, các
bạn chưa thực sự tin trạng thái đó đem lại hỷ lạc đến dường nào.
Do đó,
việc thực hành Tứ vô lượng tâm là điều quan trọng nhất. Bốn cam kết này cần
được thực hành tu tập làm cốt lõi tinh tuý của Đại thừa và Kim Cương thừa. Lý
do tại sao, tôi bàn đến Tứ vô lượng tâm là nếu các bạn không biết đến những
điều này, nếu các bạn không thực hành những điều này trong việc tu tập hàng
ngày, các bạn sẽ không thể hiểu được bản chất. Các bạn không hiểu được bản chất
mặc dù các bạn có thể tụng niệm nhiều câu chân ngôn và nhiều bài kinh kệ, thiền
định về nhiều bậc chư thiên… Những việc thực hành tu tập này không thực sự đi
vào bản chất cốt lõi, nếu các bạn không có kiến thức cơ bản này.
Do vậy, từ
ngày hôm nay trở đi, chúng ta phải thay đổi trong việc thực hành tu tập hàng
ngày. Các bạn cần tập trung nhiều hơn vào việc thực hành Tứ vô lượng tâm. Điều
này rất, rất quan trọng. Đây là điều tôi luôn nghĩ, vì dường như mọi người
không xây dựng được lòng từ bi mặc dù họ thực hành tu tập rất nhiều. Có thể, họ
đã tu tập trong nhiều năm, có thể là mười, mười hai hay hai mươi năm, song khi
tôi kiểm tra, khi tôi gặp họ, trò chuyện cùng họ và tìm hiểu họ, tôi thường
thấy họ vẫn ở cấp độ trước đó. Không có sự phát triển hay tiến bộ nào; chẳng có
điều gì mới mẻ cả. Do đó, tôi tự hỏi điều gì đang diễn ra, và họ đang thực hành
tu tập những gì?
Cũng có
thể, những người đó đang thực hành tu tập rất tốt, tôi thực sự không thể phàn
nàn về mức độ tu tập của họ. Tuy nhiên, họ chỉ đang tu tập mà không thực sự
quan tâm tới Tứ vô lượng tâm. Họ không bao giờ nghĩ đến từ bi và tình yêu
thương và trạng thái thư thái. Họ đang tu tập việc tụng niệm…, song Tứ vô lượng
tâm là điều họ đã chối bỏ hoặc họ không thực sự nghĩ đến. Họ không thực sự hiểu
được tầm quan trọng của điều đó. Do vậy, nếu các bạn muốn, các bạn có thể nói
việc này là sự thay đổi lớn chúng ta cần tiến hành trong việc thực hành tu tập
của chúng ta.
(Bài giảng của Đức Pháp
Vương Gyalwang Drukpa
thứ XII tại Drukpa Plouray, nước Pháp trước thềm
Thiên niên kỷ mới.)
Discussion about this post