KINH ĐẠI THỪA
CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT
Triều Vua ĐẠI ĐƯỜNG: Nước VU ĐIỀN
Tam Tạng Sa Môn: ĐỀ VÂN BÁT NHÃ vâng chiếu dịch.
Việt Nam. Tỳ kheo THÍCH THIỆN THÔNG dịch ra Việt văn.
Lời giới thiệu
Nhiều
người biết: hễ ai thành tâm tạo tượng Phật, thì có được nhiều công đức, nhưng
ít người biết số lượng công đức đó như thế nào, chính trong Kinh TẠO TƯỢNG PHẬT
này, Đức Phật dạy rõ điều đó.
Tuy
nhiên, phải thành tâm tạo tượng Phật, có đủ tướng tốt trang nghiêm, nếu không
được toàn hảo thì ít ra cũng phải có đủ những nét biểu hiện Đại trí, Đại từ,
Đại giải thoát, hoặc như trong kinh này dạy: “Phải đủ hai tướng: “Bạch hào
và nhục kế, để khi nhìn vào, biết là tượng Phật” dễ phát khởi lòng kính tin,
thì mới có công đức. Trái lại, tạo tượng Phật mà không biểu lộ được tướng gì
của Phật và khi nhìn vào cũng không biết đó là tượng Phật, không phát khởi được
tín tâm, còn xem thường nữa, thì việc tạo tượng như vậy tất nhiên là không có
công đức, lắm lúc còn mang tội nữa là khác.
Vì
vậy, để giúp sự hiểu biết đúng đắn sâu sắc về công đức tạo tượng Phật, tôi xin
tán thán và hoan hỷ giới thiệu bản dịch kinh “CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT” này của
Tỳ kheo Thích Thiện Thông đến quý vị Phật tử.
Chùa
Từ Đàm, ngày 5 tháng 5 năm 1993
HT.
Thích Thiện Siêu
THAY LỜI TỰA
Tạo
hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và
gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao! Cho nên hơn 2500 năm, sau khi Đức
Phật nhập Niết Bàn, hàng xuất gia, tại gia đệ tử của Phật, từ Ấn Độ, Trung Hoa,
Nhật Bản, các nước Phật giáo trên thế giới cho đến Việt Nam, đã có không biết
bao nhiêu người tạo lập hình tượng chư Phật, Bồ Tát để chiêm ngưỡng, lễ lạy,
cúng dường.
Trước
khi lược nêu công đức, phước đức của sự tạo tượng Phật, chúng ta hãy ngược
giòng thời gian, tìm hiểu xuất xứ của việc tạo hình tượng Phật bắt nguồn từ đâu
và ai là người đầu tiên phát tâm tạo hình tượng Phật.
Một
sự tình cờ đưa đến cho chúng tôi là: Năm 1992 trong mùa an cư, sau khi dịch
xong kinh CHƯ ĐỨC PHƯỚC ĐIỀN và kinh TỐI VÔ TỶ (kinh nói về công đức Quy y Tam
Bảo), chúng tôi đọc đến kinh ĐẠI THỪA CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT, là bộ kinh gồm
hai quyển, mang số 694 trong Hán Tạng Đại Chánh Tân Tu. Xem xong bộ kinh, chúng
tôi vô cùng mừng rỡ, vì nhận ra những điều mới lạ mà từ trước đến nay, trong
các bản kinh Phật giáo Việt dịch, tôi chưa từng gặp bản nào dịch về kinh này.
Nhưng có thể nói trong quyển “Tam Bảo Cảm Ứng”, ngài Thích Thiền Tâm có dịch
một vài tiểu tiết, liên quan đến việc tạo tượng Phật của vua ƯU ĐIỀN (kinh này
dịch là vua Ưu Đà Diên).
Căn
cứ vào kinh ĐẠI THỪA CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT đây thì, khi Phật còn tại thế, vua
Ưu Đà Diên, trị vì nước Câu Diệm Di, là người đầu tiên đã dùng gỗ thơm Chiên
đàn đỏ, tạo ra hình tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Vậy
nguyên do nào vua Ưu Đà Diên tạo hình tượng Phật? Động cơ thúc đẩy vua Ưu Đà
Diên tạo hình tượng Phật là bởi nguyên do như vầy:
Sau
thời gian gần 49 năm thuyết pháp độ sanh, trong một mùa an cư 90 ngày (có lẽ là
mùa an cư cuối cùng), Đức Phật vắng bóng ở trần gian, Ngài lên cung trời Đao
Lợi nói kinh, giáo hóa chư Thiên và độ thân mẫu là Ma Gia phu nhơn được chứng
thánh quả, thì vua Ưu Đà Diên không tìm thấy Đức Phật nơi đâu, lòng khát ngưỡng
nhớ mong cực độ, đến nỗi vua này bi cảm âu sầu nhiều ngày, xao lãng cả việc
triều chính và không màng đến thú vui vương giả. Vua không biết cách nào gặp
Đức Phật cho đỡ nhớ mong, bèn nghĩ đến cách tạo tượng Phật.
Vua
triệu tập các tay thợ điêu khắc nổi tiếng trong nước để tạo tượng Phật, nhưng
ai cũng từ chối không dám nhận lời, vì họ nghĩ rằng: Sắc thân của Phật tướng
tốt tuyệt vời, e rằng tượng Phật tạo ra nếu có sai lầm, sẽ làm cho họ đắc tội
và lui mất thanh danh. Khi đó có vị thần Tỳ Thủ Yết Ma, tương truyền là vị thần
điêu khắc, đã biến thân ra làm người thợ mộc, ông mang dụng cụ đến nhận trách
nhiệm tạo hình tượng Phật để giúp nhà vua. Thần Tỳ Thủ Yết Ma trổ hết tài năng,
chỉ trong một gnày là xong tượng Phật, cao bảy thước mộc, tượng màu vàng tía,
đủ các tướng tốt, khiến người nhìn đến biết là tượng Phật.
Vua
Ưu Đà Diên tạo tượng Phật xong, tiếng vang lan truyền các nước lân cận, vua các
nước lớn như vua Ba Tư Nặc, vua A Xà Thế và vua Nghiêm Xí, đều đem lễ vật đến
cúng dường chiêm ngưỡng và đều khen việc làm của vua Ưu Đà Diên.
Thời
gian ba tháng chấm dứt, Đức Phật trở xuống cõi Diêm Phù Đề, vô lượng chư Thiên
trong sáu cõi trời Dục giới, 18 cõi trời Sắc giới, đồng dâng lễ cúng dường Đức
Phật và tiễn đưa Ngài trở lại trần gian. Hàng đệ tử xuất gia, tại gia ít nhất
là bốn nước, gồm đủ mọi thành phần, đã tụ hội về thành Tăng Già Thi cung đón
Đức Phật. Một quang cảnh vô cùng vĩ đại vô tiền khoáng hậu đã diễn ra lúc đó,
ấy là cuộc hội kiến Thần tiên giữa Trời và người, chưa từng có trong nhân loại.
Tất cả những ai thành tâm mang những lễ phẩm cúng dường Đức Phật, đều thành tựu
phước đức và thành tựu cái nhân đắc độ hiện tiền và đời sau, nhiều phái ngoại
đạo nhơn đó mà bỏ tà về chánh, quy y Tam Bảo. Như thế, Đức Phật đã hoàn thành
bản nguyện độ sanh của Ngài, khi xuất hiện trên cõi đời này. Cho nên trong kinh
DI GIÁO có chỗ ghi rằng: “Những người đáng độ ta đã độ xong, những người chưa
được độ, ta cũng đã gây nhân duyên cho họ được độ sau này…” Đây rõ ràng là
lòng từ bi vô tận, cứu độ chúng sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Thế Tôn
của chúng ta.
Để
các chúng sanh đời sau hiểu rõ phước đức, công đức tạo tượng Phật, Ngài Di Lặc
Bồ Tát đã thay mặt tất cả phàm Thánh, thưa hỏi Phật về công đức tạo tượng của
vua Ưu Đà Diên, Đức Phật tuần tự nói về phước báo và công đức thù thắng của
người có tâm thành tín thanh tịnh tạo ra tượng Phật. Kinh này ghi rõ những
phước báo về công đức chẳng thể nghĩ bàn ấy. Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn
một vài đoạn để chư vị có một khái niệm sơ qua:
“Di
Lặc! Nếu có người nào dùng những tơ sợi thêu thùa tượng Phật, hoặc là nấu đúc bằng
thứ vàng, bạc, đồng, sắt, chì, kẽm, hoặc điêu khắc bằng gỗ thơm Chiên đàn, hoặc
khắc bằng thứ trân châu, sò ốc, gấm vóc dệt thành, đất đỏ, xi măng, thạch cao,
đất sét, hoặc các thứ gỗ… Dùng những vật đó tùy phần sức mình tạo ra tượng
Phật, cho đến rất nhỏ như ngón tay cái, có thể khiến cho người khác nhìn biết
đó là tượng Phật, phước báo người đó nay ta sẽ nói:
“Di
Lặc! Những người như vậy ở trong sanh tử, tuy còn trôi lặn, trọn chẳng sanh tại
gia đình nghèo cùng, cũng chẳng sanh nhà giòng dõi thấp hèn, cô đơn hẻo lánh ở
ven cõi nước, lại cũng chẳng sanh vào nhà tà kiến, con buôn con bán, nhà làm
hàng thịt, cho đến chẳng sanh vào giòng hèn hạ, kỹ nữ bất tịnh, hoặc nhà ngoại
đạo khổ hạnh tà kiến, trừ khi vì sức thệ nguyện Từ Bi, ngoài ra chẳng sanh vào
những nhà ấy.
“Người
này thường sanh vào nhà thuộc giòng tộc vua Thánh Chuyển Luân có thế lực lớn,
hoặc sanh giòng Bà La Môn tịnh hạnh, hoặc nhà giàu sang không tạo tội nặng.
Sanh ở nơi nào cũng thường gặp Phật vâng thờ cúng dường, hoặc được làm vua thọ
trì chánh pháp, đem pháp giáo hóa không trái đạo, hoặc làm vua Thánh Chuyển
Luân oai hùng. Sanh ra nơi nào cũng là đàn ông, không chịu thân nữ. Lại chẳng
chịu thân Huỳnh môn hai hình là thứ hèn hạ, thân được thọ sanh không bị xấu xí.
Mắt chẳng mù chột, tai chẳng điếc lác, mũi chẳng cong gãy, miệng chẳng méo
lệch, môi chẳng trề xuống cũng chẳng túm rút, răng chẳng thưa thiếu, chẳng đen,
chẳng vàng, lưỡi chẳng ngắn thụt, cổ chẳng bướu nhọt, thân chẳng lưng gù, da
chẳng loang lổ, tay chẳng cụt ngủn, chân chẳng lệch què, chẳng quá ốm o,
chẳng quá béo mập, cũng chẳng quá dài, cũng chẳng quá ngắn, đều không có các
tướng chẳng đáng ưa…”.
Trên
đây là một ít điều trích dẫn về phước báo dòng dõi thân tướng của người tạo
tượng Phật. Ngoài những phước báo trên, còn có những quả báo khác là: trừ diệt
các thứ nghiệp chướng như: Năm tội đại nghịch, mười nghiệp chẳng lành, bốn tội
phạm nặng v.v… nói chung là những nghiệp ác nặng nề nhất mà một con người có
thể lãnh nhận, nhưng nếu phát tâm thành tín tạo tượng và sám hối, thề không tái
phạm, thì những nghiệp ác, những quả báo ấy đều bị tiêu diệt.
Tại
sao công đức tạo tượng to lớn như vậy?
Bởi
vì các Đức Như Lai, từ khi phát tâm tu hành cho đến thành Phật, đã trải qua vô
biên A tăng kỳ kiếp, chứa nhóm vô lượng phước đức, thành tựu vô biên công
đức,trí tuệ, các Ngài thường dùng các thứ công đức ấy hộ trì cho các chúng sanh
có đức tin thanh tịnh, do vậy mà sự tạo tượng Phật có thể trừ diệt các thứ
nghiệp ác sâu nặng.
Vả
lại, tâm lực của mỗi chúng sanh, hay của mỗi người chúng ta vốn chẳng thể nghĩ
bàn, vốn sẵn đủ hằng sa công đức, diệu dụng. Nếu chúng ta thường tư duy về
những công đức của Phật, thường quán xét các Đức Như Lai có 32 tướng tốt, 80 vẻ
đẹp, có 10 lực, bốn món Vô úy, sáu Ba la mật, đại từ, đại Bi và đại Trí tuệ. Chính
khi tư duy về những công đức của chư Phật, tức là phát động cái nhân công đức
chẳng thể nghĩ bàn của chính chúng ta. Do năng lực huân tập này mà những nghiệp
ác cực nặng và những quả báo xấu có thể chuyển đổi. Ta quán sát tướng hảo nơi
sắc thân ta. Hạt giống đã có thì quả sẽ phát sanh và khi quả phát sanh là ta sẽ
có các tướng hảo. Đạo lý này vốn chơn thật và không sai lạc bao giờ.
Nói
tóm lại, nhờ tư duy công đức chư Phật bên ngoài, cho nên thành tựu công đức của
Phật tâm bên trong tâm chúng ta. Nhờ tư duy công đức của Phật bên trong tâm
chúng ta, cho nên thành tựu các phước báo thuộc sắc thân và hoàn cảnh bên
ngoài. Đây là một đạo lý vi diệu, được gọi là Đại thừa, sự tạo tượng Phật này
nằm trong đạo lý vi diệu đó, cho đến bộ kinh nói về việc tạo tượng đây, được
gọi là KINH ĐẠI THỪA CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT.
Kinh
này gồm hai quyển, được trình bày bằng một lối văn sắc sảo trác việt. Nội dung
của kinh, ngoài việc nói về công đức phước đức do tạo tượng mà thành, kinh cũng
dạy rõ những phương tiện siêu thắng khéo lạ của Đức Phật, vì giáo hóa chúng
sanh, Ngài thị hiện có các chướng nạn v.v… Điều này trong giới Phật tử chúng
ta, trừ những bực cao minh, ngoài ra ít ai biết đến.
Kinh
cũng dạy rõ những nguyên nhân nào làm cho chúng sanh phải chịu thân nữ, huỳnh
môn, hai hình, sanh thời không có Phật pháp, hoặc sanh vào những nơi hoang dã,
biên cương v.v… Thật là những điều chúng ta khó gặp, khó hiểu.
Nhân
thấy bộ kinh có một giá trị và lớn lao như vậy chúng tôi gắng công dịch ra Việt
ngữ để cống hiến cho thời đại hiện nay và đóng góp phần nhỏ mọn trong chủ
trương Việt dịch Tam Tạng Thánh điển của Phật giáo Việt Nam.
Lại
vì, một bộ kinh có giá trị về mặt văn chương tư tưởng, còn bao gồm nhiều từ ngữ
thuật ngữ phong phú về Hán tự, có thể giúp ích cho những vị đang học Hán văn
hiện nay, chúng tôi trình bày cả phần Hán tự và phần âm Việt ngữ, để tiện lợi
cho sự đọc tụng của những vị ưa thích.
Mặc
dầu cố gắng nhiều, nhưng việc làm và sự suy luận của chúng tôi vẫn là nông cạn
và nhiều sai sót, nhưng hiểu được thế nào, chúng tôi ghi lại thế ấy, rất mong
những bậc cao minh chỉ giáo cho.
Người
dịch kính ghi,
Mùa
Vu Lan năm Quý Dậu 1993
Tỳ
kheo Thích Thiện Thông.
KINH
ĐẠI THỪA CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT
QUYỂN
THƯỢNG
Triều
Vua ĐẠI ĐƯỜNG: Nước VU ĐIỀN
Tam
Tạng Sa Môn: ĐỀ VÂN BÁT NHÃ vâng chiếu dịch.
Việt
Nam. Tỳ kheo THÍCH THIỆN THÔNG dịch ra Việt văn.
Tôi
nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại cõi trời Đao Lợi, dưới cây Ba Lợi Chất Đa
La[1],
cùng với vô lượng đại Tỳ kheo chúng, vô lượng vị đại Bồ Tát câu hội, Ngài Đại
Bồ Tát Di Lặc là bực đứng đầu.
Bấy
giờ, Đức Thế Tôn ở trên trời ấy an cư ba tháng thuyết pháp cho mẹ, nhiều sự lợi
ích đối với chư Thiên, vô lượng chư Thiên lìa khổ, giải thoát. Vô lượng chư
Thiên thấm nhuần giáo pháp, được quả phước lớn. Khi đó, trong số chư Thiên, có
một Thiên tử thọ số sắp hết, năm tướng suy hiện[2].
Nhờ sức nghe pháp, sau khi mệnh chung, sanh lại cõi trời này, lìa hẳn nẻo ác.
Lúc
ấy, trong Diêm Phù Đề không có Đức Phật. Ví như đêm tối, đầy những vì sao nhưng
không mặt trăng, như nước không vua, như nhà không chủ, thì những cuộc vui,
những trò giải trí đình chỉ tất cả. Khi đó chúng sanh dường như côi cút không
chỗ nương tựa. Đối với Đức Phật, tấm lòng mọi người mang nỗi luyến mộ sanh rất
buồn rầu như mất cha mẹ, như tên bắn vào tim, cùng nhau đến chỗ Đức Phật từng ở
chỉ thấy vườn rừng, sân hiên vắng ngắt, đâu cũng trống trải không có Đức Phật,
mọi người càng thêm buồn nhớ không nguôi.
Bấy
giờ, vua Ưu Đà Diên đang ở trong cung thường mang nỗi buồn, luôn luôn xúc cảm,
khát ngưỡng Đức Phật, vua chẳng màng đến chánh cung, thế nữ và các cuộc vui,
vua nghĩ như vầy: “Nay ta lo buồn không lâu sẽ chết! Làm sao cho ta lúc chưa bỏ
mạng, được thấy Đức Phật?” Rồi vua lại nghĩ: “Ví như người nào lòng thương yêu
ai nhưng không được gặp, nếu thấy chỗ nơi người ấy đã ở, hoặc thấy kẻ nào giống
hệt người ấy, may ra trừ bớt những nỗi u buồn.” Vua nghĩ ngợi thêm: “Nay ta nếu
đến nơi Phật đã ở trước đây[3]
mà không thấy Phật, chắc ta thương khóc, cảm xúc đến độ có thể chết mất! Ta xem
trong đời không có người nào mà về sắc tướng, phước đức trí tuệ có thể ngang
bằng với Đức Như Lai, làm sao cho ta gặp người như thế để ta bớt sầu?”
Khởi
niệm ấy rồi, vau lại ngẫm nghĩ: “Nay ta hãy nêu tạo hình tượng Phật, lễ lạy
cúng dường.” Nhưng vua lại xét: “Nếu ta tạo tượng mà không giống Phật, e khiến
cho ta mắc vô lượng tội.” Rồi vua nghĩ thêm: “Giả sử những người thông minh
trong đời[4]
đều cùng đề cao công đức của Phật vẫn chẳng thể hết. Nếu một người nào tùy phần
khen ngợi, người ấy vẫn được phước đức vô lượng. Nay ta cũng vậy, nên tùy phần
mình mà tạo ra tượng.”
Nhà
vua lập tức truyền lệnh cho những người thợ khéo trong nước đều phải nhóm lại.
Mọi người nhóm rồi, vua bảo họ rằng:
–
Người nào có thể vì ta mà tạo hình tượng Đức Phật, ta sẽ đem những châu báu trả
công và thưởng người ấy.
Những
tay thợ giỏi cùng tâu vua rằng:
–
Nay vua ra lệnh, thật là việc khó. Tướng tốt nhiệm mầu của Đức Như Lai, trên
thế gian này không ai sánh nổi. Nay đây chúng tôi làm sao có thể tạo hình
tượng Phật? Giả sử Thiên thần Tỳ Thủ Yết Ma[5]
mà có tạo tượng, cũng chẳng thể nào giống Đức Như Lai. Nếu như chúng tôi nhận
lời đức vua tạo hình tượng Phật, may ra có thể mô phỏng ít phần về tướng xoắn
tóc và bạch hào, ngoài ra những tướng tốt đẹp sáng rỡ, đầy vẻ oai đức, người
nào có thể tạo nổi? Đức Phật rồi đây, sẽ từ cõi trời trở xuống nhân gian, hình
tượng tạo ra nếu có sai lầm, tiếng tăm chúng tôi sẽ bị lui mất, chúng tôi trộm
nghĩ không thể dám làm.
Vua
Ưu Đà Diên khi đó nói lại:
–
Tâm ta đã quyết, chớ có chối từ! Như kẻ sợ khát muốn uống nước sống, há vì uống
chẳng thể hết, rồi không uống nước hay sao?
Những
người thợ khéo nghe vua nói vậy, đều quỳ trước mặt, bạch lên vua rằng:
–
Xin y theo lệnh, nhưng thỉnh đức vua cho phép chúng tôi nghĩ ngợi đêm nay, sáng
mai đến làm.
Họ
lại bạch thêm:
–
Nay vua tạo tượng, nên dùng thuần gỗ Chiên đàn[6],
sớ thịt nó mịn, thể chất rất bền, còn hình tượng Phật là ngồi hay đứng, cao
thấp thế nào?
Vua
đem lời ấy hỏi lại các quan. Có một vị quan thông thạo hiểu biết, ra bạch vua
rằng:
–
Vua nên tạo tượng Đức Như Lai ngồi. Tại sao vậy? Bởi vì, tất cả chư Phật chứng
đại Bồ Đề, chuyển bánh xe Pháp, hiện thần thông lớn, hàng phục ngoại đạo, làm
Phật sự lớn… Tất cả đều ngồi. Do đó nên làm hình tượng Đức Phật ngồi kiết già
phu[7]
trên tòa sư tử.
Ngay
trong khi đó, vị trời Tỳ Thủ Yết Ma, từ xa nhìn thấy việc này, xét biết ý vua
muốn tạo tượng Phật liền trong đêm ấy suy nghĩ như vầy: “Chỗ hiểu của thân ta
rất là khéo lạ, trong cả thế gian không ai như ta, nếu ta vì vua tạo tượng,
chắc hơi giống Phật[8].”
Liền biến thân mình thành người thợ mộc cầm dụng cụ bén. Trời vừa hừng sáng,
người đến đứng cạnh cửa cung nhà vua, bảo người giữ cửa bạch rõ vua rằng: “Nay
tôi muốn vì vua mà tạo tượng, nghề khéo của tôi không ai sánh bằng, cúi xin nhà
vua chớ sai người khác.”
Vua
nghe lời ấy lòng rất vui mừng, ra lệnh mời vào, vua xem dạng cử chỉ, biết là
thợ giỏi, bèn nghĩ thầm rằng: “Thế gian làm sao mà có người nầy? Phải chăng
Thiên thần Tỳ Thủ Yết Ma hay đệ tử Ngài đến nơi đây chăng?” Liền đó nhà vua bèn
cởi chuỗi ngọc đang đeo trên mình, tự tay cầm chuỗi, choàng lên cổ thần Tỳ Thủ
Yết Ma, vua còn hứa đem các món châu báu tưởng thưởng công lao.
Lập
tức nhà vua cùng quan giữ kho, đi vào trong kho soạn lựa gỗ thơm, vai tự khiêng
vác[9],
đem giao thợ trời và bảo thợ rằng:
–
Lành thay, thưa Ngài! Hãy dùng gỗ này, vì tôi tạo tượng, sao cho giống với hình
tượng Đức Phật.
Khi
ấy, thợ trời liền thưa với vua:
–
Nghề khéo của tôi tuy rằng đệ nhất. Nhưng về việc tạo hình tượng Đức Phật, trọn
chẳng thể hết.
Ví
như có người, lấy than mà vẽ mặt trời, nói rằng vẽ giống thì thật phi lý. Dẫu
lấy vàng ròng để tạo tượng Phật, lại cũng như thế.
Có
những ngoại đạo thường tuyên bố rằng: “Phạm Vương có thể sáng tạo thế gian[10],”
nhưng cũng chẳng thể tạo hết tướng tốt nơi hình Đức Phật. Chỉ nghề của tôi trên
hết trong đời, bởi vậy nay tôi vì vua mà làm. Sáng nay là ngày mùng tám trong
tháng, đang lúc có sao Phất Sa và sao Tỳ Ha Đề xuất hiện. Khi Phật mới sanh,
cũng có hiện ra điềm cảm ứng này. Hôm nay tốt lành, hãy nên khởi công.”
Thần
Tỳ Thủ Yết Ma phát lời đó rồi, cầm búa đẽo gỗ, tiếng đẽo suốt lên đến trời Đao
Lợi tới chỗ Đức Phật. Do thần lực Phật, tiếng vang đến đâu, những chúng sanh
nào được nghe tiếng đục, tội cấu, phiền não đều được tiêu trừ.
Bấy
giờ, Đức Như Lai bèn mỉm miệng cười nhiều cách khen ngợi công đức của vua, cho
đến ở xa thọ ký cho vua Thánh Đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc
ấy, Thiên chủ cõi trời Đao Lợi bạch Đức Phật rằng:
–
Kính bạch Đức Thế Tôn! Nay tại thế gian, và có người nào, từng ở kiếp xưa tạo
tượng Phật chăng?
Đức
Phật bảo Ngài Thiên chủ Đế Thích:
–
Những ai đã từng tạo tượng Đức Phật, đều thuộc quá khứ, trước đây đã được giải
thoát cả rồi. Tại thiên chúng đây còn không có ai (bị ở sót lại), huống gì nơi
khác. Chỉ người con của ông Tỳ Sa Môn ở về phương Bắc, tên là Na Lý Sa Bà, thuở
xưa có lần tạo tượng Bồ Tát do phước này nên sau được làm vua, tên là Tần Bà Sa
La. Lại do gặp ta, nay được sanh Thiên có thế lực lớn, lìa hẳn ác đạo.
Tỳ
kheo Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp[11]
cả ba vị này kiếp xưa từng sửa nhà cũ của Phật, do nhân duyên đó vĩnh viễn giải
thoát. Ông Kiều Phạm Ba Đề xưa là thân trâu, nhơn tìm cỏ nước đi quanh Tịnh xá,
ăn cỏ trong những bụi tre, do thấy tôn dung của Phật phát tâm vui mừng, nhờ phước
đó mà nay được giải thoát. Ông Thi Tỳ La từng cầm lọng báu cúng dường tượng
Phật. Ông Nậu Lâu Đà thắp một ngọn đèn cũng để cúng dường. Ông Du Bệ Ma từng
quét nhà Phật. Ông A Bà Ma Na ở trước tượng Phật thắp đèn giúp sáng, Tỳ kheo
Nan Đà mến trọng tôn nghi, nên dùng nước thơm gội rửa v.v… có vô lượng vị La
Hán như vậy, tất cả đều từng ở chỗ tượng Phật dâng lễ vật mọn cúng dường. Cho
đến thấp nhất như ông Na Già Ba La, ở trước tòa tượng, dùng chừng chút ít son
vàng vẽ thân một tượng để vì cúng dường… Do phước này nên đều lìa hẳn khổ và
được giải thoát.
Đức
Phật bảo tiếp:
–
Này Thiên Đế Thích! Nếu có người nào, có thể ở thời giáo pháp của ta chưa diệt
trở lại[12],
mà tạo tượng Phật, sẽ ở nơi hội đầu tiên của Phật Di Lặc, đều được giải thoát.
Nếu
chúng sanh nào, chẳng phải vì tự thân của mình, để cầu xuất ly vì muốn chứng
quả Vô thượng Bồ Đề mà tạo tượng Phật, nên biết đó là cái nhân chính của ba
mươi hai tướng, có thể làm cho kẻ ấy nhanh chóng thành Phật. Bấy giờ, vua Ưu Đà
Diên, tự tâm suy nghĩ: “Làm sao khiến cho pho tượng ta tạo mau được hoàn
thành.” Nghĩ như thế rồi nói với thợ trời:
–
Ngài khá gắng lòng giúp cho công việc mau được hoàn tất, cho tôi sớm được chiêm
ngưỡng, lễ lạy.
Lúc
đó, vị trời Tỳ Thủ Yết Ma trổ hết tài khéo, chuyên ròng chẳng trễ, không đầy
một ngày mà tạo thành tượng! Tượng ngồi kiết già, cao bảy thước mộc, mặt và tay
chân đều màu vàng tía.
Vua
Ưu Đà Diên thấy tượng được thành, tướng tốt trang nghiêm, tâm vua phát sanh đức
tin thanh tịnh chứng Nhu thuận nhẫn[13].
Chứng được nhẫn rồi vua càng mừng rỡ, bao nhiêu nghiệp chướng và những lo buồn
đều tiêu tan hết như mặt trời mọc sa mù đều hết, chỉ trừ một nghiệp mà hiện
thân chịu[14],
là bởi đã từng đối với Thánh nhơn khởi lời nói ác. Nhà vua khi ấy đem toàn
những món ngọc quý, vật lạ ban thưởng thợ trời nhưng vị thợ trời thưa với nhà
vua:
–
Nay vua tạo tượng lòng tôi tùy hỷ, nguyện cùng nhà vua đồng tu phước này. Nay
vua ban cho, tôi không dám nhận. Nếu cần cho nhau, xin hãy đợi đến một ngày
lành khác. Vị thần nói xong liền trong đêm ấy trở lên cõi trời.
Ngay
khi sau đó, các vua nước lớn, như vua A Xà Thế v.v[15]…
Trước đó các vua đối với Đức Phật, đều mang một niềm khao khát ngưỡng mộ, nghe
vua Ưu Đà Diên tạo tượng công phu đã thành, họ đều mừng rỡ, cùng nhau đến chỗ
vua Ưu Đà Diên, vua nào cũng đem rất nhiều hoa, hương, âm nhạc cúng dường tượng
Phật, lại đem các món ngọc quý trao tặng vua Ưu Đà Diên. Các vua đều nói: “Việc
làm của Ngài thật là hiếm có, hay nhổ được mũi tên độc buồn rầu cho cả chúng
tôi.”
Đang
trong khi ấy trên trời Đao Lợi, Đức Như Lai đã vì mẹ của Ngài diễn nói kinh
pháp[16],
và hàng chư Thiên đều được lợi mừng. Những việc đáng làm Phật đã làm xong. Đức
Phật lại bảo các Thiên chúng rằng:
–
Hỡi các Thiên tử! Chư Phật Thế Tôn là thân Thường trụ. Nếu các chúng sanh,
người nào đáng độ, chư Phật liền vì hiện ra giáo hóa, nói pháp cho nghe. Nếu
những làm đã xong xuôi rồi, không còn người nào có thể thọ pháp giáo hóa, Như
Lai khi đó liền chẳng hiện nữa. Kẻ không trí tuệ cho rằng Đức Phật diệt độ thật
sự. Thân chư Như Lai chính là pháp thân, là thân thường hằng, thật chẳng diệt
độ.
–
Này chư Thiên tử! Pháp của chư Phật đều như vậy cả, vì giáo hóa chúng sanh mà
có xuất hiện, hoặc không xuất hiện.
Kế
đó Đức Phật lại dạy, nói tiếp:
–
Các ngươi nên biết! Hàng chư Thiên đây, những người đáng độ ta đã độ rồi. Nay
ta sắp xuống cõi Diêm Phù Đề, chư Thiên các người nếu nghĩ đến ta hãy siêng
tinh tấn, chớ có buông lung.
Vì
sao thế? – Cũng vì tội lỗi của sự buông lung, làm cho các người chẳng được
Thánh đạo Vô thượng Bồ đề. Song bởi các người về thuở xa xưa từng trồng căn
lành, nay được ở đây hưởng lạc phú Trời[17],
để rồi buông lung, say đắm thú vui, chẳng tu phước hạnh. Những khoái lạc này
theo sự vô thường, một phen rơi rụng, là trôi nổi mãi trong con đường ác.
–
Lại nữa chư Thiên! Các người phiền não rất nặng[18],
thấy ai hơn mình bèn sanh ganh tỵ, chẳng từng nghĩ rằng: Trời nào vui hơn là do
tạo nhiều phước nghiệp chiêu cảm, nếu ta siêng tu thì cũng sẽ được. Nay đây các
người thân sắc sáng nhuận, như mặt trời mọc vào buổi bình minh, nếu hay ôm lòng
ganh ghét đố kỵ, thì sẽ đen tối như tro than tàn, còn sẽ phải đọa vào ngục tối
thẳm, đến đỗi chẳng thể tự thấy bàn tay, sau còn phải làm quỷ ăn đồ nữa!
–
Lại nữa chư Thiên! Hưởng những phước báo được thân nghiêm sạch, oai thế dũng
mãnh, do ganh tỵ nên chịu thân nữ, mất hẳn sức lực oai hùng dõng mãnh của bực
trượng phu.
–
Hỡi các Thiên tử! Ta nhớ thuở xưa có vô lượng vua, vì lòng ganh tỵ của chính
các người, mà phải bị hại một cách phi lý.
Này
các Thiên tử! Xưa có vua A Tu La[19]
tên là Ô La, tu hành khổ hạnh, giới phẩm trong sạch, chư Thiên các người sai
một Thiên nữ tên Ô Bà Thi mê hoặc tâm vua, khiến mất phẩm hạnh. Vua ấy đắm
nhiễm, cho nên oai đức tổn giảm, bị trời Na La Diên giết hại, và cả vô lượng
chúng A Tu La cùng lúc bại diệt. Trời Na La Diên giết vua này rồi, lại tru diệt
luôn binh chúng Tu La, thâu hồi Thiên nữ Ô Bà Thi trở về Thiên cung.
–
Lại có một vua tên Na Ha Thọ, chư Thiên các người dùng lời gạt gẫm, giúp các
Thiên chúng đánh A Tu La, phá A Tu La rồi chư Thiên các người trở hại ông ta!
–
Lại nữa chư Thiên! Các người vì cớ Xá Chỉ phu nhơn[20]
sanh tâm ghen ghét, Xá Chỉ xúi giục vua gây hấn, khiến cho Tiên nhơn tên A Già
Bà vô cớ bị ngờ mà nổi lời nguyền độc địa.
–
Lại nữa chư Thiên các người từng làm dối gạt, bảo vua Ế Trà rằng: “Chỗ của
người Tiên có nhiều vàng ròng,” vua tin lời này ép Tiên đưa ra, người Tiên do
đây lòng sanh căm giận, liền đó lửa mạnh đốt cháy vua Tiên.
–
Xưa lại có vua tên là Đề Bà, thường bày đại hội để được cúng dường, do phước
nghiệp này oai lực tự tại, bèn lên trời đây hưởng lạc thú trời, chư Thiên các
người ôm lòng ganh tỵ, khiến cho Đề Bà từ trời Đao Lợi rớt xuống trần gian, bao
nhiêu oai thế thảy đều tan nát, như trăng hết sáng, như sông cạn nước.
–
Này các Thiên tử! Trong đời lắm người oai đức tự tại. Hoặc được thần thông, có
người thành tựu bốn sức Thần túc[21]…
nếu khởi lên một niệm tân ganh tỵ, công đức như thế lui mất một lúc, như Đề Bà
Đạt Đa chẳng hạn, si mê dày đặc mới đối với ta mà sanh lòng ganh, lập tức mất
năm thứ thần thông.
Lúc
ấy, Thiên Đế bạch lên Đức Phật:
–
Kính bạch Đức Thế Tôn! Nay con có nghi muốn được thưa hỏi: Về sự ganh tỵ là như
thế nào?
Thiên
Đế hỏi tiếp:
–
Kính bạch Đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh thấy người hơn mình bèn nghĩ như vầy:
“Làm sao cho ta thu hoạch những gì người kia đã được,” tâm ấy có phải là ganh
tỵ chăng?
Phật
đáp:
–
Không phải! Đó là tâm tham, không phải ganh tỵ[22].
–
Này Thiên Đế Thích! Ganh tỵ nghĩa là tự cầu danh lợi chẳng muốn người có, cái
người khác có mà sanh ghét giận, ấy là ganh tỵ.
Bấy
giờ, các hàng Thiên chúng, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, gối mặt chấm đất, chấp tay
hướng Phật và bạch lời rằng:
–
Như lời Phật dạy, chư Thiên chúng con đều sẽ vâng làm. Lạy Đức Như Lai tôn kính
của đời, là Cha, là Chúa, là đấng tối tôn, là đấng Tối thắng. Đối với chúng
con, khởi đại Từ Bi mà đến nơi đây khiến các Thiên chúng đều được lợi ích. Sở
nguyện chúng con vẫn chưa được mãn, muốn một lần nữa thỉnh Phật một điều:
–
Kính bạch Đức Thế Tôn! Người dưới thế gian đối với chư Thiên chúng con, họ hay
khinh lờn. Vì sao! Bởi các Đức Phật sanh trong loài người[23],
và ở cõi người thành bậc Chánh giác. Giữa loài người có những A La Hán đã được
chứng quả. Các vị Độc Giác có oai đức lớn, lại cũng xuất hiện giữa lòng nhân
loại.
Nay
Đức Như Lai nếu chẳng ở đây đi xuống cõi Diêm Phù Đề, thì người thế gian đều sẽ
cho rằng: Chư Thiên chúng con chẳng biết Như Lai có oai đức lớn, đáng nhận chư
Thiên đúng pháp cúng dường, và còn cho rằng: “Chúng con chẳng hay cúng dường
các đức Như Lai tôn quý của đời. Mong Đức Như Lai nán lại một chút, nhận phần
cúng dường nhỏ mọn của chúng con, để người thế gian biết hàng chư Thiên cúng
dường Đức Phật.”
Khi
ấy Đức Phật im lặng nhận lời.
Bấy
giờ, Phật bảo tôn giả Đại Mục Kiền Liên:
–
Người khá về trước dưới Diêm Phù Đề, thăm hỏi bốn chúng, nói lời như sau: “Tất
cả những ai nhớ nghĩ đến ta, đều nên nhóm hội tại nước Tăng Già Thi, trong bảy
ngày nữa sẽ được thấy ta.”
Ngài
Mục Kiền Liên lạy dưới chân Phật, lạy chân Phật rồi, trong khoảng chớp mắt đã
đến cõi Diêm Phù Đề[24],
đem lời Phật dạy nói với bốn chúng. Vua Ưu Đà Diên cùng cả mọi người nghe Phật
báo tin, thân tâm người nào cũng mừng khấp khởi, đều trừ nỗi buồn, đều được
thoải mái.
Lúc
ấy bốn chúng, các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni, các Cận sự nam và Cận sự nữ, muốn
cùng qua đến nước Tăng Già Thi, trước hết họ nhóm tại thành Vương xá[25],
bàn với nhau rằng:
–
Đức Phật Như Lai tôn trọng của đời, sắp sửa trở xuống cõi Diêm Phù Đề, người
nào có thể cung kính lễ lạy Đức Phật trước nhất, người ấy sẽ làm thượng thủ,
trong khoảng thời gian pháp chưa diệt tận.
Tôn
giả Ma Ha Ca Chiên Diên nghe lời đó rồi trong lòng chẳng vui, e cho bên Ni được
làm thượng thủ. Vì sao thế? Trong toàn Ni chúng có Ưu Ba Ban Đà và Liên Hoa
Sắc. Hai Tỳ kheo Ni này có thể thông suốt Tạng pháp chư Phật, thần thông chứng
được, chỉ trừ Tôn giả Đại Mục Kiền Liên ngoài ra không ai bằng hai bà. Nghĩ như
thế rồi, ngài Ca Chiên Diên đủ cách quở rầy chúng Tỳ kheo Ni.
Lúc
đó, Tỳ kheo Liên Hoa Sắc, bảo Ni chúng rằng:
–
Người nữ chúng ta ở giữa thế tục thường được tôn quý, dẫu cho dòng dõi có hèn
chăng nữa, vẫn được đàn ông cung kính nể vì, cung phụng đủ thứ. Vả lại chư Ni
trong pháp của Phật, cha mẹ quyến thuộc, phần nhiều thuộc về dòng dõi vua quan.
Ni giới chúng ta tinh tấn, trì giới, chẳng phạm oai nghi, đủ các đức nghiệp,
vậy mà vẫn phải lễ kính Tỳ kheo mới thọ đại giới. Tôn giả Ca Chiên Diên nay lại
nhiều điều quở trách thế này… Ta vì chư Ni bày các phương tiện, khiến Tỳ kheo
Ni xuất sắc hơn Ngài. Nói như thế rồi cùng với bốn chúng[26],
đồng đến dự nơi thành Tăng Già Thi.
Bấy
giờ, vua Ba Tư Nặc, vua A Xà Thế và vua Nghiêm Xí nước Tỳ Xá Ly… Mỗi vua đều
dẫn bốn đội binh hùng[27]
hộ tống theo vua, có thế lực lớn. Voi ngựa được cỡi đều dùng các thứ vật quý tô
điểm. Cờ xí, phan lọng, hương hoa, kỹ nhạc, oai dung nghiêm nghị, tướng trạng
dường như các vị Thiên thần, họ đều qua đến thành Tăng Già Thi.
Vua
Ưu Đà Diên lúc đó nghiêm chỉnh, đội ngũ bốn binh làm kẻ thị tùng. Vua cỡi voi
trắng, có châu ngọc thêu thùa, đích thân vua chở tượng Phật đã tạo. Rải hoa,
cầm phướng, nhạc công trỗi nhạc đi theo cúng dường, từ nước của vua hướng về
thành Tăng Già Thi.
Khi
ấy, Thiên thần Tỳ Thủ Yết Ma, cùng chư Thiên chúng, biết Phật sắp sửa xuống
Diêm Phù Đề, bèn tạo ra ba con đường có thềm cấp quý, từ thành Tăng Già Thi đến
trời Đao Lợi, thềm cấp đường giữa tạo bằng lưu ly, thềm đường hai bên đều bằng
hoàng kim, chỗ đặt chân xuống lót bằng bạc trắng, xen kẽ với bảy thứ ngọc cõi
trời.
Thiên
chủ Đế Thích sai các Thiên sứ đến Trời Dạ Ma, trời Đâu Suất Đà, đến trời Hóa
Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại và trời Phạm Thế[28],
để báo tin rằng: “Đức Phật sắp xuống cõi Diêm Phù Đề, như muốn cúng dường xin
xuống nơi đây.” Lại sai sứ xuống trời Tứ Thiên Vương, Long Vương biển lớn, vua
Càn Thát Bà, vua Khẩn Na La, và chúng Dạ Xoa, bảo với họ rằng: “Nay Đức Thế Tôn
sắp xuống cõi Diêm Phù Đề, các vị có thể đem những cúng phẩm đến đây cúng
dường.”
Lúc
đó, các Trời, Rồng, Thần v.v… nghe lời báo rồi, ai cũng vân tập về trời Đao
Lợi.
Bấy
giờ, đức Thế Tôn ở tại đỉnh núi Tu Di, cùng với đông đảo chư Thiên các trời[29]
lúc sắp đi xuống, toàn thể chư Thiên trước sau rợp trời, oai đức lừng lẫy, ánh
sáng rạng ngời như ánh trăng tròn ở giữa không gian, muôn sao giăng bủa, như
vừng thái dương vừa mới xuất hiện, rực rỡ chói chang. Phật và hội chúng trạng
thái lúc ấy cũng ví như vậy.
Ngay
trong lúc đó, do thần lực Phật cho nên cõi Diêm Phù Đề có năm điều hiếm có:
Một
là, khiến chư Thiên kia chẳng thấy những vật không sạch ở chốn nhân gian.
Hai
là, khiến cho nữ giới thấy các Thiên nam mà không tưởng đến đắm nhiễm tình dục.
Ba
là, khiến những người nam thấy các Thiên nữ chẳng sanh ý nhiễm.
Bốn
là, khiến người trần gian từ xa nhìn rõ những món cúng dường của các Thiên
chúng.
Năm
là, thân của chư Thiên sáng sạch, đẹp đẽ, chẳng bị người đời nhìn thấy, do thần
lực Phật, cho nên con người có thể nhìn thấy một cách rõ ràng.
Khi
đó Đức Phật từ trên Thiên cung vừa đặt chân xuống thềm báu đường giữa, thì trời
Phạm Vương đứng phía bên phải, tay cầm lọng trắng và trời Đế Thích phía bên
trái, tay cầm phất trắng. Ngoài ra chư Thiên đều nương hư không, theo Phật đi
xuống, cùng lúc đồng trỗi đủ thứ âm nhạc. Chư Thiên cầm những tràng phan, bảo
cái, rải hoa cúng dường. Các vị Thiên chúng cõi trời Tịnh Cư chật cả hư không,
vô lượng trăm ngàn chư Thiên, thể nữ đeo những chuỗi ngọc cùng nhau ca tụng
Thánh đức của Phật. Lại có chư Thiên ở giữa hư không, rắc những thứ hương và
những hoa thơm. Các vị Long thần tuốn mưa thơm nhẹ. Lúc đó không gian chẳng có
mây che, tiếng sấm êm dịu làm cho người nghe tâm hồn vui đẹp. Thần Càn Thát Bà,
thần Khẩn Na La, hòa tấu khúc nhạc Đề Bà Na Già vô cùng tuyệt diệu, ca ngợi
những việc đời trước của Đức Như Lai.
Khi
ấy, trong Diêm Phù Đề, vua chúa quan dân và bốn hộ chúng, đầy khắp giáp cả
thành Tăng Già Thi, nào rắc hoa thơm, nào cầm phan lọng, thổi ốc, đánh trống,
các thứ âm nhạc, hướng lên hư không tỏ lòng cúng dường. Đưa tay, chấp tay chiêm
ngưỡng Đức Phật. Hoa thơm danh tiếng cõi trời, cõi người, trên dưới giao nhau
rơi xuống lăng xăng lên đến đầu gối, đồ chúng ngoại đạo thấy việc trên đây, đều
cùng phát tâm quy y lễ kính[30].
Khi
Đức Thế Tôn chân đạp thềm báu, lần lượt đi xuống vừa được nửa chừng, thì bốn
Thiên Vương ở chỗ của mình, sắp bày lễ phẩm cúng dường Đức Phật, sự cúng dường
này vô cùng khéo lạ, ngàn xưa đến nay loài người chưa có.
Đức
Thế Tôn nhận sự cúng dường của bốn vị Thiên Vương, rồi cùng đại chúng xuống hết
các bực, đến cấp chót nhất, Đức Phật sắp sửa đặt chân xuống đất, thì Tỳ kheo Ni
Liên Hoa Sắc liền biến thân mình làm Chuyển Luân Vương[31],
lãnh bốn binh chủng và bảy thứ báu dẫn đi tới trước, từ không trung xuống vội
tới chỗ Phật. Các vị quốc vương ai cũng tự hỏi: “Vua Chuyển luân này, từ đâu
đến đây?”
Lúc
ấy, Tôn giả Tu Bồ Đề đang ở trong phòng thấy Phật xuống đến, liền sửa y phục
vói mình lễ kính, Tỳ kheo Ni Liên Hoa Sắc bỏ thân Luân Vương hoàn lại hình cũ,
liền vội đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn.
Khi
đó, Đức Phật đủ điều quở trách Tỳ kheo Ni ấy và bảo bà rằng:
–
Ngươi không biết à? Ông Tu Bồ Đề lễ Ta trước rồi! Ngươi được ai bảo biến làm
Luân Vương? Ngươi được dự vào hàng ngũ xuất gia, thọ giới Cụ Túc đã quá phận
rồi. Trí ngươi nhỏ mọn, còn sự siểm trá lại không bờ bến, dù cho từ bi báo đáp
ân đức, thì cũng chỉ như một giọt sương móc, há có thể nào ở trong pháp Ta làm
Thượng thủ sao?
Ni
Liên Hoa Sắc nghe Phật răn dạy, rất sanh xấu hổ, liền bạch Phật rằng:
–
Kính bạch Đức Thế Tôn! Nay con tự biết tội lỗi không ít. Từ nay về sau, con
không dám biến hiện thần thông nữa.
Bấy
giờ trong Diêm Phù Đề, các vị quốc vương các vị quan quyền và bốn hộ chúng, đều
đem các món cúng phẩm mang theo, dâng cúng Đức Phật.
Vua
Ưu Đà Diên đầu đội tượng Phật[32]
và những vật cúng quý lạ bậc nhất đến chỗ Như Lai và dâng hiến lên. Thân Phật
tướng tốt đầy vẻ đoan nghiêm thù đặc sáng ngời ở giữa chư Thiên, ví như trăng
tròn ra khỏi mây che. Tượng Phật chạm khắc, so với Đức Phật, không khác gò nổng
sánh núi Tu Di chẳng thể nào dụ, chỉ có xoắn tóc và tướng ngọc hào giống Phật
một ít, để khiến bốn chúng biết là TƯỢNG PHẬT.
Vua
Ưu Đà Diên bạch Đức Phật rằng:
–
Kính lạy Thế Tôn! Đức Như Lai thuở xưa ở trong sanh tử cầu đạo Bồ Đề, thực hành
vô lượng vô biên hạnh khổ khó làm khó nhẫn[33],
kết quả được thân nhiệm mầu hơn hết, không ai sánh bằng. Pho tượng con tạo
chẳng giống Đức Phật, con tự trộm nghĩ rất là tội lỗi.
Đức
Thế Tôn bảo vua Ưu Đà Diên:
–
Chẳng bị tội lỗi! Nay ông đã làm lợi ích vô lượng, không có người nào sánh bằng
với ông. Nay ông ở trong giáo pháp của ta, làm người gương mẫu đầu tiên. Bởi
nhân duyên này, làm cho vô lượng chúng sanh đời sau, được sanh đức tin rất là
sâu sắc. Ông nay đã được vô lượng phước đức, căn lành rộng lớn.
Khi
đó vua trời Đế Thích lại bảo vua Ưu Đà Diên:
–
Nay vua ở đây chớ có lo sợ. Khi Đức Như Lai trước ở cõi trời và nhơn gian này,
đều khen ngợi về công đức tạo tượng của vua, còn chư Thiên chúng thì rất tùy
hỷ. Người có tín tâm trong đời sau này, đều nhờ nơi vua mà tạo tượng Phật để
được hưởng phước, nay vua hãy nên vui vẻ tự mừng.
(HẾT
QUYỂN THƯỢNG)[34]
KINH ĐẠI THỪA CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT
QUYỂN
HẠ
Triều
Vua ĐẠI ĐƯỜNG: Nước VU ĐIỀN
Tam
Tạng Sa Môn: ĐỀ VÂN BÁT NHÃ Vâng chiếu dịch
Việt
Nam. Tỳ kheo THÍCH THIỆN THÔNG Dịch ra Việt văn
Bấy
giờ, Đức Phật ngồi tòa Sư Tử[35]
tại nơi đạo tràng nước Tăng Già Thi. Tâm của bốn chúng người nào cũng nghĩ:
“Chúng ta mong được nghe Đức Như Lai diễn nói công đức của sự tạo tượng. Nếu
chúng sanh nào làm kẻ ấy được phước cỡ nào?”
Lúc
đó, Ngài đại Bồ Tát Di Lặc biết ý nghĩ ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa áo, hở
vai bên mặt, quỳ thẳng chấp tay bạch lên Đức Phật:
–
Kính bạch Thế Tôn! Vua Ưu Đà Diên tạo hình tượng Phật, nếu Phật ở đời hoặc Niết
Bàn rồi, người có lòng tin, có thể tùy phần tạo hình tượng Phật, người ấy gặt
hái công đức thế nào? Cúi mong Thế Tôn nói rộng tướng ấy.
Đức
Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:
–
Di Lặc lóng nghe và khéo nhớ lấy, sẽ vì ông nói.
–
Nếu có thiện nam, người thiện nữ nào đức tin trong sạch, chuyên ròng buộc niệm
về công Đức Phật, thường xét Như Lai oai đức tự tại, đầy đủ. Mười lực, Bốn Vô
sở úy[36],
Mười tám pháp Bất cộng, Đại từ, Đại bi, Nhứt thiết Chủng trí, ba mươi hai tướng
của Đại trượng phu, Tám mươi tướng phụ. Mỗi lỗ chân lông đều có vô lượng ánh sáng
khác màu, trăm ngàn ức thứ phước đức siêu thắng trang nghiêm tạo thành, vô
lượng trí tuệ sáng tỏ thông suốt, vô lượng Tam muội, vô lượng thần thông… Tất
cả các thứ công đức như vậy không có hạn lượng, lìa các lỗi lầm, không ai sánh
bằng.
Người
nào xét nghĩ rồi sanh tin ưa một cách sâu sắc, y các tướng tốt mà tạo tượng
Phật, công đức người ấy rộng lớn vô biên, không thể tính đếm.
–
Di Lặc! Nếu có người nào dùng những tơ sợi, thêu thùa tượng Phật[37]
hoặc là nấu đúc bằng thứ vàng, bạc, đồng, sắt, chì, kẽm. Hoặc điêu khắc bằng gỗ
thơm Chiên đàn, hoặc khắc bằng thứ trân châu, sò ốc, gấm vóc dệt thành, đất đỏ
xi măng, thạch cao, đất sét, hoặc các thứ gỗ… Dùng những vật đó tùy phần sức
mình tạo ra tượng Phật[38],
cho đến rất nhỏ như ngón tay cái, có thể khiến cho người khác nhìn biết đó là
Tôn tượng, phước báo người nay ta sẽ nói:
–
Di Lặc! Những người như vậy ở trong sanh tử tuy còn trôi lăn, trọn chẳng sanh
tại gia đình nghèo cùng, cũng chẳng sanh nhà dòng dõi thấp hèn, cô đơn hẻo lánh
ở ven cõi nước. Lại cũng chẳng sanh vào nhà tà kiến, con buôn, con bán, nhà làm
hàng thịt, cho đến chẳng sanh vào giòng hèn hạ, kỹ nữ bất tịnh, hoặc nhà ngoại
đạo, khổ hạnh tà kiến, trừ khi vì sức thệ nguyện Từ Bi, ngoài ra chẳng sanh vào
những nhà ấy.
Người
này thường sanh nhà thuộc giòng tộc vua Chánh Chuyển Luân có thế lực lớn. Hoặc
sanh giòng Bà La Môn tịnh hạnh, hoặc nhà giàu sang không tạo tội nặng. Sanh ở
nơi nào cũng thường gặp Phật, vâng thờ cúng dường. Hoặc được làm vua hộ trì
chánh pháp, đem pháp giáo hóa, chẳng làm trái đạo. Hoặc làm vua Thánh Chuyển
Luân oai hùng, bảy báu thành tựu, đủ ngàn người con, bay đi trên không giáo hóa
bốn châu, suốt một cuộc đời tự tại giàu vui. Hoặc làm Đế Thích, vua Trời Dạ Ma,
vua trời Đâu Suất, vua trời Hóa Lạc, vua trời Tha Hóa Tự Tại, lạc thú Trời
người, không gì chẳng hưởng. Phước báo như thế nối tiếp không dứt. Sanh ra nơi
đâu cũng là đàn ông, không chịu thân nữ, lại chẳng chịu thân huỳnh môn hai hình
là thứ hèn hạ. Thân được thọ sanh không bị xấu xí, mắt chẳng mù chột, tai chẳng
điếc lác, mũi chẳng cong gãy, miệng chẳng méo lệch, môi chẳng trề xuống, cũng
chẳng túm rút, răng chẳng thưa thiếu chẳng đen, chẳng vàng, lưỡi chẳng ngắn
thụt, cổ chẳng bướu nhọt, thân chẳng lưng gù, da chẳng loang lỗ, tay chẳng cụt
ngủn, chân chẳng lệch què, chẳng quá ốm o, chẳng quá béo mập, cũng chẳng quá
dài, cũng chẳng quá ngắn… Đều không có các tướng chẳng đáng ưa.
Thân
của người ấy thẳng thóm đoan trang, mặt mày đầy đặn. Tóc màu xanh biếc mềm mại,
sáng sạch. Môi đỏ như son, mắt như sen xanh, tướng lưỡi rộng dài. Răng trắng
bằng khít, nói ra hay khéo, khiến người nghe ai cũng vui đẹp. Khuỷu tay vừa
chừng. Bàn tay bằng phẳng, lưng vế no đầy, vai ngực nở nang, tay chân dịu dàng
dường như bông vải, các tướng đầy đủ không bị khuyết giảm gân sức tất mạnh, tựa
hồ như trời Na La Diên[39].
–
Di Lặc! Ví như có người rớt vào hầm cầu tiêu, từ đó được ra, cạo bỏ phần uế,
lấy nước rửa sạch, dùng hương thoa thân, mặc áo mới sạch… Người như thế đó so
với người còn ở trong hầm tiêu, chưa được ra khỏi, vậy sự nhơ sạch và sự thơm,
hỏi cách nhau bao nhiêu? Kính bạch Thế Tôn việc ấy cách xa không biết mấy lần!
–
Di Lặc! Nếu có người nào còn trong sanh tử, hay phát lòng tin tạo hình tượng
Phật, so sánh với lúc người ấy chưa tạo, thì sự cách xa lại cũng như vậy. Nên
biết người ấy đời đời sanh ra trừ sạch nghiệp chướng, các thứ kỹ thuật, không
thấy mà hiểu. Tuy sanh làm người mà các giác quan được coi như cõi trời. Nếu
sanh lên trời, thì trỗi vượt hơn rất nhiều Thiên chúng. Sanh ra nơi nào cũng
không tật nguyền, không bị phung hủi, không bị ung thư, không bị dựa nhập bởi
các quỷ mị. Không mắc những bịnh điên cuồng khô héo, vàng da sốt rét, sạn hòn,
ghẻ dữ, thẹo sâu, thổ tả vô độ, ăn uống không tiêu, cựa mình nhức nhối, tê liệt
nửa người…Những bệnh như vậy bốn trăm bốn chứng thảy đều không có[40].
Lại
cũng chẳng bị các thứ thuốc độc, binh khí gậy gộc, cọp sói, sư tử, nước, lửa,
trộm, cướp… những duyên xảy ra bất ngờ như vậy không làm tổn hại. Thường được
không sợ, chẳng phạm các tội.
–
Di Lặc! Nếu có chúng sanh trước tạo nghiệp ác, phải chịu đủ thứ các sự khổ não,
như bị kềm kẹp, còng khóa, gông xiềng, đánh mắng, đốt châm, xẻ da nhổ tóc, treo
ngược lên cao, cho đến hoặc bị mổ xẻ lòng đốt… Nếu phát lòng tin tạo hình
tượng Phật, thì khổ báo ấy thảy đều chẳng thọ. Chẳng sanh những chỗ giặc giã
quấy nhiễu, thành ấy sụp đổ, sao dữ biến quái, đói kém ôn dịch… Những chỗ như
thế đều chẳng sanh đến, nếu nói có sanh, đó là vọng ngữ.
Lúc
ấy, Ngài Đại Bồ Tát Di Lặc bạch Phật:
–
Kính bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói “Nghiệp lành, nghiệp dữ đều chẳng mất
mát.[41]”
Nếu có chúng sanh gây tạo nghiệp nặng, phải sanh vào nhà giòng họ hèn mọn,
nghèo nàn tật nguyền, mạng sống ngắn ngủi. Sau phát lòng tin tạo hình tượng
Phật, các tội báo này là còn phải chịu hay là chẳng chịu?
Đức
Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:
–
Ông nay nghe kỹ, sẽ vì ông nói. Nếu chúng sanh nào gây các tội rồi, phát tâm
tạo tượng cầu xin sám hối, quyết định tự dứt, thề không phạm lại, thì tội tạo
phước đều được tiêu diệt. Nay ta vì ông nêu rộng việc này.
–
Di Lặc! Ví như có người đời trước sẻn lận, do duyên cớ đó chịu khổ nghèo nàn,
không có của cải, thiếu thốn vật dùng, bỗng gặp Tỳ kheo trước đó nhập định, từ
định vừa xuất, người kia liền đem món ăn thức uống dâng lên cúng thí, người ấy
thí rồi khỏi khổ nghèo nàn, phàm có cầu gì, đều như ý muốn. Di Lặc! Nghiệp ác
đời trước và chỗ mắc báo của người nghèo kia nay có còn chăng?
Ngài
Di Lặc thưa:
–
Kính bạch Thế Tôn! Nhờ cúng thức ăn mà nghiệp ác cũ thảy đều diệt hết, lìa hẳn
nghèo nàn và được giàu có, của cải sung túc.
Đức
Phật dạy rằng:
–
Bồ Tát Di Lặc! Đúng như ông nói, nên biết, người kia lại cũng như vậy. Nhờ tạo
tượng nên những nghiệp ác cũ hết hẳn không còn, chỗ đáng chịu báo đều chẳng
chịu nữa.
–
Di Lặc! Nghiệp có ba thứ[42].
Một là, hiện đời chịu báo. Hai là, đời sau chịu báo. Ba là, nhiều đời về sau
mới chịu quả báo… Trong ba loại nghiệp như vừa nêu trên, mỗi nghiệp đều có
Định và Bất định. Người có lòng tin tạo hình tượng Phật, chỉ có định nghiệp là
trong hiện đời chịu lãnh ít phần, ngoài ra chẳng chịu những thứ nghiệp khác.
Khi
ấy, Bồ Tát Di Lặc bạch rằng:
–
Kính bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói: Có năm thứ nghiệp rất là sâu nặng, quyết
định đọa tại địa ngục vô gián[43].
Đó là các tội: giết cha, hại mẹ, giết A La Hán, ác tâm làm cho thân Phật ra
máu, phá hòa hợp Tăng. Nếu có chúng sanh trước tạo tội này, sau sanh lòng tin
đối với Đức Phật và tạo hình tượng, người này có còn đọa tại địa ngục hay chẳng
bị đọa?
Đức
Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:
–
Nay ta vì ông nói một thí dụ nữa: Giả như có người, tay cầm cung mạnh ở giữa
rừng cây, nhằm lên phía trên bắn những lá cây, mũi tên đi suốt không bị trở
ngại. Nếu có chúng sanh gây tội nghịch kia, sau tạo tượng Phật, thành tâm sám
hối, được đức tin chưa chắc chắn lắm, người ấy tưởng mình tội được nhẹ mỏng,
thì dù có đọa ngục chăng nữa cũng liền ra khỏi, như mũi tên bắn đi suốt không
ngừng, trường hợp người này lại cũng như vậy… Lại như Tỳ kheo, chứng Thần túc
thông, từ bờ bên này qua bên kia biển quanh cả bốn châu không gì ngăn ngại.
Người kia cũng thế, do tội phạm trước tạm đọa địa ngục, chẳng phải nghiệp trước
có thể làm ngại.
Bồ
Tát Di Lặc lại bạch hỏi tiếp:
–
Kính bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai là thân Pháp tánh, chẳng phải là thân thuộc
về sắc tướng. Nếu lấy sắc tướng làm thân Đức Phật, thì Tỳ kheo Nan Đà và Chuyển
Luân Vương lẽ ra là Phật. Bởi vì đều có đủ các tướng tốt. Như có chúng sanh
hoại pháp thân Phật[44],
Pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, sau phát lòng tin và tạo tượng
Phật, thì tội nặng này là cùng tiêu diệt, hay chẳng được diệt?
Đức
Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:
–
Nếu chúng sanh nào pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, chỉ dùng miệng
nói mà không phá kiến, sau sanh tin ưa tạo hình tượng Phật, thì nghiệp ác
trước, chỉ nơi hiện thân bị chịu báo nhẹ, chẳng đọa đường ác, song với sống
chết chưa giải thoát liền.
Bồ
Tát Di Lặc lại thưa hỏi tiếp:
–
Kính bạch Thế Tôn! Nếu có người nào, trộm lấy những vật trong bảo tháp Phật,
trộm vật thường trụ, trộm vật bốn phương Tăng, vật hiện tiền Tăng, tự mình tiêu
dùng, đem cho người dùng, coi như của mình. Thế Tôn thường nói: “Dùng vật lấy
trộm từ trong tháp Phật hay vật của Tăng, tội ấy rất nặng.[45]”
Vậy chúng sanh nào tạo tội ấy rồi rất tự hối trách, khởi lòng tịnh tín và tạo
tượng Phật, các hạng người đó tội được diệt chăng?
Đức
Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:
–
Nếu chúng sanh nào từng dùng vật ấy, sau tự tỉnh xét ôm lòng thẹn hối, y số
thường bồi, thề chẳng phạm nữa, nay ta vì ông nói một ví dụ: Như có người nghèo
trước mắc nhiều nợ, bỗng gặp của chìm vô số vàng ngọc, trả hết nợ xong vẫn còn
dư lớn. Người tạo tội kia lại cũng như thế, đền vật nọ rồi lại tạo tượng Phật,
sẽ khỏi nạn khổ, mãi được an vui.
Bấy
giờ Ngài đại Bồ Tát Di Lặc lại bạch hỏi Phật:
–
Kính bạch Thế Tôn! Như Phật từng dạy “Ở trong pháp Phật mà phạm khí tội[46],
chẳng gọi là sống.” Nếu lại có người phạm tội đó rồi, phát tâm nhớ nghĩ công
đức chư Phật và tạo hình tượng, vậy thì đối trong giáo pháp của Phật được
“sống” lại chăng? Lại trong đời này, hoặc đời thứ hai, thứ ba, thứ tư được
chứng Pháp chăng?
Đức
Phật bảo ngài Bồ Tát Di Lặc:
–
Ví như có người thân bị trói cột, tay, chân và cổ, nếu được cởi trói như chim
khỏi lưới, bay đi tự do, việc kia thế nào thì người nọ cũng vậy. Nếu phát lòng
tin, ngẫm nghĩ về những công đức của Phật và tạo tượng Phật, thì các nghiệp
chướng đều được tiêu trừ, ở trong sanh tử mau được ra khỏi, không bị trở ngại.
Di Lặc nên biết, có ba Thừa pháp[47]
là Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật Đại thừa, người tạo tượng Phật
tùy nơi thừa nào, khởi nguyện ưa muốn, tức nơi thừa đó, được sự giải thoát. Nếu
như chỉ vì cầu thành Phật đạo, không cầu báo khác, thì dầu chướng nặng vẫn được
mau diệt, tuy tại sanh tử nhưng không nạn khổ, cho đến sẽ chứng Vô thượng Bồ
đề, được cõi thanh tịnh; đủ các tướng tốt, được cảm thọ mạng, lâu dài vô tận.
Bấy
giờ trong hội, có những người chưa phát tâm Đại thừa, đều sanh mối nghi, nghĩ
như thế này: “Đức Như Lai ta về thuở quá khứ có tạo tượng Phật hay là không
tạo? Giá mà có tạo, sao tuổi thọ Ngài ở đầy những nhơ nhớp, chẳng được thanh
tịnh?”
Vua
Ba Tự Nặc nương oai thần Phật[48],
liền từ chỗ ngồi, đứng dậy chấp tay quỳ thẳng bạch Phật:
–
Kính bạch Đức Thế Tôn! Con thấy Đức Như Lai các căn tướng tốt cũng như giòng
tộc đều là đệ nhứt, lòng con quyết định không có chỗ nghi. Nhưng Đức Như Lai
từng có một lần, cây Khư đà la đâm thủng chân Ngài. Lại có một lần Đề Bà Đạt Đa
lăn đá văng mảnh, chân Phật chảy máu. Trước đây có lúc Ngài bảo có bệnh, cho
mời Kỳ Bà điều chế thuốc tốt. Lại có một lần từng nhức sau lưng. Ngài bảo Tôn
giả Ma Ha Ca Diếp tụng bảy pháp Giác phần thì chỗ đau được trừ. Lại có một lần
từng bị đau nhức, sai Ngài A Nan đến nhà Bà La Môn tìm xin sữa bò. Trước đây có
lần tại thôn Ta La, ba tháng an cư chỉ ăn lúa ngựa. Lại từng một lần khất thực
chẳng được, bát không trở về.[49]”
–
Kính bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói: “Nếu có người nào tạo hình tượng Phật, thì
bao nghiệp chướng đều bị trừ diệt, lìa những khổ não, không các tật bệnh. Vậy
Đức Thế Tôn trong những kiếp xưa từng có tạo tượng hay là không tạo. Nếu trong
quá khứ Ngài có tạo tượng, thì nhân duyên nào, có những việc ấy?”
Đức
Phật bảo vua Ba Tư Nặc rằng:
–
Lóng nghe! Lóng nghe và khéo nhớ nghĩ, sẽ vì Đại vương phân biệt giải nói. Hỡi
này Đại vương Ta về kiếp xưa vì cầu Bồ đề mà đã dùng những châu ngọc quý giá,
gỗ thơm Chiên đàn và việc sơn vẽ để tạo tượng Phật, nhiều hơn tất cả số chúng
Trời người trong hội hiện nay. Do phước này nên dầu còn trong vòng lưu chuyển
sanh tử chưa mê hoặc, nhưng được thọ thân bền như kim cương, chẳng thể tổn hư.
Lại
này Đại vương! Ta nhớ quá khứ cách vô lượng kiếp, còn trong sanh tử ta tạo
tượng Phật lúc đó ta còn tham, giận, si mê[50]…
Vô lượng phiền não tương ưng với tâm, nhưng ta chưa từng trong khoảng một niệm,
vì tội nghiệp mà bốn đại chẳng điều, hoặc là bị các quỷ thần dựa nhập, hay bị
chút ít các chứng bệnh khổ, còn vật cần dùng thì không thứ nào mà chẳng đầy đủ,
huống gì ngày nay ta đã chứng đạo Bồ đề, lại còn có việc “bất như ý” sao?
–
Đại vương! Nếu ta thuở xưa từng tạo tượng Phật, nay có nghiệp tàn để chịu báo
đó, ta làm sao thành bức “Vô úy thuyết” để rồi nói rằng “Tạo tượng quyết định
có thể trừ hết các nghiệp xấu ác?”
–
Đại vương! Ta thuở quá khứ cấp giúp vô lượng món ăn thức uống, tiền tài châu
báu[51],
làm sao đời nay khất thực chẳng được phải ăn mã mạch? Thoảng như ngày nay, việc
đó có thật, thì ta làm sao trong vô lượng kinh, nhiều cách khen ngợi thí Ba la
mật, nói phước bố thí trọn không hư dối?
–
Đại vương! Ta là một bực nói chơn, nói thật, bậc không nói gạt. Nếu ta khi dối
thì độ được ai?
–
Đại vương! Từ lâu ta đã dứt hết nghiệp ác, bỏ việc khó bỏ, làm sự khó làm, thân
mạng được bỏ hàng trăm ngàn ức, đã tạo vô lượng hình tượng chư Phật, hối cải vô
lượng các tội nghiệp ác, há mắc những việc bị thương, bịnh khổ, ăn dùng lúa
ngựa, đói khát hay sao? Nếu từng được những quả báo thù thắng, nay lại lui mất,
lấy đâu khuyến tu các phước lành kia?
–
Này Đại vương! Chư Phật Như Lai là thân thường hằng, là thân pháp tánh[52],
vì độ chúng sanh mà hiện việc trên, chẳng phải thật vậy. Bị thương bàn chân,
đau lưng, xin sữa, uống thuốc v.v… cho đến nhập đại Niết bàn, để xá lợi mình
phân chia các nơi, xây tháp v.v… Đều là phương tiện hay khéo của Phật, khiến
các chúng sanh thấy tướng như vậy.
Đại
vương! Ta ở thế gian hiện ra những việc bệnh hoạn như trên, mục đích muốn cho
chúng sanh biết rõ nghiệp báo chẳng mất, khiến họ biết sợ để dứt tội lỗi tu các
hạnh lành, để rồi sau đó, biết thân thường hằng, biết thân pháp tánh, thọ mạng
vô hạn, cõi nước thanh tịnh.
–
Đại vương! Chư Phật Như Lai không hề hư vọng, thuần là đại bi, trí tuệ khéo léo,
cho nên có thể đủ mọi cách thức thị hiện như vậy.
Khi
đó vua Ba Tư Nặc nghe lời này rồi, mừng vui khấp khởi, cùng với vô lượng trăm
ngàn chúng sanh, đều phát đạo tâm Vô thượng Bồ đề[53].
Bấy
giờ, Ngài đại Bồ Tát Di Lặc tiếp tục hỏi Phật:
–
Kính bạch Thế Tôn! Có những người nữ ý chí nhỏ hẹp, mang nhiều ghen, giận,
khinh bạc, siểm dối, giận dai không bỏ, mang ơn chẳng bá. Dẫu cầu Bồ đề, nhưng
không mấy người giữ chí bền bỉ, thường muốn mê hoặc tất cả mọi người, lại cũng
bị người lừa gạt trở lại[54].
–
Kính bạch Thế Tôn! Nếu người nữ này tạo hình tượng Phật, những nghiệp như vậy
được trừ diệt chăng? Được làm một người biết ơn, báo ơn chăng? Được đủ trí tuệ,
đại từ bi chăng? Với sự sống chết hay chán lìa chăng? Trừ khi nguyện lực, ngoài
ra có chịu thân nữ lại chăng? Có được như bà Cù Đàm Di và Phật mẫu là bà Ma Gia
phu nhân chăng?
Đức
Phật đáp lời Bồ Tát Di Lặc:
–
Nếu người nữ nào hay tạo tượng Phật, thì hẳn không thọ lại thân phụ nữ. Giả như
thọ thân, thì đó là bậc nữ lưu tôn quý đệ nhứt hơn hết. Nhưng các người nữ có
năm thứ đức, những gì người nữ tạo tượng sẽ được, hơn cả nữ giới. Năm đức là
gì?
Một
là: Sanh nở con cái.
Hai
là: Giòng dõi tôn quý.
Ba
là: Bẩm tánh trinh lương.
Bốn
là: Thể chất tướng mạo đẹp đẽ cả hai.
Năm
là: Dáng vẻ mỹ mãn.
–
Di Lặc! Tất cả người nữ có tám nhân duyên cho nên hằng chịu thân nữ nhiều đời.
Thế nào là tám?
Một
là: Yêu dấu thân nữ.
Hai
là: Ham đắm dục lạc của người phụ nữ.
Ba
là: Miệng thường khen ngợi dung chất nữ nhơn.
Bốn
là: Lòng không ngay thẳng, che dấu việc làm.
Năm
là: Chán nản chồng mình.
Sáu
là: Cõi lòng nặng trĩu nhớ đến người khác.
Bảy
là: Biết người có ơn nhưng mình bội nghịch.
Tám
là: Trang sức tà ngụy muốn người mê luyến.
Nếu
hay dứt hẳn tám điều như thế, tạo hình tượng Phật, mãi đến thành Phật, thường
làm đàn ông. Chịu thân nữ nữa là điều vô lý.
–
Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân nữ nhơn. Thế nào
là bốn?[55]
Một
là: Dùng tiếng người nữ khinh cười gọi Phật, chư vị Bồ Tát, các vị Thánh nhơn.
Hai
là: Với người giữ giới, đem lòng chê bai, nói rằng phạm giới.
Ba
là: Ưa đi nịnh hót dối gạt người khác.
Bốn
là: Thấy ai hơn mình tâm sanh ganh ghét.
Nếu
đàn ông nào làm bốn việc trên, sau khi chết rồi ắt chịu thân nữ, lại phải trải
qua vô lượng nỗi khổ trong các ngã ác. Nếu phát lòng tin sâu dày sám hối việc
làm lúc trước và tạo tượng Phật, các tội như trên đều bị tiêu diệt, rốt ráo
chẳng còn chịu thân người nữ.
–
Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân huỳnh môn[56].
Những gì là bốn?
Một
là: Tàn hại hình dáng người và súc sanh.
Hai
là: Đối với Sa môn gìn giữ tịnh giới mà nổi sân hận chế giễu chê bai.
Ba
là: Tình nhiều tham dục, cố tâm phạm giới.
Bốn
là: Gần người phạm giới, lại khuyên người phạm.
Nếu
người nam nào trước làm điều này, sau khởi lòng tin tạo hình tượng Phật, mãi
đến thành Phật chẳng chịu báo đó, thường làm đàn ông các căn đầy đủ.
Di
Lặc! Có bốn thứ nghiệp hay khiến đàn ông chịu thân hai hình[57],
thấp hèn nhứt trong tất cả mọi người. Những gì là bốn?
Một
là: Loạn dâm nhơ nhớp ở chốn tôn nghiêm.
Hai
là: Với thân người nam mà đắm nhiễm bậy.
Ba
là: Chính tự nơi mình làm việc dâm dục.
Bốn
là: Mua bán nữ sắc cho những người khác.
Nếu
chúng sanh nào làm các việc ấy, rất tự trách lỗi, hối chỗ phạm trước, khởi lòng
tịnh tín tạo tượng Phật, mãi đến thành Phật, chẳng chịu thân ấy.
Di
Lặc! Lại có bốn duyên khiến những người nam, tâm họ thường sanh ái dục của nữ[58],
thích người với mình làm chuyện đàn ông. Thế nào là bốn?
Một
là: Hoặc ngờ, hoặc giỡn báng bổ người khác.
Hai
là: Ưa lối phục sức trang điểm của nữ.
Ba
là: Làm chuyên dâm nhơ với người nữ bà con.
Bốn
là: Thật không đức tốt, vọng nhận người lạy.
Do
nhân duyên này khiến những đàn ông khởi những phiền não khác biệt như thế. Nếu
như ăn năn những lỗi đã phạm, chẳng tạo lỗi mới, tâm sanh tin ưa tạo hình tượng
Phật, tội kia đã diệt tâm nọ cũng dứt.
Di
Lặc! Có năm thứ bỏn xẻn[59]
hay phá chúng sanh. Thế nào là năm?
Một
là: Xẻn tiếc thôn ấp, chỗ ỏ gần gũi. Do đây mà sanh ở chỗ đồng mông hiu quạnh.
Hai
là: Xẻn tiếc nhà cửa, hiên chái để ở, sẽ làm sâu cổ, hằng ở những chỗ phân tiểu
hôi nhơ.
Ba
là: Xẻn tiếc sắc đẹp đoan chánh, sẽ cảm hình xấu chẳng như ý muốn.
Bốn
là: Xẻn tiếc của cải sẵn có, sẽ bị nghèo nàn, áo cơm thiếu hụt.
Năm
là: Xẻn tiếc giáo pháp đã biết, sẽ mắc những quả báo súc sanh, đần độn.
Nếu
như ăn năn nghiệp trước của mình và tạo tượng Phật, thì sẽ lìa tâm bỏn xẻn
trước đó, không thọ những báo như đã nói trên!
Di
Lặc! Lại có năm duyên làm cho chúng sanh, sanh chỗ man di, ở chốn biên cương[60],
hoặc sanh thời kỳ không có Phật Pháp. Thế nào là năm?
Một
là: Chẳng sanh lòng tin trong sạch đối với ruộng lành Tam Bảo.
Hai
là: Trái với lẽ thật, lệch với chánh lý, mà vọng đi giáo giới.
Ba
là: Chẳng đúng lý thật mà dạy trao người.
Bốn
là: Phá hòa hợp Tăng khiến thành hai bộ.
Năm
là: Cho đến ít nhất phá hai Tỳ kheo khiến chẳng hòa hợp.
Dứt
hẳn nghiệp trên và tạo tượng Phật, sẽ thường gặp Phật, thường nghe pháp yếu.
Di
Lặc! Chúng sanh lại có năm thứ nhân duyên thường bị nhiều người chán ghét xua
đuổi, cả đến người thân cũng không ưa gặp[61].
Thế nào là năm?
Một
là: Nói lời hai lưỡi.
Hai
là: Nói lời hung ác.
Ba
là: Nhiều sự tranh chấp.
Bốn
là: Nhiều sự giận dỗi.
Năm
là: Giỏi nói bóng bẩy nhằm chê bai người.
Sau
nếu phát tâm tạo hình tượng Phật, ăn năn nghiệp cũ thề không tạo lại, tội của
người ấy đều được trừ diệt, được cả mọi người mến kính gần gũi. Tại sao vậy? Vì
chư Phật có vô lượng vô biên phước đức thù thắng, vô lượng vô biên trí tuệ rộng
lớn, vô lượng vô biên tam muội giải thoát[62],
đủ những pháp tánh công đức hiếm có.
–
Chư thiện nam tử! Giả sử có người đem một tam thiên đại thiên cõi nước nghiền
thành bụi nhỏ, lại nghiền bụi ấy, mỗi mỗi hạt bụi chia bằng con số bụi nhỏ
trong một đại thiên thế giới, những số hạt bụi được nghiền gia tăng bởi những
quốc độ một cõi đại thiên nhiều biết chừng nào. Giả như có người lấy hạt bụi
nghiền, dùng sức thần thông đi qua phương Đông, khoảng một sát na vượt qua cõi
nước nhiều như số bụi một cõi đại thiên đã được nghiền nhỏ (bằng một phần tỷ)
sát na thứ hai, sát na thứ ba lại cũng như vậy, người ấy đi mãi lâu đến số kiếp
như bụi đã nghiền, rồi bao sát na trong mỗi mỗi kiếp của mỗi sát na, đều lướt
qua khỏi cõi nước nhiều như số bụi được nghiền toàn cõi đại thiên, hết số cõi
ấy bèn bỏ một bụi. Người ấy trở lại lấy hột bụi khác, lại qua phương Đông hơn
số cõi đó bỏ một lần nữa, đến hạt thứ ba lại hơn lần trước, lần lượt như thế,
cứ gập bội lên, cho đến hết sạch số bụi đã nghiền.
Phương
Đông như thế, phương Nam, Tây, Bắc lại cũng như vậy. Những chỗ bốn phương người
nọ đi qua, tất cả cõi nước nghiền thành bụi hết. Những hạt bụi này tất cả chúng
sanh cùng nhau tính lường còn có thể biết, còn những công đức từng phần sợi
lông nơi thân Như Lai, chẳng thể biết được. Tại sao vậy?
Những
công đức mà chư Phật đã có, đều vô hạn lượng chẳng thể nghĩ bàn.
Các
thiện nam tử! Giả sử số người nhiều như bụi nhỏ vừa được nêu trên bằng Xá Lợi
Phật, bao nhiêu trí tuệ của những người đó, chẳng bằng một niệm trí của Như
Lai. Vì sao thế?
Bởi
vì Như Lai trong mỗi mỗi niệm, thường hay xuất hiện chánh định giải thoát, tổng
trì v.v…nhiều hơn số bụi được ví dụ trên, thứ nào cũng có vô lượng công đức
thù thắng vậy.
Công
đức thù thắng của các Đức Phật, tất cả Thanh Văn, tất cả Duyên Giác còn chẳng
thể biết danh tử để gọi! Thế nên người nào đức tin trong sạch tạo hình tượng
Phật, tất cả nghiệp chướng thứ nào cũng diệt, được những công đức vô lượng vô
biên, cho đến sẽ thành Vô thượng Bồ đề, nhổ hẳn khổ não cho khắp chúng sanh.
Đức
Phật nói kinh này rồi, Bồ Tát Di Lặc và Thiên Đế Thích, vua Ưu Đà Diên và cả
thế gian Trời, Người, Tu La, thần Càn thát bà được nghe Phật dạy, tất cả mừng
rỡ, tin nhận vâng làm.
HẾT
QUYỂN HẠ
Discussion about this post