KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 32)
Pháp
Sư Tịnh Không
“ĐIỀU
CHÚNG SANH, TUYÊN DIỆU LÝ, TRỮ CÔNG ĐỨC, THỊ PHƯỚC ĐIỀN, DĨ CHƯ PHÁP DƯỢC, CỨU
LIỆU TAM KHỔ”
Đoạn
kinh văn đại ý “bi trí liệu khổ”. Kinh Phật nói tam giới đều khổ, đó là
nói đến trời, nhân gian. Trong mấy năm gần đây, người hiện đại chúng ta cảm xúc
rất sâu sắc cái khổ của nhân gian. Trên trời cũng vậy. Kinh Phật cho biết có
hai mươi tám tầng trời, cũng rất khổ. Khổ vô lượng vô biên có thể được phân làm
ba loại lớn “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”.
“Khổ
khổ”, chữ khổ phía sau là danh từ, phía trước là động từ, ý nói quá nhiều
quá rộng. Phật quy nạp thành tám loại, gọi là tám khổ, mục đích thuyết minh nói
rõ khổ khổ. Trong đó có sanh lão bệnh tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tắng
hội, ngũ ấm xí thạnh. Tôi sẽ không nói tỉ mỉ vì mất nhiều thời gian. Ngoài tám
khổ giao nhau, còn có hoại khổ, đối với tất cả sắc tướng luôn biến hoại. Khi nó
tồn tại, chúng ta cảm thấy tốt đẹp, đến khi biến hoại liền cảm thấy rất khổ.
Sau cùng là hành khổ. Thí dụ như người thế gian thường nói “không thể trẻ
mãi”, đây thuộc về hành khổ. Sát na đang thay đổi, xê dịch đều thuộc về
hành khổ.
Phật
nói, trong dục giới có ba loại khổ này, rất khó vượt qua. Trời sắc giới không
có khổ khổ, vì khống chế được dục, nên gọi là “thiểu dục tri túc”. Họ có
trí tuệ, sức định, xả bỏ được tham ái hưởng thọ trong năm dục sáu trần, do đó
họ không có khổ khổ. Người trời sắc giới là hoá sanh, cho nên họ cũng không có
khổ sanh lão bệnh tử. Họ đều xả bỏ năm dục “tài, sắc, danh, thực, thuỳ”.
Trong khi đó, cõi dục giới là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh chiếm đại đa số.
Một
điều khiến chúng ta khó tưởng tượng. Chúng ta có thể xả tài, xả sắc, con người
vẫn chưa phải chết; danh có thể không cần, nhưng ăn thì không được. Có người
nào chịu nổi không ăn, không ngủ? Thế nhưng, các vị phải biết, người trời sắc
giới thiền định rất sâu, “thiền duyệt vi thực”. Cái ăn dùng để nuôi
thân, nhưng nuôi thân không cần phải có thức ăn, đó là thiền định. Thiền định
cũng là trạng thái tỉnh táo, không hôn trầm. Họ ở trong định năm dục, nhằm
chứng minh cho chúng ta họ đều có thể xả được. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta nên
tận khả năng hạ thấp lòng tham sân si xuống. Như thế mới tốt cho chính mình.
Không chỉ giúp đỡ việc tu học, giúp bạn khai trí tuệ, mà còn giúp thân thể bạn
khoẻ mạnh sống lâu, không dễ già yếu.
Định
huệ khởi lên tác dụng nhất định. Người sức định càng sâu, họ biết thân thể này
phiền phức, chính là sắc tướng. Người trời sắc giới có thân thể, tuy không khổ
khổ, nhưng họ có hoại khổ. Thân hình có ngày sẽ hoại đi. Hoàn cảnh lầu các cung
điện cũng sẽ hủy diệt. Cho nên họ có hoại khổ. Hoại khổ bắt nguồn từ đâu? Từ
thân. Vì có sắc tướng nên mới có hoại khổ. Người thông minh biết tiến thêm một
bước, tức không cần đến thân. Sắc tướng cũng xả bỏ, tiến vào vô sắc giới. Vô
sắc giới đương nhiên không có hoại khổ và khổ khổ, nhưng họ có hành khổ. Hành
khổ chính là cảnh giới tốt nhưng không thể vĩnh viễn giữ gìn. Đó là tầng cao
nhất trong tầng trời, không gì cao hơn. Họ không giữ gìn được thì liền phải
hướng xuống đọa lạc, đây gọi là hành khổ.
Phật
nói tam giới thảy đều khổ. Kinh Pháp Hoa hình dung ba cõi như nhà lửa. Bên
trong đã cháy thì không nơi nào an toàn. Chúng ta nhất định phải biết, trong
sáu cõi chỉ có khổ, không có vui. Bạn nói vui nhưng cái vui đó là cái khổ tạm
thời đình chỉ nên bạn cảm thấy vui. Kỳ thật đó là cái thấy sai lầm của bạn.
Phật thí dụ, con người mỗi ngày không thể ít đi ba buổi cơm. Ăn no ba bữa liền
cảm thấy an vui. Nếu một bữa không được ăn thì thấy rất khổ. Hai bữa không được
ăn sẽ càng khổ hơn, có thể thấy khổ là thật. Cái thân này có gì tốt, có gì vui?
Đã đến lúc phải trị. Không trị không được. Đây là chân tướng sự thật.
Cho
nên tỉ mỉ mà nghĩ, lời Phật nói mỗi câu đều chân thật. Phật xuất hiện ở thế
gian nhằm giáo hoá chúng sanh. Ngài vì việc này mà đến. Tám tướng thành đạo,
tướng thứ bảy là “chuyển pháp luân tướng” chính vì sự việc này. Đối
tượng giáo dục là tất cả chúng sanh sáu cõi, mở rộng hơn nữa là chúng sanh chín
pháp giới. Đoạn này nói lên nguyên tắc giáo học của ngài “điều chúng sanh,
tuyên diệu lý”.
“Điều
chúng sanh, tuyên diệu lý”
“Chúng
sanh” ở đây là tất cả chúng sanh hữu tình, thuộc về động vật có cảm tình.
Then chốt là chữ “điều”. Chúng sanh thân tâm không thể điều hòa. Bốn đại
không hoà, trên sinh lý bạn liền đau bệnh. Tâm lý không hòa, bạn liền ưu tư
phiền não. Cho nên nguyên tắc giáo học của Phật giúp chúng sanh cách điều tâm,
điều thân. Tiêu chuẩn của điều là pháp tắc tự nhiên. Nếu thuận theo pháp tắc tự
nhiên, thân tâm liền khoẻ mạnh. Pháp tắc của tự nhiên trong kinh Phật gọi là
pháp tánh, Phật tánh tương ưng với thể tánh, đó gọi là điều thuận. Trái với thể
tánh thì tất cả chúng sanh mê mất đi tự tánh. Cái tâm này là tư tưởng kiến giải
của bạn, hoàn toàn trái với pháp tắc của tự nhiên nên chiêu cảm đến tất cả khổ
nạn và những việc không vừa ý.
Pháp
tắc tự nhiên là gì? Kinh luận Phật nói rất nhiều, mọi người đều biết, thế nhưng
thân tâm bạn vẫn cứ trái ngược với pháp tắc nên bạn không được thọ dụng của
Phật pháp. Còn tương ưng với pháp tắc thì bạn liền được đại tự tại, liền có thọ
dụng chân thật, hạnh phúc viên mãn. Pháp tắc này nói với chúng ta “tướng có
thể không”. Nhà Phật nói “tướng có tánh không”. Tánh chính là thể. “Có”
không phải thật có. Bát Nhã Tâm Kinh mọi người ngày ngày đều đọc, “có”
gọi là diệu hữu, “không” gọi là chân không. “Diệu hữu phi hữu, chân
không bất không”, cho nên trước chữ “không” thêm một chữ “chân”.
Chân không ý nói tâm tánh của chúng ta. Tâm tánh biến hiện ra tướng, những
tướng này gọi là diệu hữu. Sum la vạn tượng, bao gồm chính thân thể của chúng
ta, bao gồm tất cả vạn tượng; cái vạn tượng này không thật.
Kinh
Kim Cang nói “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Hư vọng không thể nói
không có tướng. Tướng là hư vọng vì tướng không thể tồn tại vĩnh hằng. Không
chỉ tướng của mười pháp giới không thể tồn tại vĩnh hằng mà tướng của pháp giới
nhất chân cũng không thể tồn tại. Thế nhưng chúng ta thấy những hiện tượng này
vẫn tồn tại một khoảng thời gian, tướng tiếp nối tướng, như vậy mới hiểu rõ
chân tướng sự thật. Nếu hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta sẽ không phân biệt
đối với tướng, sẽ không chấp trước, vì nó là giả, mộng huyễn bào ảnh. Còn nếu
bạn phân biệt thì bạn vọng tưởng, nếu chấp trước thì phiền não. Vọng tưởng
phiền não do tự làm tự chịu.
Kinh
Hoa Nghiêm nói, tất cả hiện tượng tồn tại thời gian “khoảng sát na”.
Kinh Nhân Vương nói, một khảy móng tay sáu mươi sát na. Một sát na có chín trăm
lần sanh diệt, thời gian rất ngắn. Cũng như phim ảnh, trong máy chiếu là phim
gốc, một giây đầu ống kính đóng mở hai mươi bốn lần. Trong một giây chiếu ra
hai mươi bốn tấm. Phim gốc đó liên tục tướng tiếp nối tướng, chúng ta xem thấy
như thật. Phật dùng cách nói này trên kinh Nhân Vương, “cái khảy móng tay
của người khỏe mạnh”. Thân thể của đại lực sĩ rất khỏe mạnh nên khảy rất
nhanh, một giây có thể khảy bốn lần. Bốn khảy móng tay nhân sáu mươi sát na,
lại nhân tiếp cho chín trăm lần sanh diệt. Vậy tổng cộng có đến hai trăm mười
sáu ngàn lần sanh diệt. Trên phim ảnh, một giây có hai mươi bốn tấm phim gốc đã
có thể lừa được bạn. Bạn liền cho đó là thật. Nhưng nếu một giây là hai trăm
mười sáu ngàn tấm thì làm sao bạn biết nó là giả?
Kinh
Nhân Vương phương tiện nói. Các vị tỉ mỉ tư duy mới hiểu được lời Phật, mới thể
hội phần nào câu “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương cũng
như chớp”. “Hoa Nghiêm phẩm thập định” nói rõ ràng hơn, một sát na
không chỉ chín trăm lần sanh diệt. Chúng ta đọc kinh Nhân Vương thấy rõ việc
này. Phật Thích Ca Mâu Ni phương tiện nói, không phải nói chân thật. Nếu nói
chân thật thì tốc độ còn nhanh hơn gấp nhiều lần. Phật nói rõ chân tướng sự
thật của vũ trụ hiện tượng, sát na sanh diệt, Phật cũng đem hiện tượng này gọi
là “bất sanh bất diệt”. Vì sao Phật nói tất cả sanh diệt của pháp tướng
là bất sanh bất diệt? Vì tốc độ sanh diệt của nó quá nhanh, sanh diệt gần như
đồng thời, cho nên gọi bất sanh bất diệt. Đó là ý nghĩa Phật nói pháp.
Chúng
ta “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, nghĩ xem làm gì có pháp tướng
tồn tại? Mười pháp giới y chánh trang nghiêm, bao gồm sáu cõi ba đường, căn bản
không thể tồn tại, chân thật là mộng huyễn bào ảnh. Ấy thế mà tất cả chúng sanh
mê ngay cảnh giới này, cho cảnh giới này là thật có. Từ đấy khởi lên vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Thế là đem hiện tượng sát na sanh diệt chuyển
biến. Cái tướng đó là sát na sanh diệt, sát na chuyển biến. Vậy dùng sức mạnh
gì để chuyển biến hiện tượng này? Dùng ý niệm, chính là vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước. Ý niệm của bạn thiện, chuyển biến là cảnh giới thiện; ý niệm ác,
chuyển biến là cảnh giới ác.
Do
đây có thể biết thiên đường là do ý niệm biến ra, địa ngục cũng là do ý niệm
biến ra, hiểu rõ học vấn trong cái đạo lý này thật to lớn, quan trọng nhất là
điều tâm. Thân không phải lo vì thân là tùy tâm, tùy ý niệm mà biến hiện. Chúng
ta phải chú trọng điều năng biến. Năng biến tương ưng với pháp tắc tự nhiên.
Còn sở biến không quan trọng, sở biến thuận lý thành chương liền biến thành thế
giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng, thành khu vườn tốt đẹp thế gian, người người
sinh hoạt đều hạnh phúc tràn đầy. Làm được hay không tùy thuộc bạn hiểu đạo lý
trong đó, hiểu được cảnh giới diễn biến như thế nào?
Cho
nên khi Phật dạy chúng ta, thực tế ngài đem thế giới Hoa Tạng, thế giới Cực Lạc
phổ cập đến tất cả thế gian, khiến tất cả thế gian đều biến thành thế giới Cực
Lạc, thế giới Hoa Tạng. Cách biến thế nào? Trước hết phải điều tâm. Thế giới
Tây Phương Cực Lạc tốt đẹp đến như vậy vì lòng người ở đó tốt, kinh nói “các
bậc thượng nhân cùng ở một nơi”. Nếu thế gian này của chúng ta, mỗi người
đều là thượng thiện thì hoàn cảnh y báo của chúng ta ngày nay nhất định giống
thế giới Cực Lạc. Tương tự, vì sao thế giới Hoa Tạng tốt đẹp đến như vậy? Vì
người trong thế giới Hoa Tạng, mỗi mỗi đã đoạn kiến tư phiền não, trần sa phiền
não; phá được mấy phẩm vô minh, cho nên thế giới đó tốt đẹp.
Còn
thế giới ngày nay của chúng ta vì sao không tốt? Tất cả chúng sanh tư tưởng
kiến giải, lời nói tạo tác hoàn toàn trái ngược pháp tắc tự nhiên. Trong lòng
nghĩ ra liền trái với pháp tắc tự nhiên, nên gọi là tà tri tà kiến, tạo mười ác
nghiệp. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã nói, “chúng sanh Diêm Phù Đề khởi
tâm động niệm đều là tội”. Tội nghiệp biến ra hoàn cảnh hiện tiền của chúng
ta. Đặc biệt một hai năm gần đây, thiên tai nhân họa ở đâu cũng có. Một số đồng
tu đến hỏi tôi, liệu có thể tránh khỏi hay không? Tôi nói không cách gì tránh
khỏi.
Nếu
các vị muốn di dân, tìm một khu vực nào trên thế giới không bị tai nạn, thì tôi
cũng xin nói, không hề có. Nơi nào con người không có tham sân si thì nơi đó
chính là đất phước. Vậy bạn tìm thử xem, có nơi nào mà con người không tham sân
si? Có nơi nào mà con người không tạo ác nghiệp? Bạn tìm được nơi này thì tốt.
Chúng ta đều biết trên địa cầu không hề có, nên không thể tìm ra. Nhưng thế
giới Tây Phương Cực Lạc lại có. Vì vậy, người niệm Phật, người học Phật là
người sáng suốt.
Họ
không sợ tai nạn, họ có thể tránh khỏi tai nạn. Tránh khỏi không phải tránh
thân thể này không bị nạn. Thân gặp nạn hay không cũng không hề gì, vì thân
không thể thường trụ trước sanh lão bệnh tử, việc này chúng ta phải triệt để
giác ngộ. Tai nạn đến, chúng ta thấy rất bình thường, không chút lạ kỳ. Nghiệp
nhân quả báo ngõ ngách ngọn nguồn, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo thì
bạn còn gì mà khẩn trương. Cho nên ở cảnh giới này, đại nạn đến đầu cũng không
khiếp sợ. Tâm định, tâm thanh tịnh thì bất luận tai nạn thế nào cũng có thể
tiếp nhận. Thân thể bị hủy diệt trong tai nạn, nhưng tinh thần, Phật pháp gọi
là “thần thức”, thế pháp gọi là “linh hồn” đi tìm một thân thể
khác. Đó không phải là chết.
Thân
thể chúng ta có sanh diệt. Trong sanh diệt vẫn có cái “ta” không sanh
diệt. Nói cách khác, thân này của ta sanh diệt nhưng thân không phải là ta. Nếu
bạn nhận biết thần thức linh hồn là ta, thân không phải là ta thì coi như bạn
đã nâng cao cảnh giới của chính mình. Thân chỉ là sở hữu của ta, cũng giống như
mặc quần áo. Quần áo cũ rách, bạn sẽ đổi một bộ mới. Thân này hoại thì ta bỏ nó
đi, lại đổi một thân khác. Bạn chân thật có chút công phu, không cần rất cao,
bạn liền sanh tử tự tại. Sanh tử tự tại là xả thân thọ thân, giống như lột bỏ
quần áo thay bộ quần áo khác. Người thế gian không biết sự việc này, thay quần
áo nhưng lại cảm thấy khổ. Đặc biệt trẻ con, bảo nó đổi một bộ khác rất khó. Nó
chạy đông chạy tây, không cam tâm, cảm thấy như cực hình. Còn người lớn thì
không như vậy. Quần áo dơ phải giặt. Kiểu dáng không thích hợp thì đổi kiểu
mới. Họ an vui xả thân thọ thân.
Học
Phật công phu xem sanh tử như thay bộ quần áo, không chút đau khổ, khẩn trương,
khiếp sợ. Người như vậy xả thân thọ thân, khi thọ thân khác nhất định tốt đẹp
hơn nhiều so với thân thể cũ, đó là thiện báo. Nếu khi xả thân, cảm thấy hoang
mang, khiếp sợ, thì bạn sẽ đổi một thân khác xấu đi, đó là thân súc sanh, thân
ngạ quỷ, khó có thể quay lại, giống như bạn bị thay đổi quần áo rách nát, khó
coi. Học Phật có thể được chút thọ dụng này. Đây là thọ dụng nhỏ trong Phật
pháp, không phải thọ dụng lớn. Vì sao? Bạn nhận biết thần thức là “ta”,
nhưng thần thức vẫn không phải là ta. Chân thật ta chính là pháp tánh, thiền
tông gọi là “minh tâm kiến tánh”. Kiến tánh thấy được chân ngã, tông môn
gọi là “mặt mũi trước khi cha mẹ sanh ra”. Bạn nhận định thần thức là
ta, không nhận cái thân này là ta thì bạn có thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi,
nhưng không rời khỏi sáu cõi luân hồi. Bạn nhất định được hưởng phước trời,
sanh lên trên cõi trời. Cao minh hơn thì siêu việt sáu cõi, nâng cao lên pháp
giới của thanh văn, duyên giác, Bồ tát. Trong mười pháp giới, pháp giới bốn
thánh là không gian sinh hoạt của bạn, thù thắng hơn nhiều so với sáu cõi.
Nếu
bạn biết thần thức vẫn không phải là ta, vẫn là giả, tự tánh mới là ta, vậy thì
công đức của bạn liền viên mãn. Bạn liền siêu việt mười pháp giới, đi đến thế
giới Hoa Tạng, thân cận Tỳ Lô Giá Na Phật, làm bạn với bốn mươi mốt vị pháp
thân đại sĩ; hoặc vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vĩnh viễn siêu
việt mười pháp giới. Đó là chân tướng sự thật. Phật xuất hiện ở thế gian muốn
nói cho chúng ta nghe sự việc này, chân thật có thể “điều chúng sanh”.
Cho nên chúng ta học Phật, hiện tại quan trọng nhất phải tu “tâm thanh tịnh”.
Đề
kinh của kinh Vô Lượng Thọ đưa ra nguyên tắc tu học: thanh tịnh, bình đẳng,
giác. Ba nguyên tắc này nhắc chúng ta mọi nơi mọi lúc đối nhân xử thế tiếp vật,
phải tu tâm thanh tịnh. Tất cả mọi người không nhiễm ô tâm tánh. Nếu trong đối
xử mọi người, thuận với chính mình thì khởi ý niệm thương yêu, không thuận với
chính mình thì sanh sân hận, đố kỵ, như vậy tâm của bạn bị ô nhiễm, không thanh
tịnh. Cho nên tu hành là tu ở ngay đây, khi tất cả cảnh giới hiện tiền phải rõ
ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm, bạn
mới có được công phu chân thật. Hay nói cách khác, cảnh giới trước mắt rõ ràng
tường tận, thông suốt thấu đáo, đó là huệ. Trong lòng như như bất động, không
phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm không động niệm, đó là công phu.
Chúng
ta tu hành phải tu trong hoàn cảnh nhân sự, trong hoàn cảnh vật chất. Mỗi ngày
sáu căn tiếp xúc tất cả người, vật, việc, ý niệm vừa khởi lên, cho dù niệm
thiện hay ác đều là ô nhiễm. Ác niệm là ô nhiễm, thiện niệm cũng là ô nhiễm,
nên khi ý niệm vừa khởi lên, câu “A Di Đà Phật” làm cho ý niệm này lắng
xuống. Đó là phương pháp của Tịnh tông chúng ta dùng. Một câu Phật hiệu làm cho
ý niệm lắng xuống, hoá giải hết ý niệm, tất cả vọng niệm thảy đều qui về câu A
Di Đà Phật, đức hiệu trong tự tánh của chúng ta. A Di Đà Phật chính là chân như
bổn tánh của chúng ta, đó là một câu Phạn ngữ, dịch sang ý nghĩa Trung Quốc là
“Vô lượng giác”. Tất cả đều quy về vô lượng giác. Danh hiệu đạo sư của
thế giới Tây Phương Cực Lạc là A Di Đà Phật, cho nên kinh Phật thường nói “tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”, đó là từ trên tâm tánh mà nói.
Bạn
phải biết niệm câu Phật hiệu này, đem tất cả ý niệm của bạn chuyển biến thành A
Di Đà Phật. Trong tâm bạn, ngoài câu A Di Đà Phật, không có bất cứ tạp niệm
nào. Có như thế tâm thanh tịnh của bạn mới hiện tiền, kinh Di Đà nói “Nhất
tâm bất loạn”. “Niệm Phật tam muội”, “tam muội” là tiếng
Phạn, ý nghĩa là “chánh thọ”, hưởng thụ bình thường. Ngày nay chúng ta
hưởng thụ không bình thường. Còn hưởng thụ bình thường là vô niệm, “niệm mà
không niệm, không niệm mà niệm”, đó là hưởng thụ bình thường.
Cho
nên tông chỉ giáo hoá chúng sanh của Phật, mục đích chính nhằm “điều chúng
sanh tuyên diệu lý”. Diệu lý là chân tướng sự thật, cũng là “thật tướng
các pháp”, chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Phật vì chúng ta nói rõ sự việc
này để chúng ta hiểu rõ. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải chính mình
khế nhập cảnh giới này, tự lợi công đức. Tuy nhiên, thế gian vẫn còn rất nhiều
chúng sanh chưa giác ngộ, chúng ta không thể không quan tâm, Phật pháp gọi là “tự
cho mình cao”. Phật không tán thán những người như vậy. Bạn tự độ, còn phải
giúp đỡ người khác, đó là Bồ tát.
“Trữ
công đức, thị phước điền”
Muốn
hoá tha cần phải tự độ. Đối với chân tướng sư thật, bạn không thấu triệt, không
hiểu rõ; tà kiến, phiền não, tập khí của chính mình chưa đoạn dứt thì làm sao
có thể giúp người khác. Trên thực tế, chúng ta cũng từng thấy việc mượn danh để
tư lợi, giả mượn Phật pháp tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, thỏa mãn dục
vọng của riêng mình. Họ có thể nói khéo léo, giảng kinh có đầu có đuôi, cũng
xây dựng đạo tràng trang nghiêm, cũng có không ít đồ chúng tu hành theo, thế
nhưng những gì họ làm hoàn toàn trái ngược Phật pháp, vẫn cứ danh vọng lợi
dưỡng, vẫn phải quấy nhân ngã, vẫn mỗi niệm xem nặng được mất.
Vì
sao có lỗi lầm này? Vì họ không làm được hai câu trên, cho nên công đức liền
biến thành phước đức, thậm chí công đức phước đức còn biến thành tội lỗi. Họ
khuyên bảo mọi người tu phước, cùng xả tài tu phước. Khi mọi người xả tài, còn
họ thì đựng đầy trong túi, phục vụ chính mình. Người xưa không như vậy. Người
xưa hiểu xây dựng đạo tràng trang nghiêm, không phải chính mình hưởng thụ. Các
vị tỉ mỉ quan sát những tòng lâm được xây dựng vào thời xưa, phòng ốc của trụ
trì và chấp sự rất thô sơ. Do đây có thể biết đại chúng cúng dường để tu phước,
nhưng chính họ không hưởng. Nói cách khác, ăn mặc ngủ nghỉ của họ không hề thay
đổi. Đó là rõ lý, không tạo tội nghiệp.
Hiện
tại khi mọi người quyên mộ nhiều tiền, xây dựng đạo tràng lớn, trước tiên
thường bố trí rất đẹp hoàn cảnh cư trú của chính mình, như vậy là tạo tội
nghiệp. Xây dựng đạo tràng để có nơi làm đạo, nơi cúng cho chúng, không phải
cúng dường chính mình. Nhà Phật từng nói “một hạt gạo của thí chủ nặng như
núi Tu Di. Đời nay không liễu đạo, mang lông đội sừng để trả”. Lời nói này
là thật, không phải giả. Bạn làm gì có phước báu lớn đến vậy, có thể hưởng thọ
mười phương chúng sanh cúng dường. Chỉ có Phật và đại Bồ tát mới có phước báu
này. Người mê hoặc điên đảo, hưởng phước báu không được vài năm, khi chết đều
mơ mơ hồ hồ mà chết, chết rồi đi đâu? Tương lai vẫn không tránh khỏi phải trả
nợ.
Cho
nên Phật dạy chúng ta “trữ công đức”, không phải phước đức. Trong công
đức có phước đức, nhưng trong phước đức chưa chắc có công đức. Công đức do tu
công mà có. Thí dụ chúng ta trì giới có công, bạn liền được định, định chính là
đức. Tu định có công, trí tuệ khai, khai huệ là đức. Do đây mà biết, công là tu
nhân, đức là quả báo. Tu nhân được quả là đạo lý nhất định. Chúng ta phải trữ
công đức, tích công bồi đức.
Làm
thế nào để giữ được công đức? Chữ “trữ” này rất quan trọng. Trữ là tồn
trữ, lưu kho, công đức của bạn mới có thể tích lũy. Nhà Phật nói: “lửa thiêu
rừng công đức”. Công đức rất khó tồn trữ. Chỉ một đám lửa thì cháy sạch, đó
là lửa sân hận. Vừa khởi tức giận, công đức đều hết. Bạn phải biết, cả đời này
tu hành trữ được bao nhiêu công đức. Sau đó bạn nghĩ lại xem mình không khởi
tức giận bắt đầu từ lúc nào. Nếu sáng sớm nay khởi lên một cơn giận chỉ có mấy
giờ đồng hồ, công đức của đời quá khứ và đời này đã tu thảy đều cháy sạch,
không còn gì cả.
Người
hiện tại nói đến công đức, thực ra đều hữu danh vô thực. Có cái tên của công
đức, tu tên của công đức nhưng không tu công đức thật. Khi trong lòng không vui
thì công đức hết. Phải biết thế gian yêu ma quỷ quái rất nhiều. Chúng chỉ sợ
bạn tích công bồi đức nên thị hiện vô số cảnh giới, vô số nhân duyên nhằm phá
hoại công đức của bạn. Thế nhưng bản thân họ không có năng lực phá hoại công
đức của bạn, thậm chí bất cứ người nào cũng đều không cách gì phá hoại công đức
của bạn được. Chỉ có chính mình phá hoại chính mình. Họ thúc đẩy bạn, khiến bạn
khởi tức giận, khởi tâm sân hận. Nếu bạn nghe lời, quả nhiên khởi tức giận,
khởi tâm sân hận thì coi như bạn đem công đức của mình thiêu hết sạch. Ma ở nơi
đó liền vỗ tay vui mừng.
Chúng
ta hiểu rõ đạo lý thì nhất định phải đề cao cảnh giác. Tất cả thuận cảnh không
sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không khởi tâm sân hận thì công đức của bạn mới
có thể giữ được. Phía trước hàng ma, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cho chúng ta
xem, “dĩ định huệ lực, hàng phục ma oán”. Nếu bạn không có định, không
có huệ, thì công đức của bạn không thể giữ được. Ở trong cảnh giới thường hay
khởi tâm động niệm, tâm tùy theo cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, đó là tâm
luân hồi tạo nghiệp luân hồi, tương lai chịu báo luân hồi. Cho nên chúng ta
trong cuộc sống thường ngày phải rèn luyện. Rèn luyện chính là tu hành.
Ngày
trước sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, dễ bị cảnh giới bên
ngoài xoay chuyển. Xem thấy ưa thích, chúng ta khởi lên tâm hoan hỉ, xem thấy
không ưa thích chúng ta khởi tâm ghét bỏ, vậy là sai, phải tu sửa lại. Tu sửa
thế nào? Thuận cảnh không sanh tâm hoan hỉ, nghịch cảnh không sanh tâm áo não,
đó gọi là tu hành. Tu hành không phải mỗi ngày tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật,
tất cả chỉ là hình thức. Tu hành phải chân thật hữu dụng, phải dùng được ngay
trong đời sống, đối diện với tất cả mọi người, mọi vật, mọi việc thật khởi lên
tác dụng, không còn bị cảnh giới này xoay chuyển, mới gọi là có công phu. Bạn ở
niệm Phật đường niệm Phật mỗi ngày mười vạn danh hiệu Phật. Khi đối diện với
cảnh giới, tâm còn bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, vậy thì như người xưa
nói, “đau mồm rát họng chỉ uổng công”, bạn không có công phu, hoặc công
phu của bạn là giả, không phải thật.
Công
phu phải trải qua sự khảo nghiệm, cùng ở với mọi người, cùng giao lưu với chúng
sanh, cũng phải có biểu lộ. Nếu biểu lộ trên mặt giống tượng thần điêu khắc thì
có thể hù chết người trong xã hội. Giao lưu với tất cả chúng sanh, tuy biểu
hiện hỉ, nộ, ai, lạc nhưng phải là biểu diễn, không phải thật. Bên trong thanh
tịnh vô nhiễm, như Vĩnh Gia từng nói “phân biệt diệc phi ý”. Ứng dụng
ngay trong cuộc sống thường ngày phải hoạt bát, hiển thị Phật pháp đáng quý,
viên dung, thọ dụng chân thật. Từng li từng tí không ô nhiễm, có định huệ. Đây
gọi là công phu, bạn chân thật là trữ được công đức.
“Thị
phước điền”. Bạn còn phải tu phước. Tu phước quyết không phải vì chính mình
mà vì chúng sanh. Không có phước báu làm sao độ chúng sanh. Cho nên thành Phật,
Phật gọi là “nhị túc tôn”, túc đầy đủ, viên mãn. Nhị là hai loại, trí
tuệ viên mãn và phước đức viên mãn.
Phật
biểu thị phước đức viên mãn. Có phước lớn mới có thể cho tất cả chúng sanh
hưởng phước. Ngày nay chúng ta ngồi ở đạo tràng này hai giờ đồng hồ là hưởng
phước báu của chư Phật. Mười phương chúng sanh xả tài, xả lao lực để được phước
báu này cho chúng ta cùng hưởng. Chúng ta cũng phải học tập, có phước nhất định
phải cho mọi người cùng hưởng, không nên hưởng riêng mình. Hưởng riêng là tạo
nghiệp, còn cho mọi người hưởng gọi là tu phước.
“Thị”
chỉ ra những gì là phước điền. Có rất nhiều phước điền. Nói cách khác, cơ duyên
tu phước quá rộng. Nhà Phật phước điền vô lượng, quy nạp thành ba loại lớn.
Loại
thứ nhất gọi là “Bi điền”, từ bi, lân mẫn. Tất cả chúng sanh trong mười
pháp giới đều bần cùng khổ nạn, không phải chỉ người không có cơm ăn áo mặc, mà
cả những người có phước báu, ở nơi phòng ốc rất tốt, đời sống dư giả. Loại
người này không nghèo cùng nhưng cũng chẳng khác người không có cơm ăn áo mặc.
Vậy họ nghèo ở chỗ nào? Nghèo cùng ở trí tuệ. Đời sống vật chất của họ có thể
trải qua nhưng đời sống tinh thần rất khổ. Cho nên nghèo cùng có loại nghèo về
vật chất, và nghèo về tinh thần, nghèo về đạo nghiệp, hay nghèo trí tuệ. Phạm
vi nghèo cũng quá rộng lớn. Chúng ta chỉ mới so sánh năng lực kỹ thuật với người
khác rồi cho rằng nghèo cùng hay lạc hậu nhưng không biết phạm vi sâu rộng vô
hạn của nghèo cùng. Bồ Tát thấy điều đó. Các ngài đại từ đại bi giúp đỡ chúng
ta trồng phước. Phương pháp trồng phước điền cũng rất nhiều. Bạn phải có trí
tuệ, mỗi giờ đều là giờ để tu phước, nơi nơi đều là chỗ để tu phước. Hiện tại
người thế gian nghèo cùng, việc này người căn tánh trung hạ đều có thể quan sát
rõ ràng. Chính mình phải biết làm thế nào cứu giúp chúng sanh khổ nạn nghèo
cùng của thế giới.
(Còn
tiếp …)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp
sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên
dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Discussion about this post