LINH HỒN, TÁI SINH VÀ GIẢI THOÁT
Lê Sỹ Minh Tùng
Trước khi Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia tìm đạo, nhân dịp dạo chơi bốn cửa
thành cung thành Ca tỳ la vệ, Ngài nhận thấy những cảnh khổ như sinh, già, bệnh, chết. Từ đó trong tâm của Thái tử nẩy sanh ra ba nghi vấn:
sanh tử thì phải làm sao?
Vì nhận thức như thế Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh cốt là để đi tìm chân lý cứu khổ, một con đường giải thoát. Ngài đã ra đi, bỏ lại tất cả, viễn ly mọi ràng buộc thế tình, trở thành
một nhà tu khổ hạnh và phải tranh đấu với những hoàn cảnh khắc nghiệt để mong
tìm thấy được ánh sánh chân lý. Sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Ngài
đã tìm ra con đường giải thoát, có được thanh tịnh Niết bàn và giác ngộ viên
mãn. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo giải thoát. Giải là cởi mở nghĩa là cởi mở
những trói buộc để thoát ra khỏi mọi hình thức đau khổ của cuộc đời.
Trong đêm lịch sử mùng tám tháng
chạp cách đây trên 2500 năm thì Ngài đã thành đạo sau khi chứng được tam minh
và lục đại thần thông. Tam minh đó là:
1)Túc Mạng Minh: Túc là đời trước, mạng là sinh mạng còn minh là sáng suốt. Do đó túc
mạng minh là sáng suốt để thấu hiểu rõ ràng những đời trước của mình. Đây là
lời giải đáp câu hỏi thứ nhất là con người chúng ta từ đâu mà đến? Đức Phật đã
thấy rõ vô số tiền kiếp của mình như việc mới xảy ra hôm qua. Đời trước Ngài là
ai? Tên gì? Và sống ở đâu? Từ đó vô số kiếp hiện ra trước mắt Ngài, một kiếp
qua đi thì kiếp khác lại đến. Vì sự trực tiếp nhớ về đời quá khứ của chính mình
nên về sau đệ tử của Phật gom góp tất cả các đời quá khứ để làm thành kinh Bổn
Sự cho Đức Phật.
2)Thiên Nhãn Minh: là con mắt sáng suốt thấy rõ ràng những gì rất xa một cách tường tận.
Ngài đã thấy sự sanh tử của chúng sanh dựa trên cái nghiệp mà chính họ đã tạo
ra. Sự thấy biết của Ngài như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường
thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng. Đức Phật thấy rằng con người chết rồi
không phải là hết mà phải theo nghiệp để thọ sanh trong Lục đạo Luân hồi. Đây
là câu trả lời cho nghi vấn thứ hai là sau khi chết chúng ta sẽ đi về đâu.
3)Lậu Tận Minh: Lậu là rơi rớt, tận là chấm dứt, là hết. Do đó lậu tận minh là biết
tường tận để không còn rơi rớt vào trong lục đạo luân hồi. Đức Phật đã thấy
nguyên nhân nào chúng sinh có sanh tử và phương cách nào chấm dứt sự sanh tử
nầy để không còn rơi rớt, trầm luân trong sáu nẻo luân hồi. Đây chính là chân
lý Tứ Diệu Đế. Con người không còn sanh tử tức là vĩnh viễn không còn đau khổ
và đây là câu trả lời cho nghi vấn thứ ba.
Ngoài tam minh, Đức Phật còn chứng cả lục đại thần
thông, đó là:
1) Thiên nhãn thông: có nhãn lực nhìn thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế gian bao
la rộng lớn.
2) Thiên nhĩ thông: có nhĩ lực để nghe khắp mọi nơi bao gồm loài người và loài vật.
3) Tha tâm thông: có tâm lực biết được tâm nguyện sở cầu của kẻ khác.
4) Túc mạng thông: có trí lực hiểu biết các đời trước của mình.
5) Thần túc thông: có thần lực để bay cao hay độn thổ.
6) Lậu tận thông: có trí tuệ thông suốt ba đời để không còn đau khổ, phiền não và sanh tử
luân hồi.
Thế thì điều kiện để thành Phật là chứng tam minh, đắc lục thông chớ không
hề có Bát Nhã. Nhưng trong Bát Nhã Tâm Kinh
đã khẳng định rằng chư Phật ba đời cũng phải y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa mà được
đạo quả Bồ Đề. Vậy hư thật thế nào? Vào thời Đức Phật còn tại thế, chính Đức
Phật và biết bao vị A La Hán chỉ cần đắc tứ thiền, chứng tam minh là có giải thoát. Mãi 700 năm sau ngày Đức Phật
nhập diệt, Bồ Tát Long Thọ mới giới thiệu tư tưởng Bát Nhã vào trong Phật giáo
và từ đó mới có Bát Nhã Tâm Kinh mà về sau khi Ngài Huyền Trang qua Ấn Độ thỉnh
kinh đem về và dịch lại Bát Nhã Tâm Kinh của Long Thọ mà chúng ta có được ngày
nay. Vậy thế nào là trí tuệ Bát Nhã? Đây là lời giải thích dựa theo lối văn tự mới của Phật
giáo Đại thừa để xác định rằng hành giả một khi có trí tuệ Bát Nhã nghĩa là
người đó có đủ trí tuệ để thấy biết rốt ráo rằng vạn pháp là vô ngã,
không có tự thể tức là không. Vì thế người đắc đạo là người thực chứng chân lý
Vô Ngã (ngã không) nghĩa là trong họ không còn khái niệm về “cái tôi” và “cái của tôi” nữa cho dù là vi tế.
Túc Mạng Minh và Thiên Nhãn Minh đã cho chúng ta một nhận định rõ ràng rằng con người có tái sinh cũng bởi do
nghiệp (karma) mà chính họ tự tạo trong đời quá khứ và dĩ nhiên chết không phải
là hết, mà cuộc đời của chúng sinh cũng giống như một như một sợi dây thẳng,
không có điểm bắt đầu và không có điểm cùng tận.
Thế nào là tái sinh?
Theo tinh thần Phật giáo, mỗi chúng sinh là sản phẩm
của chính mình, con người chúng ta hiện tại là sản phẩm do chính chúng ta tạo
nhân trong quá khứ và bây giờ chúng ta đang tạo ra cuộc đời cho chính mình trong tương lai. Cuộc sống là một quá trình
liên tục chỉ tạm thời gián đoạn mỗi khi thân xác vật lý biến đổi không còn phù
hợp cho việc tiếp tục tồn tại và dừng hoạt động, chúng ta tạm rơi vào trạng
thái không còn thân xác cho đến khi có cơ hội kết hợp đủ các yếu tố cần thiết
thì một chu kỳ sống mới với thân xác mới lại bắt đầu. Tuy nhiên khái niệm về sự
tái sinh không phải là đặc thù của Phật giáo mà rất nhiều tôn giáo khác nhau xưa
và nay cùng đưa ra học thuyết chủ trương sự đầu thai mà trong đó họ cho rằng
một linh hồn có thể luân chuyển trong nhiều thân xác khác nhau.
Vậy linh hồn là gì? Linh hồn có bất tử không?
Linh hồn, tiếng Hy Lạp là “Psyche”, nghĩa là sự sống, tinh thần, ý
thức. Socrates cho rằng linh hồn là
tinh thể (Essence). Platon lý luận rằng linh hồn bao
gồm lý trí (Logos), tình cảm (Thymos) và ái dục (Eros). Trong khi đó, Aristote định nghĩa linh hồn là hoạt tính của một cơ thể
sống và cho rằng linh hồn sẽ mất đi khi cơ thể không còn nữa,
giống như hoạt tính của con dao là cắt, khi con dao bị hư hoại thì hoạt tính
cắt không còn nữa. Mỗi tôn giáo, mỗi tín ngưỡng có quan niệm khác nhau về “linh
hồn”, nhưng thông thường linh hồn thường được hiểu là phần tinh anh, cái tinh
thể, phần tinh thần của con người. Xa hơn nữa, các tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi Giáo đều cho rằng linh hồn là phần thiêng liêng,
bất diệt. Linh hồn là do Thượng đế ban cho mỗi người như là sự sống. Nếu một
người biết thờ kính Thượng đế thì khi chết linh hồn đó sẽ được về sống hạnh
phúc đời đời trên Thiên đường. Ngược lại, nếu làm ác, không tin vào Thượng đế
thì linh hồn đó khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục để gánh chịu mọi sự
khổ đau.
Nói chung, các tôn giáo hữu thần đều cho rằng có một linh hồn bất tử trong
con người. Nếu khi sống làm như lời Chúa dạy, thì sau khi chết người ấy được
Chúa cứu rỗi lên Thiên đường hoặc ngược lại thì bị đày xuống hoả ngục. Cái phần
phi vật chất được lên thiên đường hay xuống hoả ngục đó, họ gọi là linh hồn.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, Bà la môn giáo (Ấn độ giáo ngày nay) tin
rằng có một linh hồn hay bản ngã (Atman)(tiểu ngã) trường tồn. Đối với Ấn độ giáo,
cặp phạm trù cơ bản nhất là tiểu ngã (Atman) và đại ngã (Brahman). Đại ngã là
cái bản ngã vũ trụ, cái tuyệt đối. Nếu nhìn dưới góc độ tôn giáo, đại ngã là yếu tố thần
linh được bao chứa và thấm nhuần trong vạn vật. Còn tiểu ngã là cái bản thể của
mỗi con người. Ấn độ giáo cho rằng tiểu ngã và đại ngã là nền tảng của vũ trụ
quan, trong khi đó thuyết nghiệp báo và luân
hồi là nền tảng nhân sinh quan. Thuyết luân hồi của Ấn độ giáo quan niệm rằng
cái chết của con ngưởi là sự chuyển hóa sang kiếp sống khác, sự tái sinh trong
luân hồi là do nghiệp báo mà ra. Nói cách khác, bất cứ hành động nào của con
người cũng phải trả giá, nó toàn năng ngoài ý muốn con
người và nó theo đuổi con người không bao giờ lầm lẫn. Sau cùng thuyết giải
thoát cho rằng tuy rất khó, nhưng con người có thể tránh khỏi luân hồi nghiệp báo bằng cách nỗ lực gắng sức dập tắt động lực đẩy bánh xe nghiệp báo thì có thể đi đến giải thoát. Và lúc đó
tiểu ngã sẽ hòa đồng vào đại ngã của vũ trụ. Tóm lại, Bà la môn giáo cho rằng
thờ phượng các Thượng đế (đại ngã) cũng chính là thờ phượng tiểu ngã (Atman) của mình cho nên tiểu
ngã là linh hồn và đại ngã (Thượng đế)(Brahman) là chúa tể các linh hồn đó.
Trong khi Ấn Độ giáo (Bà la môn giáo) tuyệt đối tin vào một
linh hồn, một tiểu ngã thường hằng bất biến thì sự xuất hiện của Đức Phật đã
thổi một luồng sinh khí mới vào trong xã hội Ấn độ lúc bấy giờ. Thuyết Duyên
Khởi của Đức Phật với chân lý “Vô Ngã” , một trong ba pháp ấn (Vô thường, Vô ngã,
Khổ) của giáo lý Phật Đà, đã phủ định cái Ngã trong Ta của Bà la môn giáo. Ấn
Độ giáo càng phát triển vun bồi cho “tiểu ngã” bao nhiêu thì giáo lý đạo Phật
chủ trương càng xa lìa, đánh đổ nó để trở về với trạng thái không dính mắc mà
có thanh tịnh tự tại Niết bàn. Vì thế con đường giải thoát của đạo Phật là phải
phá chấp, trong thì phá chấp ngã, ngoài thì phá chấp tướng, trong ngoài tự tại
là có thanh tịnh Niết bàn.
Trong khi đó, người Trung Hoa tin rằng sau khi chết thì linh hồn sẽ bị
ngưu đầu mã diện đưa về cõi âm. Sau khi được sự phán xét của Diêm vương, linh
hồn thiện đi đầu thai ở dương thế còn linh hồn ác bị đọa đày đời đời trong hỏa ngục. Do đó, người Trung Hoa
quan niệm rằng “sinh ký tử quy” nghĩa là “sống gửi, thác về” cho nên dương thế chỉ là cõi tạm trong khi
cõi âm mới là cõi sống thật sự do vậy mới có tập tục đốt giấy vàng bạc để cho linh
hồn ông bà tiêu xài ở cõi âm. Nhưng thử nghĩ lại đã ở trong hỏa ngục thì làm
sao tiêu xài? Cùng quan niệm đó, vào thế kỷ thứ 18, thi hào Nguyễn Du (Tố Như) có
viết trong truyện Kiều như sau:
“…Rằng: Những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh”.
Phách mà thi hào Nguyễn Du nói ở đây là thân tứ đại sẽ tan rã, tiêu mất. Cái
duy nhất còn lại của con người mà thi hào gọi là “tinh anh” thì chính là “linh
hồn” vậy.
Tuy có rất nhiều học thuyết về Thượng đế,
linh hồn, nhưng Phật giáo phủ nhận tất cả. Đối với Phật giáo không chấp nhận
khái niệm về một linh hồn bất tử hay một bản ngã thường tại. Vậy Phật giáo giải
thích hiện tượng này thế nào?
Đức Phật dạy rằng con người là sự tập
hợp của hai thành phần chính gọi là danh và sắc. Danh là phần tư tưởng gồm có 4 hợp tố, đó là thọ, tưởng, hành và thức. Sắc gồm có hai, đó là nội
sắc và ngoại sắc, nhưng đại để là sự kết hợp của đất, nước, gió, lửa.
Theo quan điểm của đạo Phật, mọi sự vật hiện
tượng, trong đó có cả con người, đều chịu sự chi phối của quy luật
biến dịch, thay đổi của vũ trụ. Định luật đó gọi là “vô thường”. Chính vì bản
chất của mọi sự vật hiện tượng là không thật, do các duyên hội tụ mà thành, nên
chúng mới chịu sự chi phối của định luật vô thường nầy. Thân (sắc) hay tâm (danh) của con người
cũng phải chịu sự chi phối, tác động này. Tất cả mọi sự vật hiện tượng,
dù là các ý niệm hay tư tưởng đều luôn luôn thay đổi nên không
có một cái gì gọi là một linh hồn bất tử được.
Do vậy, Phật giáo phủ nhận những quan niệm
về linh hồn bất tử vì những quan niệm đó hoàn toàn không phù hợp với thuyết
“duyên sinh, duyên diệt” của đạo Phật. Thật ra trên thế
gian này không có cái gì gọi là trường tồn, bất tử cả bởi vì tất cả mọi sự vật
đều sinh diệt vô thường. Cho dù to lớn như những hành tinh, những dãy Thiên hà
hay bé nhỏ như hạt bụi, nguyên tử thì không có một sự vật nào là không do nội nhân, ngoại duyên hội tụ mà tồn
tại. Vì sự tồn tại là do nhân duyên
cho nên mọi sự vật không có tự thể, không có tự tánh nghĩa là tất cả đều là vô
ngã tức là không. Nhân duyên tụ hội gọi là sinh, nhân
duyên ly tán, gọi là diệt thế thôi.
Không những luật vô thường áp dụng cho thế
giới vật chất hữu vi, mà ngay cả trong thế giới tư tưởng (tinh thần) thì tất cả
cũng đều sinh diệt vô thường cả. Nhân sinh vũ trụ thay đổi từng giây, từng
phút, từng sát na, từng ý niệm. Ngày nào chúng ta còn trai trẻ tráng kiện mà
bây giờ lưng mõi, gối mòn, lưng còng má hóp, nhớ trước quên sau, nếu không là
vô thường thì còn là gì? Cái tâm trước đâu có giống cái tâm sau cho nên tư
tưởng liên tục sinh diệt trong ta, thế không là vô thường thì là gì?
Theo Phật giáo, “linh hồn” là tính biết, cái biết, sự nhận thức, tư
duy…, gọi chung là Thức. Thức bao gồm một nội dung được xem là những dấu ấn,
những hạt mầm (chủng tử) được tạo nên bởi những hành tác của một
người trong đời sống hiện tại và những đời sống trước kia, còn được gọi là
nghiệp hay nghiệp thức.
Trong kinh Đại Duyên (Mahanidanasutta) của Trường Bộ (Dighanikaya), Đức
Phật gạn hỏi Tôn giả A-nan rằng:
“Này A-nan, nếu Thức không đi
vào trong bụng mẹ thì danh sắc có thể hình thành trong bụng mẹ được không?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Bạch Thế Tôn, không”.
Thức dựa theo Phật giáo là dòng chảy liên tục
của các ý niệm. Các ý niệm này tùy thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh và Đức Phật gọi quá trình tùy thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi”
và “thức” chỉ là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi mà thôi. Chính sự tiếp nối của các ý niệm tương tục nầy mà thức đi tái
sanh, lên xuống trong 3 cõi 6 đường, chứ không phải là một linh hồn bất tử,
vĩnh hằng như các tôn giáo hữu thần khác. Do đó, khái niệm
“thức” của Phật giáo hoàn toàn khác biệt với “linh hồn bất tử” của các tôn giáo khác.
Vào thời Đức Phật, chỉ có sáu thức là nhãn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Cho đến 700 năm sau
ngày Đức Phật nhập Niết bàn, các luận sư như Long Thọ, Vô Trước và Thế Thân
phân tích sâu rộng hơn công năng của ý thức (thức thứ sáu) và giới thiệu thêm
Mạt na thức (thức thứ bảy) và A lại da thức (thức thứ tám). Chính A lại da thức là năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nó
đẩy A-lại-da thức nương gá vào một thân thể mới vừa
tượng hình có hoàn cảnh phù hợp (tương ứng) với nó. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi đầu thai” mà Phật
giáo gọi là Thức đi đầu thai.
Nói tóm lại, Phật giáo gọi “linh hồn” là “Thức” hay “Nghiệp thức” do
vô minh từ vô thỉ mà có. Nó là vọng thức, luôn luôn vận hành, biến đổi theo
hoàn cảnh và hành tác của một người, và là động lực khiến chúng sinh trôi lăn
trong sinh tử luân hồi. Ngược lại linh hồn thì cố định, không thay đổi, trường tồn.
Vậy sự biến hành của “Thức” như thế nào?
Bây giờ chúng ta hãy suy nghiệm ý nghĩa của
“thức” dựa trên quan niệm của Phật giáo Đại thừa. Trên thực tế, tâm chỉ có một nghĩa là chủ thể của 8 thức chỉ có một, nhưng do phân tích công năng mà chia thành
tám. Làm ác, làm thiện là bảy thức đầu, và đem các nhân thiện, ác đó ký gửi ở
thức thứ tám. A lại da thức (thức thứ tám) là cái kho tàng chấp chứa tất cả hạt giống (chủng tử) của nghiệp tức là nghiệp nhân. Người
tổng quản của kho tàng là thức thứ bảy (Mạt na thức). Lấy của ra, đưa của vào kho là thức thứ 6, còn 5 thức đầu là tạo nghiệp. Tuy có tám thức,
nhưng Phật giáo chỉ lấy thức thứ tám là A lại da thức làm chủ thể của sinh mạng
vì A lại da thức đưa con người vào biển
sinh tử trầm luân và cũng chính A lại da thức này mà con người có thể huân tu
để chuyển phàm hóa Thánh.
Như vậy công năng của thức thứ tám là tàng trữ, nhưng khác với ông Thần tài giữ của, chỉ cho nhập mà không xuất kho. Ở đây trong A lại da
thức (thức thứ tám) thì tiến trình xuất và nhập kho nối tiếp không ngừng, nhập kho là các hành vi ảnh hưởng
đến tâm lý, và để lại dấu ấn trong thức thứ tám gọi là “nghiệp nhân hay chủng tử”. Còn xuất kho là tâm lý dẫn tới hành vi tạo nghiệp hay cảm thọ, gọi là “nghiệp quả hay hiện hành”. Nói cách khác, nếu chủng tử thành hiện hành thì đó là xuất. Còn hiện hành thành chủng tử thì đó là nhập. Vì vậy trong suốt
cuộc đời, tiến trình này tiếp nối không ngừng. Những đời quá khứ thì tiến trình
này cũng vậy và dĩ nhiên những đời tương lai, tiến trình xuất nhập này cũng y như vậy. Tất cả đều không ra
ngoài quy luật liên hệ giữa chủng tử và hiện hành. Cứ thế mà con người sinh tử
tương tục, sinh mạng nối tiếp không gián đoạn.
Vì sự biến hành liên tục, không ngừng nghĩ
giữa xuất và nhập, giữa chủng tử và hiện hành cho nên bản chất của A lại da
thức luôn luôn biến động không ngừng. Nói cách khác tiến trình của A lại da
thức là niệm niệm sinh diệt, niệm niệm biến đổi và đó chính là động cơ đưa con
người vào chốn sinh tử trầm luân và đồng thời A lại da thức có chức năng giúp
chúng sinh thoát ly sinh tử, chứng đắc thanh tịnh Niết bàn.
Hãy nghe lời giải thích của Bồ tát Thế Thân về A-lại-da thức
như sau: “Dòng chảy của các biến cố tâm thần mà bạn trải nghiệm, để lại
hạt mầm (chủng tử) của nghiệp trong thức lưu trử nên gọi là Tàng thức (A-lại-da
thức). Các hạt mầm được tồn trử trong nhà kho đó cho tới sau cùng, khi hội đủ
các điều kiện thích đáng, chúng chín muồi và rồi ảnh hưởng lên các biến cố về sau”.
A-lại-da thức chứa đựng mọi kinh nghiệm trong kiếp sống của
mỗi con người và nguồn gốc của tất cả các quan niệm tinh thần. Theo quan niệm
của Pháp tướng tông thì A-lại-da thức là nơi tập hợp mọi nghiệp quá khứ rồi tới
một thời đểm nhất định, tác động lên kiếp tái sinh. Và cá thể thật ra chỉ là
dòng sinh diệt tiếp nối của vô số chủng tử của nghiệp. Do đó, trong ta không có
một bản ngã cố định.
Trong Thành Duy Thức Luận quyển
ba giải thích thức A lại da
thức có ba công năng như sau:
1)Giữ gìn (chấp
trì) chủng tử của các pháp: Các pháp nói ở đây là chỉ cho tất cả các pháp
hữu vi. Đó là “hữu lậu hữu vi” tức là các pháp tạp nhiễm thuộc về chúng sinh và
“vô lậu hữu vi” tức là các pháp thanh tịnh thuộc về Thánh hiền. Tuy nhiên
“chủng tử” chỉ có công năng tiềm tàng (ẩn núp) mà không khởi hiện. Nếu không có
một cái gì để chứa giữ thì chủng tử của các pháp phải bị tản mất. Nếu chủng tử
các pháp bị tản mất thì các pháp hiện hành ở thế gian và xuất thế gian cũng
chẳng còn. Do đó phải có thức A lại da, tánh vô phú vô ký, nhất
loại sinh diệt tương tục mới có thể duy trì chứa giữ chủng tử của các pháp.
2)Giữ chịu(chấp
thọ) sắc căn và thế giới: Đây là
muốn chỉ cho cái công năng giữ gìn báo thân của chúng sinh hữu tình được tương
tục tồn tại trong một thời kỳ không tan hoại.
3)Giữ lấy(chấp
thủ) việc kết nối đời sau tức là “kiết sanh tương tục” là do ba
pháp: phiền não, nghiệp và sanh. Con người vì sống trong vô minh bất giác nên tạo ra nghiệp mà phải kết nối đời sau để thọ khổ.
Chữ “kiết sanh” có nghĩa là thọ sanh tức là bắt đầu từ khi kết thai cho
đến lúc sanh ra vậy. Tiến trình kết mối đời sau bắt đầu từ thân đang sống đến
thân đang chết. Rồi từ thân đang chết đến thân trung ấm (thân mới chết chưa đầu
thai). Và sau cùng từ thân trung ấm đến thân đời sau. Nếu các thân được tương
tục không gián đoạn như thế ắt phải có một cái gì thường lưu hành và giữ gìn
(chấp thủ). Cái đó chính là thức A lại da. Thật vậy, nếu không có thức thứ tám này để nắm giữ
việc “kết nối đời sau” thì khi một người chết rồi phải mất luôn, không còn tái
sanh được nữa. Như thế thành ra bị rơi vào thuyết Đoạn diệt của ngoại đạo rồi.
Thêm nữa tất cả những chủng tử tốt xấu đều được gieo vào mảnh đất A lại da
trong trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này được huân tập, chuyển biến, tương sanh,
tương duyên, tương diệt liên tục. Tất cả những sự chuyển biến này xảy ra liên
tục và tức thời, chớp nhoáng và liên tiếp. Cái này diệt thì cái kia sinh, tương
tức tương tục liên miên bất tận nên được gọi là Sát Na Sinh Diệt. Sát Na Sinh
Diệt có thể được ví như những khối nước liên tục chuyển động chẩy trong dòng
thác lũ. Khối nước trước đổ qua thì có khối nước khác đổ tới, tiếp nối liên tục
không ngừng nghĩ và dĩ nhiên dòng nước cũ không thể chẩy trở lại nơi mà nó đã
chẩy qua. Sự sinh diệt triền miên đó cũng có thể ví như những đợt sóng dạt dào
trên biển cả. Đợt sống này đẩy đợt sóng kia, đợt sóng mới đẩy đợt sóng củ. Bởi
có gió vọng tưởng thổi sóng dạt dào trên biển cả làm các ngọn sóng liên tiếp
nhồi lên lặn xuống không ngừng nghĩ cho nên ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng
mới khởi sanh.
Nhưng làm thế nào để có giải thoát, viễn ly
sinh tử luân hồi?
Như đã nói, công năng chính của A lại da
thức là sự biến động liên tục không ngừng giữa chủng tử và hiện hành hay nghiệp
nhân và nghiệp quả. Cũng như dòng nước chảy liên tục là do nước chảy mà có vì
thế cứu cánh giải thoát của người tu Phật là làm thế nào cắt đứt dòng nước chảy
sinh tử nhân quả liên tục đó. Một khi tác dụng của A lại da thức không còn nữa
nghĩa là trong A lại da thức không còn chấp chứa gì, hiện hành cũng không và dĩ
nhiên chủng tử cũng không thì lúc đó hành giả đã thành công chuyển “Thức” thành
“Trí”, chuyển phiền não sinh tử luân hồi thành Bồ đề Niết bàn vậy. Khi chúng sinh biết tu tập
làm cho tâm được thanh tịnh thì các chủng tử vô lậu được huân tập, tăng trưởng
và phát sinh ra hiện hành. Các hiện hành này được huân tập trở vào thức A lại
da thành các chủng tử vô lậu mới. Tùy theo tánh chất của các chủng tử vô lậu
mới này mà chủng tử hữu lậu tiềm ẩn sẳn có trong tàng thức bị suy thoái và tiêu
diệt hoặc các chủng tử vô lậu sẳn có ở trong đó được tăng trưởng và phát sinh
thêm. Nếu chúng sinh trì công tu tập có nghĩa là tiếp tục huân tập các chủng tử
vô lậu thanh tịnh đến khi tất cả các chủng tử và hiện hành hữu lậu hoàn toàn bị
tiêu diệt thì lúc đó họ sẽ chứng đắc được bát địa Bồ-tát của Đại thừa. Đến đây
thì tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử vô lậu. Các hạt giống hữu lậu của
phiền não, nghiệp báo luân hồi sinh tử không còn nữa và A lại da thức bây giờ
chuyển thành “Vô cấu thức”. Vô cấu thức cũng còn cái tên khác là Yêm-ma-la
thức, Bạch tịnh thức, Thanh tịnh thức, Chân như thức, Như Lai tạng thức hay
thức thứ chín. Tuy có rất nhiều tên như thế nhưng chung quy cũng chỉ có một ý nghĩa thanh tịnh, vô nhiễm.
Tóm lại, một khi chúng sinh đạt đến quả vị bát địa Bồ-tát thì các
chủng tử hữu lậu làm chướng ngại chân tâm sẽ bị hủy diệt, nhưng thật ra vẫn còn
những chủng tử hữu lậu vi tế nằm tiềm ẩn trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào
các vị bát địa Bồ-tát tiếp tục tiến tu pháp tối thắng vô phân biệt trí, được
gọi là Thắng Pháp Không Quán, để vượt qua khỏi bậc Bồ-tát Thập địa mà đến bậc
Đẳng Giác và khởi Kim Cang Dụ Định mà đạt tới Phật quả thì thức thứ tám này mới
xóa tan hoàn toàn tất cả các vô lậu thậm thâm vi tế và chuyển thành Đại Viên
Cảnh Trí. Khi đó các chủng tử vô lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này chuyển thành
trí thanh tịnh chiếu khắp mười phương các cõi nhiều như vi trần nên gọi là Đại
Viên Cảnh Trí. Đây chính là cái thể thanh tịnh của Chơn Tâm cũng như mặt gương
sáng chiếu soi tất cả vạn pháp một cách chân thật mà nhà Phật gọi là “như
thị bất khả tư nghì”.
Thế thì A lại da thức không thể nào là
“linh hồn” được vì linh hồn bất biến vĩnh hằng, trong khi đó A lại da thức có
khả năng siêu phàm, nhập Thánh, giải thoát sinh tử trầm luân. Đây là điểm đặc
thù của Phật giáo, hoàn toàn khác hẳn với bất cứ tôn giáo nào trên thế gian bởi
vì Thánh giả của Phật giáo là người hoàn toàn giải thoát, không còn mầm mống
tham-sân-si cho dù là vi tế. Họ luôn sống trong tự tại thanh tịnh Niết bàn và
quan trọng nhất là làm chủ sự sống chết. Đối với những Thánh giả Phật giáo, sống
là tùy duyên, độ đời cho nên khi duyên hết họ vào thiền định (tứ thiền từ cao
xuống thấp và ngược lại), tịnh chỉ hơi thở rồi nhập Niết bàn. Ngài Xá Lợi Phất
dạy rằng:
Phật giáo “không bao giờ” có truyền thống
phong Thánh cho ai cả vì ai tu người ấy chứng, ai ăn người ấy no, không bao giờ
một người ăn mà người khác no được (Kinh Lăng Nghiêm). Đức Phật dạy rằng: “một người chết đuối thì không thể nào cứu
một người chết đuối khác được” cho nên phàm nhân thì làm sao ai có đủ tư
cách phong Thánh cho phàm nhân khác được?
Khi mê thì chấp có ta, có Bản Ngã nên mới
tạo nghiệp để phải chịu sinh tử triền miên. Đến khi thức tĩnh giác ngộ, thức
tâm vọng niệm biến mất, bản Ngã không còn thì chơn tâm, Phật tánh hiện bày. Con
người thường nghĩ rằng trong họ phải có Cái Ta nên trong tâm thức lúc nào cũng
cho rằng Cái Ta này phải khác với mọi sự vật và cho đến chết họ cũng bo bo giữ
chặt “Cái Ta” đến cùng để chuyển từ thân này sang thân khác. Nhưng tâm thức thì
cùng khắp mười phương thế giới, không hề đi đâu. Còn Cái Ta chỉ là ảo danh,
không hề thật có mà con người bám vào kiến chấp mê lầm nên mãi trôi nổi trong
sinh tử luân hồi. Hãy lắng nghe câu chuyện trong kinh Tỳ kheo Na Tiên như sau :
Vua Di Lan Đà bây giờ hỏi Tỳ kheo Na Tiên rằng :
– Bạch Đại đức! Con người sau khi chết rồi, cái gì sanh trở lại?
Tỳ kheo Na Tiên liền đáp :
– Tâu Đại vương! Đó là Danh (thọ, tưởng, hành, thức) và Sắc (thân tức là
đất, nước, gió, lửa…).
– Phải chăng đó là Danh và Sắc-thân của người cũ sanh trở lại?
– Thưa không phải Danh cũ, cũng không phải Sắc-thân cũ sanh trở lại. Cái
Danh Sắc-thân của đời này làm các việc thiện ác, do nghiệp thiện ác ấy mà
chuyển sanh sang một Danh Sắc-thân khác để thọ lãnh phước báo hay tội báo đã
gây ra.
– Như vậy là không phải cái Danh Sắc-thân cũ sanh trở lại. Thế thì đời này
là điều ác, đời sau đâu có chịu quả báo được? Và nếu không sanh trở lại nữa thì
tức là đã thoát khỏi luân hồi?
– Không phải như vậy! Nếu sống ở đời mà chỉ toàn làm điều thiện thì sau
khi chết có thể không sanh trở lại. Nhưng thông thường thì làm điều thiện cũng
có mà gây điều ác cũng nhiều, việc lành, việc dữ tiếp nối xen nhau không ngừng,
cho nên phải sanh trở lại mà thọ báo. Làm sao thoát khỏi luân hồi được.
– Xin cho thí dụ về sự liên hệ giữa Danh Sắc-thân cũ với Danh Sắc-thân mới
:
– Ví như người hái trộm xoài của kẻ khác. Chủ vườn xoài bắt được quả tang
đem đến đầu cáo với Đại vương, yêu cấu Đại vương xử trị. Trước mặt Đại vương bị
cáo cãi rằng : ”Tôi không hái xoài của anh ấy. Cây xoài của anh ấy trồng hồi
trước là cây mầm tí xíu. Còn những trái xoài mà tôi hái bây giờ nằm trên một
cành cây to lớn sum sê. Thế thì tôi đâu có ăn trộm”. Trước những lý lẽ viện ra
như thế, Đại vương có cho rằng anh ta vô tội và xử cho anh ta được thắng kiện
không?
– Không! Vua Di Lan Đà đáp. Anh ta có tội. Trẩm sẽ xử cho người trồng xoài
được thắng kiện. Vì trước kia nhờ người này ra công trồng trọt bón xới cây mầm,
cho nên ngày nay mới có cây xoài to lớn đơm hoa kết trái.
– Tâu Đại vương! Con người tái sanh trở lại cũng giống như thế. Với cái
Danh Sắc-thân này, người ta sống trên đời mà làm các việc thiện ác. Nghiệp
thiện ác nối tiếp không ngừng, chuyển biến hình thành để sanh ra một Danh
Sắc-thân mới. Cũng như do công phu đào lỗ bỏ hột và vun bón cây mầm nên về sau
mới có cây xoài sum sê cành lá với trái chín trĩu cây. Làm việc thiện ác trong
đời này tức là gieo hột giống xuống đất và bón xới cây mầm. Đời sau không sao
không thọ báo được.
Vua lại hỏi :
– Bạch Đại đức! trong con người cái gì làm chủ? Phải chăng đó là linh hồn
thường tại?
– Tâu Đại vương! Cái linh hồn thường tại ấy như thế nào?
– Nó thường ở trong ta, dùng mắt mà nhìn hình sắc, dùng tai mà nghe âm
thanh, dùng mũi mà ngửi mùi, dùng lưỡi mà nếm vị, dùng thân mà sờ mó nhám trơn,
dùng ý mà hiểu biết và nhờ nghĩ. Nó cũng như Đại đức và trẩm hiện đang ở trong
cung điện này nhưng vì bốn mặt đều có cửa sổ, nên ngang qua cửa sổ ấy chúng ta
mới thấy được phong cảnh bên ngoài.
– Như vậy, ý Đại vương là muốn ví các giác quan nơi con người với các cửa
sổ của cung điện này chăng? Ngang qua bất cứ cửa sổ nào, ta cũng thấy được cảnh
vật bên ngoài. Thế thì ngang qua bất cứ giác quan nào, linh hồn thường tại cũng
phãi thấy được ngoại cảnh giống như thế chứ gì? Vậy linh hồn thường tại có thấy
được hình sắc bằng tai, mũi, lưỡi, thân và ý chăng?
– Thưa không.
– Linh hồn thường tại có nghe được âm thanh, có ngửi được mùi, có sờ biết
nhám trơn, có suy nghĩ bằng mắt, mũi,
lưỡi, thân và ý chăng?
– Thưa không.
– Như vậy thì lời lẽ của Đại vương trước sau không xứng hợp với nhau. Lại
nữa, trong khi Đại vương và bần tăng cùng ngồi trong cung điện này, nếu phá bỏ
hết tất cả các cửa sổ ở bốn phía thì tầm mắt của chúng ta rộng xa thêm ra
không?
– Thưa có.
– Vậy, phá bỏ một cái cửa nơi thân ta là cặp mắt chẳng hạn thì linh hồn
thường tại có thấy rộng xa thêm không?
– Thưa không.
– Và nếu phá bỏ thêm mấy cái cửa khác nơi thân ta là tai, mũi. Lưỡi, thân,
ý thì linh hồn thường tại có nhờ đó mà nghe rộng thêm, ngửi nhiều thêm, nếm
tăng lên, sờ nhiều ra và suy nghĩ rộng hơn không?
– Thưa không.
– Như vậy lời lẽ của Đại vương trước sau lại không xứng hợp nhau.
Na Tiên bèn giải thích rằng :
– Con mắt và hình sắc gặp nhau khiến tâm thần kích động. Tâm thần kích
động thì liền sanh cảm thọ khổ vui. Với lỗ tai và âm thanh, hoặc với mũi và
hương, lưỡi và vị, thân và nhám trơn, ý và điều nhớ nghĩ cũng như thế. Tâm thần
kích động thì liền sanh cảm thọ khổ vui. Do cảm thọ khổ vui liền sanh ý niệm. Do ý niệm biến chuyển thành tựu cho nhau mà
tạo nên một ông chủ vô thường là cái giả Ngã. Cái gọi là linh hồn thường
tại đâu có dính dáng gì ở đây.
Dựa vào câu chuyện trên thì một người hiện
tại đang sống tức là hiện giờ họ đang có đủ sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Con
người vì bị vô minh che lấp, lấy giả làm chơn nên nghĩ rằng trong họ phải có
một cái Ngã (Cái Ta) thường hằng bất biến mà họ gọi là linh hồn để làm chủ lấy
đời họ và khi chết cái linh hồn này sẽ chuyển sang thân khác ở đời sau. Vậy hãy nghiệm xem thật sự con người có cái
linh hồn thường hằng bất biến chăng? Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn
tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức nghĩa là con người là do nhân duyên hòa hợp
tạo thành, chớ tự chúng không thể có được vì thế, ngũ uẩn không có tự tánh, chủ
thể nên nó là vô ngã tức là Không. Cái biết phân biệt của lục thức khi lục căn
duyên với lục trần chỉ là những ý niệm thay đổi không ngừng trong tâm thức của
con người trong khi đó linh hồn thì cố định đâu có thay đổi. Dựa theo lý luận
của những tôn giáo hữu thần thì con người vừa mới kết tinh rồi sinh ra thì đã
có sẳn một cái linh hồn. Đến khi lớn lên và cho đến lúc chết thì cái linh hồn
này vẫn như thế, không tăng không giảm, cố định. Nhưng thật ra một người càng
hiểu biết chuyện đời thì tâm thức càng nới rộng chớ đâu có cố định. Một ông bác
sĩ, một vị kỹ sư, một nhà bác học thì chắc chắn sự hiểu biết của họ hiện giờ
khác rất xa với lúc họ chưa thành đạt. Thêm nữa, tạo tác thiện ác, tốt xấu là
bởi do Mạt na thức. Bởi vì Mạt na thức có tính hằng thẩm tư lương nên luôn chấp
đó là mình, là của mình mà sinh ra tham đắm si mê. Vì còn phân biệt đối đãi nên
thấy có ta có người và dĩ nhiên là thấy Cái Ta và Cái Của Ta là đúng, là đẹp,
là hơn. Đây là những căn bản của phiền não khổ đau cũng bởi do chấp ngã mà ra.
Vì thế mới gọi là Ngã Si, Ngã Kiến, Ngã Mạn và Ngã Ái. Sau cùng tất cả những
chủng tử thiện ác được cất giữ trong A lại da thức để chuyển sang đời sau. Nhưng tiến trình này như thế nào?
Con người vì sống trong vô minh bất giác
nên tạo ra nghiệp mà phải kết nối đời sau để thọ khổ. Chữ “kiết sanh” có nghĩa là thọ sanh tức là bắt đầu từ khi kết thai cho
đến lúc sanh ra vậy. Tiến trình kết nối đời sau bắt đầu từ thân đang sống đến
thân đang chết. Rồi từ thân đang chết đến thân trung ấm (thân mới chết chưa đầu
thai). Và sau cùng từ thân trung ấm đến thân đời sau. Nếu các thân được tương
tục không gián đoạn như thế ắt phải có một cái gì thường lưu hành và giữ gìn
(chấp thủ). Cái thường lưu hành và giữ gìn đó chính là thức thứ tám, là A lại
da thức. Thật vậy, nếu không có thức thứ tám này để nắm giữ việc “kết nối đời
sau” thì khi một người chết rồi phải mất luôn, không còn tái sanh được nữa. Do
đó Phật giáo phủ nhận cái linh hồn thường hằng bất biến trong con người, bởi vì
linh hồn thì không thay đổi nhưng con người mỗi giây mỗi phút luôn thay đổi
theo thời gian và không gian. Tất cả những chủng tử thiện ác mà con người kết
tập sẽ được cất giữ trong A lại da thức và sẽ chuyển qua thân khác khi nhân
duyên hội đủ. Nên nhớ rằng thân xác là do kết hợp của thất đại (địa đại, thủy
đại, phong đại, hỏa đại, kiến đại, không đại và thức đại) vì thế khi con người
chết, thất đại tan rã thì đất trở lại với đất, nước trở về với nước, lửa trở
lại với lửa… A lại da thức sẽ trở về với không đại trong không gian vô cùng vô
tận này. A lại da thức hiện hữu trong hư không (không đại) không có nghĩa là nó
không có. Nó lúc nào cũng có nhưng mắt thường không thấy được nên nhà Phật mới
gọi nó là không. Ví cũng như gió, có ai thấy được gió đâu, nhưng gió lúc nào
cũng có trong không gian địa cầu này. Không khí cũng thế, chỗ nào mà không có
không khí, nhưng không khí không có mùi vị, hình sắc nên ngũ quan con người
không nhận biết được. Một thí dụ khác là khí đốt. Khí đốt thì không có mùi vị,
màu sắc mà lại rất độc cho nên khi dùng công tu hơi đốt mới cộng thêm mùi thúi
vào để dễ nhận biết. Vì vậy khi hội đủ “nhân
duyên” thì A lại da thức duyên khởi
tác tạo ra con người mới tức là có tái sinh.
Một người mới chết, tuy thất đại từ từ tan rã,
tay chân lạnh ngắt, tim ngừng đập, nhưng Tàng thức (A lại da thức) vẫn còn lưu
lại trong thân xác người chết. Dựa theo Phật giáo thì khoảng 8 tiếng đồng hồ
sau khi tim ngừng đập thì Tàng thức mới thoát ra khỏi thân xác. Tất cả hơi nóng
trong người (hỏa đại) đi theo Tàng thức ra ngoài nên toàn thân người chết lúc
đó mới thật sự lạnh ngắt. Chính A lại da thức là năng lượng gọi là nghiệp lực, là sức mạnh vô hình nhập vào Noãn bào của người mẹ trước khi thất đại được hình
thành. Đó là ý nghĩa của “linh hồn đi
đầu thai”. Nhưng đến lúc lâm chung, tất cả thất đại tan rã trước rồi
Tàng thức mới thoát ra sau.
Có ai chết rồi mà không sanh trở lại không?
Nếu chúng sinh còn nặng nợ tham dục ái ân,
kẻ đó còn sanh trở lại đời sau. Còn những ai đã thoát khỏi vòng tham đắm dục
tình thì người đó sẽ không còn tái sanh trở lại. Nói cách khác còn tạo nghiệp
là còn sinh tử, hết tạo nghiệp là thoát
ly sinh tử, chứng nhập Niết bàn.
Cốt lõi của đạo Phật là gì?
Đến đây, Đức Phật đã giải thích xong hai
nghi vấn đầu nói về luân hồi nghiệp báo, nhưng đây không phải là cốt lõi của
giáo lý Phật Đà trong suốt thời gian 49 năm hoằng pháp của Ngài. Giáo pháp quan
trọng nhất của đạo Phật là giúp chúng sinh thoát khổ và giải thoát mà không cần
trông đợi vào bất cứ tha lực nào bởi vì Phật giáo là tín ngưỡng tự lực.
Nhưng tại sao con người phải khổ?
Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều
nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và
gọi đó là “Cái Ta” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là
“Cái Của Ta”. Khi cảm tính về “Cái Ta” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi
hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát. Ta thì lo
ích kỷ cho riêng ta, người thì lo ích kỷ cho người vì thế con người bắt đầu
tranh chấp, đố kỵ, hơn thua, lo bảo vệ Cái Ta và những cái thuộc về Ta. Cảm
tính về Cái Ta và Cái Của Ta được xem là sự bám vúi, chấp thủ một khi sáu căn
tiếp xúc với sáu trần và nỗi khổ niềm đau cũng bắt đầu phát sinh từ đó.
Ngã chấp phát triển như thế nào?
Một đứa bé mới sinh ra đời chưa có cảm tính
về một “Cái Ta” riêng biệt trong tâm thức của nó. Dần theo môi trường sống lớn
lên, đứa bé được cha mẹ, những người thân chung quanh nhét vào trong tâm thức
những ý niệm về Cái Của Ta. Đây là cha mẹ của nó, thức ăn của nó, cái giường
ngủ của nó, đồ chơi của nó, cái phòng của nó, cái chén cái ly này là của nó,
anh chị em của nó….Vì là của nó nên nó phải bảo vệ giữ gìn Cái Của Nó từ đó tâm
thức bắt đầu phát triển những ý niệm ích kỷ hẹp hòi. Cái Ta ấy mỗi ngày tiếp
tục biến đổi và sinh trưởng dưới tác động của những điều mà nó học hỏi mới và
các kinh nghiệm mới trong cuộc sống và trong tâm thức của nó lúc nào cũng có
Cái Ta mới khác hẳn với Cái Ta trước đó. Nói chung Cái Ta thay đổi từ lúc còn
bé thơ, dần đến trưởng thành và sau cùng là đến lúc mạng chung. Mỗi thời điểm
trong cuộc đời có một Cái Ta khác biệt, nào là Cái Ta lúc còn đi học, Cái Ta
bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, Cái Ta của những cặp nhân tình, Cái Ta của những
đấng cha mẹ, Cái Ta của những người lớn tuổi và cuối cùng Cái Ta của người sắp hấp
hối. Nói chung, Cái Ta đang tuần tự biến dạng trong kiếp sống này qua những thể
dạng khác nhau từ trẻ thơ, đến trưởng thành, rồi già nua và sau cùng nhờ vào
cái chết để trở thành Cái Ta của một đứa bé khác dưới một cái tên gọi khác, vào
trong một gia đình khác, một dòng họ khác, một quê hương khác, một tôn giáo
khác và dĩ nhiên nó mang theo bao nhiêu kinh nghiệm, ký ức, kiến thức từ kiếp
trước dưới hình thức những vết hằn ghi đậm trên dòng tri thức liên tục của nó.
Con người cố bám víu vào Cái Ta và Cái Của
Ta dưới đủ mọi hình thức và họ quan niệm rằng Cái Ta chính là sự sống trong
cuộc đời. Nhưng trên thực tế, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ
hiện tượng gì trên thế gian từ vật chất đến tinh thần, kể cả những thứ tốt đẹp
nhất thì tức khắc nó sẽ sinh ra phiền não khổ đau.
Thí dụ nếu xem thân xác này là Của Ta thì
chắc chắn chúng ta phải trau chuốt, chưng diện, phấn son, trang sức lấp lánh,
áo lụa quần là, tạo công danh phú quý cho Cái Ta hưởng, mua nhà to đắt tiền cho
Cái Ta ở, mua cao lương mỹ vị cho Cái Ta dùng, tranh công đoạt chức cho Cái Ta
hãnh diện. Xa hơn nữa có người cắt bớt chỗ này, độn thêm chỗ kia cho cái thân
thể Của Ta thêm hấp dẫn, rực rỡ huy hoàng…Nhưng thân này thực sự nó là Của Ta
chăng? Nếu nó là Của Ta thì Ta phải làm chủ nó. Ta bảo nó đừng già, đừng bệnh,
đừng chết…nó có nghe không? Nếu là Của Ta thì tại sao Ta không mang nó theo khi
chết mà tứ đại trở về với cát bụi?
Tệ hại hơn nữa, nếu bây giờ nghĩ rằng tâm
thức là Của Ta thì sự ích kỷ sẽ bùng lên, hận thù dấy khởi, tự ái dày vò, tham
lam xúi dục, trong tâm dấy lên bao nhiêu hy vọng, ước mơ, mưu mô, tiếc nuối,
thương yêu, ghét bỏ…từ đó phát sinh biết bao ảo giác và tưởng tượng không thiết
thực và đây chính là đầu dây mối nhợ cho biết bao sự lo âu, phiền muộn và tranh
chấp trong cuộc đời. Có chiến tranh giết chóc cũng bởi vì con người luôn bảo vệ
những quan niệm rằng đây là nhà Của Tôi, gia đình Của Tôi, đất nước Của Tôi,
quê hương Của Tôi, chùa Của Tôi, tôn giáo Của tôi, giáo hội Của Tôi…Bạn có biết
trước khi đến thế giới này, kiếp trước bạn ở đâu không? Quê hương nào thực sự
là của bạn? Quê hương bây giờ, quê hương trong kiếp quá khứ hay quê hương trong
những kiếp tương lai? Cái nhà nào là cái nhà Của Ta? Nếu thật sự là Của Ta thì
tại sao bạn không đem nó theo khi bạn chết mà phải bỏ lại hết cho thế gian? Có
phải đó là con cái Của Ta, vợ chồng Của Ta, cha mẹ Của Ta chăng? Một khi ý niệm
Của Ta tiềm ẩn trong tâm thức thì những khuynh hướng như ích kỷ, làm chủ, độc
tài, độc đoán sẽ phát hiện khiến cho cuộc sống trong gia đình thiếu thăng bằng,
mất hạnh phúc. Bạn có hài lòng (hạnh phúc) khi người khác làm chủ (control) bạn không? Có
phải tờ giấy hôn thú bảo đảm bạn làm chủ cuộc đời của người hôn phối chăng? Nếu
thế thì tại sao hằng ngày có biết bao cặp vợ chồng dắt nhau ra tòa ly dị? Nó là
con cái Của Ta thì tại sao chúng nó không nghe lời Của Ta?
Dựa theo tinh thần Phật giáo, không có gì
trên thế gian là Cái Ta hay Cái Của Ta cả. Tất cả chỉ là do nhân duyên tác tạo.
Vợ chồng là do duyên nợ mà thành. Hai người đã có nợ nần từ tiền kiếp, bây giờ
có đủ duyên gặp lại nhau thì kết thành vợ chồng trở lại để trả hết những nợ nần
kiếp trước và dĩ nhiên tiếp tục tái tạo nợ nần cho mai sau. Nếu không có nợ mà
chỉ có duyên thì họ chỉ yêu nhau qua một giai đoạn rồi gặp trắc trở và cuối
cùng cũng phải chia tay. Tình yêu bên ngoài có thể che phủ bằng những bông hoa
tươi thắm, nhưng thật ra bên trong nó được che lấp bằng những bản chất ích kỷ
và hưởng thụ của con người. Chính bản năng hưởng thụ đã thúc đẩy trai gái tìm
đến với nhau và cũng chính cái bản năng ích kỷ đó (Cái Của Ta) đã thúc đây họ
làm khổ cho nhau.
Do đó nếu con người biết đem tình thương chân
chính của sự hy sinh, độ lượng và vị tha vào trong cuộc sống thì tình yêu đó sẽ
không còn đậm màu sắc ảm đạm của bản năng ích kỷ. Thông thường, do lòng
đố kỵ và ích kỷ, chúng ta ít chịu chấp nhận cái hay của người khác vì người
khác nổi bật sẽ làm chúng ta bị lu mờ. Chúng ta thờ ơ trước
những ưu điểm của kẻ khác và vui mừng khi tìm thấy khuyết điểm của người vì
người lu mờ thì ta sẽ nổi bật. Do tâm vị kỷ chúng ta dễ dàng rơi vào cạm bẩy “tán kỷ, hủy tha”, tức là khen mình, chê
người. Đây là cội nguồn phát sinh ra phiền não
và tạo nghiệp cũng tại vì cái ngã mạn mà thôi. Phải đổi tính vị kỷ nầy bằng
tinh thần vị tha thì cuộc sống sẽ an vui tự tại. Thấy người giỏi thì khen, thấy
người giàu thì mừng, thấy người khổ thì giúp. Thực hành như vậy thì phiền não
không còn và những nguyên nhân gây ra phiền não cũng chấm dứt.
Thêm nữa, trong đời quá khứ nếu kết duyên
với con cái thì đời nầy chúng ta gặp lại chúng. Nếu là phước duyên thì chúng
đến để báo đền ơn nghĩa ngày xưa. Chúng quan tâm, lo lắng và giúp đỡ mọi chuyện
cho cha mẹ. Chúng cố gắng học hành, trở thành người tốt để đem niềm vui cho cha
mẹ. Còn nếu là ác duyên có nghĩa là chúng đến để đòi nợ, gây khổ cho cha mẹ.
Cha đau mẹ yếu chúng chả cần quan tâm. Chúng chỉ thích ăn chơi trác táng, phung
phí tiền bạc, tương lai đen tối và gây phiền não cho gia đình. Thay vì cố gắng
tạo dựng một tương lai tốt đep cho cuộc đời của mình thì trong tâm chúng chỉ để
ý đến cái gia sản to lớn của cha mẹ mà thôi. Thế thì cái gì là con cái Của Ta?
Đức Phật sinh ra trong cung vàng điện ngọc nhưng Ngài thấy rằng những nỗi
khổ lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau tuổi trẻ, sức khỏe và đời sống của tất cả mọi
chúng sinh. Nỗi khổ là hiện tượng vô hình, nhưng nó lại tác động không kém gì
những nhát đao, những thanh kiếm xuyên suốt vào tâm của con người. Cái đau đớn
trong tâm hồn nhất thiết không thương sót một ai. Người giàu sang phú quý cưu
mang nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo khó cũng phải gánh chịu những nỗi bất
hạnh đau đớn dành riêng cho họ. Ông hoàng bà chúa có những nỗi khổ niềm
đau theo lối vua chúa, ngược lại kẻ bần
cùng cũng có cái đau cái đớn chẳng khác gì. Nhưng tại sao chúng sinh lại phải
khổ?
Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Đức Phật dạy rằng:
–Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát
sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và
phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái
dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.
Con người vì bị vô minh che lấp nên không
nhìn thấy biết đúng và từ đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi chấp thủ, khư
khư bám chặt lấy “Cái Ta” và những cái gì gọi là “Cái Của Ta”. Thí dụ bất
cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ, bằng gạch hay bằng xi măng
cốt sắt, nhưng Đức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải thật sự là “Cái Của Ta mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó là một
hiện tượng mà chúng ta gọi cái nhà trong thế gian vậy thôi. Còn ngôi nhà thật
sự của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm thức. Một cái nhà vật chất ở
ngoại cảnh có thể thật đẹp, nguy nga tráng lệ, nhưng nó chính là nguyên nhân
tạo từ lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn tự
lo nọ đến áy náy buồn phiền kia. Vì nó ở ngoài ta tức là vật ngoại thân nên sớm
muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại cho nên càng bám víu vào nó thì càng khó dứt bỏ
tức là càng khổ đau thêm. Nó không phải là nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh viễn
trong đó, bởi vì nó không thật sự thuộc về ta mà là một phần của thế gian. Do
đó ái dục làm động cơ thúc đẩy con người đưa đến hành động tạo nghiệp bất thiện
bằng chính thân, khẩu hay ý của ta. Chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng
của vô minh, sai khiến con người luyến
ái, đeo níu, bám chặt vào đời sống và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con
người lặn hụp triền miên trôi nổi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Do đó có sống
là có khổ.
Nói chung khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho con
người khó chịu. Hạnh phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những
điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc
nào thật sự vững bền cả. Những điều mà chúng sinh mong muốn chỉ tồn tại nhất
thời và những đối tượng mà con người khao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là phù du
tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt
một làn hương.
Thêm nữa, dựa theo thuyết “Nghiệp cảm duyên khởi” của đạo
Phật thì tất cả những chủng tử thiện, ác chẳng những từ đời này mà còn bao
nhiêu đời quá khứ phát xuất từ ý nghĩ, lời nói và hành động của con người đều
được lưu giữ trong A lại da thức (nhân). Khi hội đủ duyên thì chủng tử thiện,
ác đó sẽ biến thành quả và đây là những kết quả khổ, vui mà con người thọ báo
trong đời này và cho những đời kế tiếp. Thí dụ mãnh vườn phía sau nhà, chúng ta
gieo nhiều loại hạt giống (chủng tử) khác nhau (nhân). Vì chúng nằm dười lòng
đất nên mắt thường không thấy được cho nên có lúc chúng ta nghĩ rằng những hạt
giống đó không còn hay chết. Sau nhiều trận mưa rào và trời ấm áp (duyên) thì
chúng bắt đầu nẩy mầm (quả). Điều quan trọng nhất là giống nào nẩy mầm theo
giống nấy, không bao giờ lộn lạo. Thí dụ giống cây cải thì sinh ra cây cải,
giống ớt thì sinh ra cây ớt…Tuyệt đối không bao giờ có chuyện trồng ngò mà
thành cây ớt được nghĩa là nhân thiện thì thọ lãnh quả lành, ngược lại nhân ác
thì chắc chắn sẽ thọ lãnh quã dữ. Vì thế, nếu con người biết huân tập nhiều hạt
giống thiện thì những chủng tử lành đó có công năng dẫn dắt họ tái sinh vào
những cảnh giới an lành để tiếp tục hưởng những quả báo tốt đẹp. Ngược lại thì
phải thọ báo vào cảnh giới khổ não, đau thương. Nghiệp là hành động lập đi lập
lại nhiều lần rồi thành thói quen tức là tập khí. Chính cái thói quen, hay tập
khí này có sức mạnh phi thường mà Phật giáo gọi là nghiệp lực để tùy duyên,
chiêu cảm đến môi trường thích hợp mà thọ sinh, nên gọi là nghiệp cảm. Tuy nhiên, đạo Phật là đạo chuyển nghiệp nghĩa là trong quá khứ cho dù con
người vì sống trong vô minh bất giác tạo nên bao nhiêu tội nghiệp (nhân). Nhưng
nếu bây giờ biết thức tĩnh, dừng lại, tu tâm dưỡng tánh, tránh xa ác nghiệp,
tạo nhiều thiện nghiệp thì những ác nhân đó không có cơ hội tác tạo với ác
nghiệp để gây ra cảnh khổ cho mình. Nhân (cause) mà không có duyên (conditions) thì tuyệt đối không bao giờ thành quả (effect). Cũng như gạo (nhân) mà không có nước, không nấu
(duyên) thì không bao giờ thành cơm được (quả).
Ngày nay con người thay vì cố tìm cách thay đổi cuộc sống cho
phù hợp với đạo đức nhân bản thì họ nhắm mắt đi tìm phước báo. Giáo lý của Đức
Phật rất ngắn gọn, đó là nên tránh xa các việc ác và cố gắng làm các việc lành.
Khi đã thành tựu rồi thì cố gắng giữ gìn tâm ý cho được thanh tịnh là có giải
thoát. Nhưng đa số người tu Phật cừ lờ đi, tuy họ cũng làm việc thiện mà không
muốn buông bỏ những thói quen xấu của mình. Do đó đi tìm phước báo mà không
buông bỏ tánh ác thì không bao giờ có. Tất cả hành vi thiện, ác đều do từ thân,
khẩu, ý mà ra cho nên đó là nơi mà bạn phải nhìn lại mình mà nhà Phật gọi là “Phản
quang tự kỷ” nghĩa là soi xét lại mình, quán chiếu lại mình, từ thân thể
cho tới nội tâm, thấy rõ thân thể, nội tâm như thế nào. Trong khi đó “Hồi quang
phản chiếu” có tánh cách đặc biệt dành cho bậc thượng cơ, nhất là những vị tu
thiền trong Phật giáo. Nhìn xem hành vi của bạn có sai trái hay không? Chúng ta
hằng ngày cố gắng cực nhọc lo lau sạch nhà cửa, xe cộ, chén bát nhưng lại quên
không nhìn lại sự dơ bẩn trong tâm của mình. Bởi vì không thấy chính mình, con
người mới có thể làm đủ điều xấu. Khi trong tâm vừa thoáng lên một ý nghĩ xấu,
họ nhìn chung quanh xem có ai nhìn thấy ý đồ đó không rồi họ mới làm. Nhưng họ
quên rằng có người biết và người đó không ai khác là chính mình (lương tâm).
Nếu biết nhìn vào chính mình thì bạn sẽ biết phân biệt thiện, ác rất rõ ràng. Nếu
bạn sắp làm một việc ác, bạn nhìn vào chính mình đúng lúc thì bạn có thể dừng
lại. Thông thường vì nhìn ở bên ngoài nên tâm con người chứa đầy tham vọng và
ảo tưởng, nhưng bây giờ nếu nhìn vào bên trong, nhìn lại chính mình thì bạn sẽ
thấy rất rõ điều thiện và điều ác. Thấy điều thiện nhắc nhở chúng ta cố gắng
làm y như vậy. Buông bỏ điều ác, thực hành điều thiện là có phước báo ngay. Đức
Phật dạy rằng: “ Chúng sinh nếu muốn vun bồi phước báo của mình cho được
viên mãn thì hãy lánh xa điều ác” nghĩa là nếu mình không làm điều ác thì
tất cả việc làm bây giờ đều trở thành thiện hết mà không cần phân biệt thiện,
ác gì cả. Ngược lại tuy có làm vài điều thiện, nhưng vẫn còn làm điều ác thì
vẫn còn lo lắng, ưu bi, khổ não triền miên. Do đó, nếu tâm của chúng ta thiện
lành và đức hạnh thì đây là hạnh phúc trong đời này vậy. Đối với con người hạnh
phúc là diễn tiến theo ý muốn của họ, là khi mà mọi người trên thế giới chỉ nói
những lời tốt đẹp đối với họ, nhưng nếu thực sự đây là hạnh phúc mà bạn mong
muốn thì chính bạn đã xây lâu đài trên cát. Không những người ngoài làm chúng
ta bực bội mà ngay cả những người thân yêu quanh chúng ta đôi khi cũng làm cho
chúng ta buồn phiền, ưu bi, khổ não. Thậm chí, chính chúng ta cũng làm cho
chúng ta buồn bực, không vui. Vì vậy, nếu bạn biết nhìn lại chính mình để buông
bỏ điều ác thì chính mình sẽ có hạnh phúc bởi vì tâm lành thì không có lo âu,
phiền não. Khi tâm thanh thản, bạn nở một nụ cười. Ngược lại tâm rối ren, lo
lắng thì lòng bực dọc, mặt khô cằn, hung hăng, tức giận.
Tôn chỉ của đạo Phật là giúp chúng sinh giải thoát ra khỏi mọi hệ
lụy của phiền não khổ đau để
có cuộc sống an vui tự tại mà muốn đạt đến cứu cánh này thì chúng sinh phải
biết buông xả. Vì thế trong Kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikaya), Đức Phật đã tóm
gọn cốt lõi của đạo Phật trong một câu thật ngắn gọn cho những ai muốn đi
trên con đường giải thoát giác ngộ, đó là”Không được bám víu vào bất cứ gì cả” mà Kinh Kim Cang gọi
là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là một khi
mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà
tâm không bám víu, chấp thủ.
Cùng ý niệm đó,
trong kinh Bahiya
Sutta, Đức Phật giảng giải cho một đệ tử tên là Bahiya về sự bám víu,
chấp thủ một khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần như sau:
“Này Bahiya,
Khi nhìn thấy một hình tướng, thì đấy
chỉ là cách trông thấy.
Khi nghe thấy một âm thanh, thì đấy chỉ
là cách nghe thấy.
Khi ngửi thấy một mùi, thì đấy chỉ là
cách ngửi thấy.
Khi nếm thấy một vị, thì đấy chỉ là cách
nếm thấy.
Khi xảy ra một sự cảm nhận trên thân
xác, thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận.
Và mỗi khi có một tư duy hiện ra, thì
đấy cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên hiện ra trong tâm thức.
Đấy là cách không có cái ngã.
Đấy là sự chấm dứt của dukkha (khổ
đau). Đấy là nibbâna (niết-bàn).
Bài kinh trên
tuy ngắn gọn, nhưng rất quan trọng. Vậy hãy nghiệm xem Đức Phật muốn dạy chúng
ta những gì?
1)Khi mắt nhìn
thấy hình tướng nào đó thì chỉ cần biết là mắt thấy hình tướng là đủ, đừng cho
rằng mắt Ta thấy hình tướng đó thì sẽ vắng bóng Cái Ta và Cái Của Ta trong tâm
thức. Tại sao? Thí dụ nếu mắt thấy chiếc xe thì chỉ là chiếc xe thôi cũng như
mắt thấy trăm ngàn vật thể khác cho nên cái thấy đó không có dính mắc, cái thấy
dững dưng không có gì quan trọng. Đó là thấy mà cũng như không thấy nên tâm
không dao động. Ngược lại nếu cho là mắt Ta thấy chiếc xe thì cái thấy bây giờ
là mình thấy, mình đem hình bóng chiếc xe đó vào tâm mình rồi ái dục phát sinh,
lòng tham đắm nỗi dậy và nỗi khổ niềm đau cũng từ đó phát sinh. Nếu cố gắng làm
đêm làm ngày để có tiền mua chiếc xe giống vậy thì quá khổ, còn muốn mà không
được thì quá khổ tâm.
2)Khi tai nghe
tiếng nhạc thì biết là tai đang nghe nhạc. Đừng cộng thêm ngã chấp vào mà nghĩ
rằng tai Ta đang nghe nhạc.
3)Khi mũi ngửi
mùi hương thì biết mũi đang ngửi mùi hương thế thôi.
4)Khi lưỡi nếm
vị ngọt thì biết lưỡi đang nếm vị ngọt là đủ.
5)Khi thân đụng
phải vật cứng hay mềm thì biết thân đang đụng vật cứng hay mềm chớ đừng cho
rằng thân Ta đang đụng vật cứng hay mềm.
6)Cuối cùng khi
có một tư tưởng hiện ra trong tâm thức thì biết có tư tưởng đang hiện ra trong
tâm thức là đủ.
Thí dụ khi muốn
làm một việc (thiện) gì cho người khác thì chỉ lo làm cho hoàn tất, tạo niềm
vui cho kẻ khác là đủ thì tâm tự tại. Ngược lại, nếu cho rằng chính Ta làm việc
đó thì trong tâm sẽ đặt ra vô số điều kiện tức là tâm còn dính mắc. Nào là muốn
người trả ơn, nào là muốn người khác khen tặng, chụp hình, đăng báo thì phiền
não tức thì phát sinh, không còn tự tại. Đây là sự khác biệt giữa việc làm vô
ngã vị tha (vì người mà làm) và bản ngã tư lợi (mua bán, kinh doanh).
Nếu con người
biết tư duy quán chiếu và thực hành đúng những lời dạy của Đức Phật ở trên thì
trong họ cái tự Ngã dần dần bị tiêu diệt và những cảm tính về “Cái Ta” và “Cái
Của Ta” cũng không còn. Đây là con đường thoát khổ, giải thoát tự tại Niết bàn
tức là:
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” rồi vậy.
Vì vậy nếu con người sống trong chánh niệm
tĩnh thức, không chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì những cảm tính
về “Cái Ta” và “Cái Của Ta” sẽ biến mất và đúng vào thời điểm đó không còn hình
bóng của khổ đau và dĩ nhiên Niết bàn thanh tịnh sẽ hiện bày.
Thế thì đắc đạo rồi có còn đau khổ không?
Trở lại với kinh Na Tiên Tỳ Kheo:
Vua Di Lan Đà hỏi:
— Bạch Đại đức, bậc tu hành đắc đạo không còn tái sanh trong đời sau,
nhưng trong đời nầy có còn thấy mình đau khổ nữa không?
— Tâu Đại vương, tùy từng việc một. Có việc còn thấy đau khổ, có việc
không.
— Có việc có, có việc không, là như thế nào?
— Đau khổ của thân thì còn, đau khổ của tâm thì hết.
— Vì sao vậy?
— Sở dĩ thân còn đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ nầy là
thân, hễ nhân duyên ấy còn tồn tại thì đau khổ của thân còn. Sở dĩ tâm hết đau
khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ thứ hai là lòng tham dục, một khi tâm
ý đã dứt trừ hết các điều dữ, tham dục không còn nữa, thì đau khổ của tâm hết.
— Bậc tu hành đã đắc đạo rồi mà không khiến thân lìa được khổ đau, như
thế là chưa chứng đắc Niết Bàn chăng? Đắc đạo rồi mà thân còn đau khổ thì làm
sao gọi là đắc đạo? Còn nán ở lại trần thế làm gì để còn chịu khổ đau?
— Tâu Đại vương, bậc đắc đạo không chuộng mà cũng không ghét, không tìm
cầu mà cũng không xua đuổi. Bình thản mà sống giữa cõi đời nầy, không hấp tấp,
không vội vả. Ví như chuối non không cần phải vú ép. Lại cũng không cần chờ
chuối chín để chực hái. Vì vậy nên đức Xá Lợi Phất xưa có dạy rằng:
Không cần tịch diệt,
Cũng không cần trường sanh.
Chưa phải lúc thì ở,
Thời đến thì ra đi.
Vua nói:
— Hay thay! Hay thay!
BÀI ĐỌC THÊM:
●
KINH NA TIÊN TỲ KHEO, Cao Hữu Đính
●
KINH NA TIÊN TỲ KHEO, Thiện Nhựt
●
MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA), Giới Nghiêm
Discussion about this post