KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 22)
Pháp
Sư Tịnh Không
Tam
phước
Những
gì là phương hướng? Thế Tôn trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã giảng cho
chúng ta nghe ba loại tịnh nghiệp, đó chính là phương hướng, là mục tiêu. Cho
nên chúng ta học Phật phải bắt đầu từ chú giải của Đại Sư Thiện Đạo, đã đặc
biệt vì chúng ta nhấn mạnh việc tu từ tam phước.
Điều
thứ nhất của tam phước là phước báu nhân thiên
Có
bốn câu:
Ÿ
Câu thứ nhất, “Hiếu thuận cha mẹ”
Người
học Phật chúng ta nếu ngay cả làm người tốt mà không được thì làm Phật Bồ tát
nhất định không có phần. Muốn học làm Bồ tát, học làm Phật, thì trước tiên phải
làm người tốt. Đại sư Ấn Quang đã đề xướng “Giữ tâm tốt, làm việc tốt, nói
lời hay, làm người tốt”, chúng ta đem giáo huấn của tổ sư phổ biến rộng
lớn.
Thứ
nhất, phải hiếu thuận cha mẹ. Bốn câu trong kinh nói “hiếu dưỡng cha mẹ”,
từ “dưỡng” này không chỉ phải dưỡng cái thân cha mẹ, chăm sóc đi đứng
đời sống tuổi già của cha mẹ. Dù đời sống đi đứng được chăm sóc chu đáo nhưng
nếu cha mẹ thường hay lo buồn, vậy chúng ta vẫn là bất hiếu, chưa thể tận được
hiếu. Cha mẹ thường lo buồn điều gì? Đại khái họ rất khó xả con cháu. Con cái
càng nhiều, càng bất hoà thì họ càng lo lắng. Do đó phải dưỡng cái tâm của cha
mẹ để cha mẹ không lo buồn, ngược lại hoan hỉ vui vẻ trải qua ngày tháng gần
cuối cuộc đời. Việc này không dễ, không những gia đình hài hoà, thân tộc hòa thuận,
mà ra xã hội, bè bạn hoà kính; đi học ở trường, tôn trọng lão sư, hoà thuận với
các đồng học, hữu ái đồng học; làm việc trong xã hội, tôn trọng lãnh đạo, hòa
thuận đồng liêu, có như vậy cha mẹ của bạn mới có thể an lòng.
Trung
Quốc thời xưa, những người làm đế vương, vì quốc gia, vì địa phương chọn ra
nhân tài lãnh đạo, họ thường đề bạt người thế nào? Đó là những hiếu tử, nên gọi
là “Trung thần xuất thân từ hiếu tử”. Họ ở nhà có thể tận hiếu, khi được
tuyển chọn thì họ tự nhiên liền có thể tận trung với tổ quốc. Trung hiếu là một
thể, trong đó không có giới hạn. Người thế gian nói hiếu, nhà Nho nói hiếu, Đạo
gia nói hiếu, đại khái có thể nói rất viên mãn. Thế nhưng trong nhà Phật nói
hiếu thì vẫn chưa được. Nếu dùng tiêu chuẩn của nhà Phật thì bạn chỉ mới làm
được một phần mười, vẫn còn chín phần mười chưa làm được, mặc dù một phần mười
đối với người thế gian đã là rất viên mãn.
Một
gương đại hiếu trong lịch sử Trung Quốc là vua Thuấn. Việc dưỡng cái thân và
cái tâm của cha mẹ, ông thật đều làm được một cách viên mãn, không chỉ người
thời đó tán thán mà người đời sau chúng ta xem thấy ghi chép này, tâm cung kính
tự nhiên liền sanh khởi. Vì sao Phật pháp nói bạn chưa tận được hiếu? Vì Phật
pháp hiểu rõ tường tận, sinh mạng là vĩnh hằng, không phải một đời. Nó có đời
quá khứ, đời vị lai. Nếu bạn để cha mẹ bạn cứ ở trong sáu cõi luân hồi thì bạn
đại bất hiếu. Phải làm thế nào giúp cha mẹ thoát khỏi sáu cõi luân hồi? Trước
tiên chính mình phải thoát khỏi sáu cõi luân hồi, bạn mới có thể giúp đỡ cha
mẹ, mới có thể giúp đỡ thân bằng quyến thuộc. Nếu chính bạn còn không thể thoát
khỏi sáu cõi luân hồi, thì chữ hiếu trong nhà Phật, bạn còn kém quá xa.
Điểm
này chính là nói đến việc phải “dưỡng cái chí của cha mẹ”, ý nghĩa rất
sâu rộng. Con cái có thể làm Phật Bồ tát thì việc hiếu đối với cha mẹ mới được
xem là viên mãn. Nếu lấy tiêu chuẩn của nhà Phật mà nói, nhất định phải chứng
được quả Phật viên mãn thì chữ hiếu mới làm đến được viên mãn. Bồ Tát Đẳng giác
vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, hiếu đạo còn kém khuyết một phần,
chưa viên mãn. Cho nên nhà Phật cùng nhà Nho nói hiếu, trên cảnh giới có chỗ
không giống nhau. Thế nhưng Nho cùng Phật, từ học thuyết, tu trì, cho đến giáo
học đều lấy hiếu làm căn bản, đều kiến lập trên nền tảng của hiếu đạo, đó là điểm
giống nhau, còn cảnh giới thì không giống nhau.
Ÿ
Câu thứ hai, “Phụng sự sư trưởng”
Sư
đạo cũng được xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo. Người học Phật chúng ta cung
kính lạy Phật mỗi ngày, nhưng không cung kính đối với cha mẹ, cho nên bạn có
học Phật cũng không thành. Các vị thử tỉ mỉ mà nghĩ tưởng xem, bạn học Phật
được mấy mươi năm mà vẫn cứ là một phàm phu, chưa vào được cảnh giới của Phật
do nguyên nhân gì? Bạn vừa mở đầu đã sai. Cha mẹ ở nhà là hai vị Phật sống
nhưng bạn không lạy, lại đi lạy Phật tượng gỗ xi măng mỗi ngày, bạn làm sao có
thể thành tựu? Điều này không phải tôi dạy bạn, mà là Thế Tôn dạy chúng ta.
Cha
mẹ ở tại nhà là hai vị Phật sống, tuy không cần mỗi ngày sáng sớm thức dậy
hướng đến cha mẹ dập đầu ba lạy, cha mẹ cũng không hy vọng bạn làm như vậy,
nhưng cái tâm cung kính hiếu thuận đối với Phật như thế nào, nhất định phải đối
với cha mẹ y như vậy. Người học Phật chúng ta mỗi ngày đều tụng khoá sớm, trước
phải lễ Phật, sau đó tụng kinh, niệm Phật, tam quy, hồi hướng. Sau khi làm rồi,
chúng ta cũng phải đem một bộ dùng ngay trong đời sống hôm nay. Ngoài cha mẹ
ra, coi tất cả chúng sanh đều là Phật, thì vào được cảnh giới “Hoa Nghiêm”.
Phật dạy chúng ta phải đặt cha mẹ ở ngôi thứ nhất, Phật là thầy giáo nên đặt ở
ngôi thứ hai. Hiện tại chúng ta xem thấy rất nhiều gia đình, cha mẹ phản đối
con cái học Phật, có đạo lý hay không? Có. Vì cha mẹ thấy con cái xem trọng
pháp sư là sư phụ, biết cúi đầu kính lễ, cung kính cúng dường sư phụ, trong khi
cha mẹ muốn mua một ít đồ thì con cái lại khó khăn, sắc mặt cũng không vui vẻ.
Người làm cha mẹ liền nghĩ, nó coi trọng, thân thích với người ngoài chẳng đoái
hoài ân dưỡng dục của cha mẹ cho nên từ đó cha mẹ không ủng hộ con cái học
Phật. Cha mẹ có thể nghĩ, hòa thượng ở bên ngoài đó căn bản không có liên quan
gì với bạn, nói ra vài câu lừa dối bạn thì bạn liền tin tưởng, như vậy làm sao
cha mẹ không cảm thấy đau lòng, làm sao cha mẹ bằng lòng để con cái đi học
Phật?
Cho
nên cha mẹ không hề sai, sai ở pháp sư không dạy, nên con cái không hiểu
chuyện, không hiểu Phật pháp. Mỗi ngày bạn cung kính đối với cha mẹ, mỗi ngày
cúng dường bao đỏ, cha mẹ nhất định sẽ khen ngợi: “Con cái tôi học Phật thật
đúng”, họ sẽ liền khuyên mọi người học Phật. Mỗi ngày cúng dường cha mẹ bao
đỏ là đúng, không cần phải nhiều, chỉ cần hai ba đồng trong bao đỏ là được.
Không quên cúng dường như vậy thì bạn chính là “Tuân tu Phổ Hiền Đại sĩ chi
đức”, bạn chính là “Cụ túc vô lượng hạnh nguyện”. Bạn học rồi mà
không chịu làm thì không còn cách nào. Nếu chưa làm thì bắt đầu từ sáng mai
phải làm. Các vị không nên chỉ nghe suông kinh này mà phải nỗ lực làm, làm cho
người trong gia đình đều sanh tâm hoan hỉ. Bạn học Phật khiến người cả nhà đều
hoan hỉ, đều học Phật theo, sau đó bạn mới có thể khuyên cha mẹ niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Đó là đại hiếu. Đến khi “Phụng sự sư trưởng”, cha mẹ bạn
sẽ không phản đối bạn bái lão sư hay đi học Phật.
Là
lão sư cũng phải cố gắng dạy bảo bạn làm thế nào hiếu dưỡng cha mẹ, làm thế nào
thương yêu anh em, cùng xã hội đại chúng hoà thuận hợp tác lẫn nhau, giúp xã
hội phồn vinh, hưng vượng và an định, đó là giáo học. Vị lão sư như thế rất
đáng được chúng ta tôn kính, học tập.
Ÿ
Câu thứ ba, “Từ tâm bất sát”
Sau
đó chúng ta lại mở rộng tâm lượng ra, đó chính là pháp môn của Bồ Tát Quán Âm.
Các vị nên biết, “Hiếu thân tôn sư” phía trước là pháp môn Địa Tạng, đổi
tốt tâm địa của chúng ta trong tư tưởng hành vi. Khi vừa nâng lên là pháp môn
Quán Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm đại từ đại bi, “Từ tâm bất sát”, pháp môn
của ngài mở rộng và bồi dưỡng tâm từ bi của bạn. Từ bi chính là thương yêu. Mọi
người đều biết Kito giáo nói “bác ái”, kỳ thực hai chữ “bác ái”
này là trong kinh Phật, cụ thể ngay bộ kinh Vô Lượng Thọ này của chúng ta. Lịch
sử của chúng ta sớm hơn Kito giáo ít nhất hơn 5000 năm theo cách nói của phương
Tây. Nếu lấy ghi chép của lịch sử Trung Quốc mà nói thì sớm hơn 1000 năm. Vì
sao Phật pháp không dùng từ “yêu”? Yêu là cảm tình nên mới đổi sang cách
gọi khác là “từ bi”. Từ bi là lý trí, là yêu có lý tính, không phải yêu
của cảm tình. Việc này chúng ta cần phải hiểu, phải bồi dưỡng tâm yêu thương,
mở rộng tâm yêu thương một cách thanh tịnh và hoàn toàn bình đẳng.
Ÿ
Câu thứ tư, “Tu thập thiện nghiệp”
Thứ
nhất, thân “không sát sanh”, không những không sát hại chúng sanh mà nếu
khiến cho chúng sanh phiền não đều tự cảm thấy lỗi lầm. Bất cứ nơi nào Bồ Tát ở
đều có thể khiến tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ. Chúng ta phải nỗ lực mà
học tập, phải làm cho được. “Không trộm cắp”, phạm vi này rất rộng lớn.
Kinh Phật đích thực phiên dịch là “bất dư thủ”, đồ vật đã có chủ, nếu
người chủ không đồng ý thì chúng ta không thể lấy đi. Không những không được
lấy mang đi mà còn không được di động đó, vì di động nó thì khi người chủ muốn
tìm cũng khó tìm ra, họ liền bị phiền não. Cho nên điều cấm giới này không dễ
gì làm được. “Không tà dâm” là điều cấm đối với đồng tu tại gia đã có vợ
chồng. Kết hợp của vợ chồng là đạo nghĩa, nhất định phải giữ lễ, giữ phép, có
nghĩa có tình, có ân có đức. Đây là ba điều cấm thân thể tạo tác cho nên Phật
nêu ra cho chúng ta ba nguyên tắc quan trọng.
Thứ
hai, khẩu nghiệp, lời nói thì rất dễ dàng phạm phải, cho nên Phật đưa ra bốn
điều: “không vọng ngữ”, tức là không lừa gạt người khác, “không hai
lời” tức là khiêu khích phải quấy, “không ác khẩu” là lời nói thô lỗ
khó nghe thậm chí còn sanh ra lỗi lầm, “không thêu dệt”, tức là lời nói
bóng bẩy ngon ngọt mê hoặc lòng người. Hiện tại chúng ta xem trên một số truyền
hình, phim ảnh, ca múa, có lúc thì màu vàng, có lúc thì màu xám, loại này đều
thuộc về thêu dệt mà Phật pháp đã dạy, khiến mọi người rất thích nghe nhưng nội
dung bên trong đều không phải là chánh pháp, đều phá hoại đạo đức xã hội chứ
không xây dựng. Cho nên những thứ này chúng ta phải tránh tiếp xúc, chính mình
càng không nên làm theo.
Thứ
ba, ý nghiệp, chính là khởi tâm động niệm. Trong ý nghiệp nhất định phải học “không
tham, không sân, không si”. Thuận cảnh không sanh tâm tham ái, nghịch cảnh
cũng không khởi tâm sân hận, đối với tất cả sự lý rõ ràng tường tận thông suốt
thấu đáo, đó là trí tuệ, cũng chính là không mê. Tham sân si gọi là phiền não
ba độc vì tất cả ác pháp đều từ tham sân si mà ra. Chúng ta ngay trong lúc
giảng giải cũng thường vận dụng danh từ hiện đại, “bệnh độc”. Bệnh độc
nghiêm trọng nhất là tham sân si. Nếu trong có tham sân si, ngoài có mê hoặc
của năm dục sáu trần thì con người này làm sao chịu nổi, làm sao họ không bị
bệnh chứ? Không những thân phải bị bệnh mà y báo cũng tuỳ theo đó chuyển đổi. Y
báo là hoàn cảnh sinh hoạt cũng biến đi càng ngày càng xấu.
Các
vị đều biết, đại hoàn cảnh sinh hoạt hiện tại của chúng ta thật ra mỗi năm mỗi
tệ. Có rất nhiều người nhận định địa cầu này đã bệnh rồi, khí hậu khác thường,
tai nạn triền miên, hơn nữa tai nạn mỗi năm một nghiêm trọng hơn. Địa cầu này
chân thật đã bệnh, vì sao bệnh? Do tâm của chúng ta không tốt, trong tâm có quá
nhiều tham sân si cho nên thân có bệnh, hoàn cảnh đời sống cũng bệnh, đúng như
Phật pháp đã nói “đời ác năm trược”. Trước đây chúng ta đọc đến “đời
ác năm trược” không dễ cảm xúc, vì thấy thế gian này rất đẹp mà sao Phật
lại nói thế giới này là đời ác năm trược. Ngày nay chúng ta đọc đoạn kinh văn
này mới sâu sắc cảm nhận. Thích Ca Mâu Ni Phật rất trác tuyệt, chân thật trí
tuệ. Ba ngàn năm trước ngài đã biết địa cầu của chúng ta bệnh rồi, chân thật
tướng năm trược hiện tiền.
Chúng
ta phải làm ngay bốn câu này “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm
bất sát, tu thập thiện nghiệp”, phải nỗ lực chăm chỉ mà làm. Bạn niệm danh
hiệu Phật thì sẽ tương ưng với Phật. Cũng giống như điện báo, đường truyền được
thông, chúng ta vừa niệm Phật A Di Đà thì Phật A Di Đà liền có cảm ứng. Nếu bạn
không làm được bốn câu này thì dù một ngày niệm mười vạn danh Phật hiệu, Phật A
Di Đà cũng không nghe thấy một lời, vì ngay trong có chướng ngại, dẫn đến đường
điện tín không thông. Đó gọi là “Một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm
tương ưng niệm niệm Phật”, bạn làm không được thì “đau mồm rát họng chỉ
uổng công”. Cho nên người niệm Phật rất nhiều nhưng người vãng sanh không
nhiều, nguyên nhân do đâu? chính do chỗ này. Hiểu được rồi thì bạn phải đem
những lỗi lầm thiếu sót mà thay đổi, có như vậy chúng ta cùng Phật A Di Đà liền
có thể giao thông qua lại, ngay trong mỗi niệm liền có cảm ứng. Từ nền tảng này
mà phước đức trời người được nâng cao, vậy mới vào được cửa Phật.
Điều
thứ hai của tam phước bao gồm “Thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai
nghi”
Ÿ
Câu thứ nhất, “Thọ trì Tam Quy”
Việc
trước tiên khi vào cửa Phật là phải quy y Tam Bảo. Hiện tại ngay trong đồng tu
chúng ta, người quy y Tam Bảo rất nhiều, thế nhưng có thọ trì hay không? Chưa
chắc. Ở trước mặt Phật Bồ Tát phát thệ, làm nghi thức quy y nhưng trên thực tế
không hề quy, cũng không hề y. Chỉ làm hình thức mà thôi, vậy thì không thể
dùng. Nhất định chúng ta phải thọ trì.
Thọ
là hoàn toàn tiếp nhận. Hai chữ này “tiếp nhận” lại càng không dễ dàng.
Nếu bạn không thông hiểu tường tận đạo lý của tam quy y, bạn không biết tác
pháp thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày thì bạn làm sao học tập. Công
đức, lợi ích, cảnh giới của tam quy y, bạn không biết được thì làm sao có thể
sanh tâm hoan hỉ. Cho nên khi truyền thọ tam quy, nhất định phải giảng rõ ràng
thấu đáo. Thông thường cử hành nghi thức tam quy, nhiều người không có thời
gian nên không giảng giải một cách tường tận. Tuy nhiên chúng ta vẫn có phương
pháp bổ cứu bằng việc nghe băng thu âm, đọc sách. Nói chung đồng tu nhà Phật
không luận đã quy y Phật hay chưa, thì đây vẫn là bài khoá cần thiết của chúng
ta.
Hiện
tại chúng ta học Phật có hai quyển sách nhỏ, một là “Nhận Thức Phật Giáo”,
hai là “Tam Quy Truyền Thụ”. Hai quyển này là bài khoá cần thiết, nhất
định phải làm cho rõ ràng tường tận. Phật giáo rốt cuộc là cái gì? Phật giáo
phải tu học như thế nào?
Danh
từ “Quy y Phật, Quy y pháp, Quy y tăng”, vào thời xưa giảng giải, mọi
người đều có thể lý giải, không đến nỗi sanh ra hiểu lầm. Còn hiện tại hiểu lầm
cho rằng Phật pháp là tôn giáo, mê tín, cho nên chúng ta đối với “Phật Pháp
Tăng” của Tam Bảo càng phải giảng cho rõ ràng tường tận.
Một
ngàn ba trăm năm trước, Đại sư Huệ Năng, tổ thứ sáu thiền tông Trung Quốc khi
giảng quy y đã không dùng danh từ “Phật, Pháp, Tăng” mà dùng danh từ “Giác,
Chánh, Tịnh”, có thể thấy cách nói khế cơ nhất định phải hiểu khế cơ. Đại
sư Huệ Năng không nói “Phật Pháp Tăng” vì sợ thính chúng sanh ra hiểu lầm
sẽ không dễ dàng lý giải và không nhận được hiệu quả thực tế, cho nên đại sư
đổi lại thành “Giác, Chánh, Tịnh”. Phật là giác, pháp là chánh, tăng là
thanh tịnh. Cách nói này làm cho chúng ta cảm thấy rất dễ hiểu, hơn nữa ba chữ
này đều lưu xuất từ tự tánh. Quy y giác là tự tánh giác. Do đây có thể biết quy
y không phải là quy y một người nào đó. Mỗi ngày chúng ta tu thời khoá sớm tối
gọi là tam tự quy. Phật là tự tánh giác, pháp là tự tánh chánh, tăng là tự tánh
tịnh. Chúng ta đối với giáo huấn của Phật đà, không thể không bội phục đến năm
vóc sát đất. Phật không hề dạy chúng ta quy y ngài, mà Phật dạy chúng ta quy y
tự tánh Tam Bảo.
“Ta
muốn học Phật thì phải học với Phật Thích Ca Mâu Ni”, quan niệm này là mê
tín. Phật Thích Ca Mâu Ni nói “bạn phải nương vào tự tánh của chính mình”.
Phật Thích Ca Mâu Ni nương vào tự tánh, chúng ta cũng nương vào tự tánh, cho
nên tự tánh Tam Bảo quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Tự tánh giác, tự tánh chánh,
tự tánh tịnh là ba đại cương lĩnh tu học Phật pháp.
Chúng
ta đích thực vốn mê không giác, khởi tâm động niệm vốn tà không chánh, nhiễm
không tịnh, do đó Phật dạy chúng ta từ mê quay lại nương vào tự tánh giác, từ
tà tri tà kiến quay đầu lại nương vào chánh tri chánh kiến, và từ tất cả ô
nhiễm quay đầu lại nương vào tâm thanh tịnh. Thế là Phật giáo liền có ba pháp
môn, giống như cái giảng đường này có ba cái cửa để bước vào, giác chánh tịnh.
Chúng ta xem thử trình độ của chính mình, căn tánh của chính mình dễ vào cửa
nào thì ta đi vào cửa đó, không nên miễn cưỡng.
Các
vị nên biết thiền tông tánh tông vào từ “cửa giác”, cho nên gọi là đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là người căn tánh lanh lợi nhất, thông
minh nhất thế gian mới có năng lực tu pháp môn này. Đại sư Huệ Năng giảng,
những đối tượng mà ngài tiếp dẫn là người thượng thượng thừa. Nếu không phải
người thượng thượng thừa thì cửa này không thể vào được. Ngày trước khi tôi mới
học, lão sư nói với tôi, thiền giống như một bước lên trời. Bạn có bản lĩnh này
thì đương nhiên rất tốt, một bước lên trời. Người Trung Quốc gọi là công phu,
từ dưới đất nhảy một cái liền lên đến lầu mười, vậy thì còn lời gì để nói. Việc
này không phải người thông thường có thể làm được, vì nếu bạn không nhảy lên
được mà rớt xuống sẽ tan xương nát thịt.
Người
trung hạ, người không có loại căn tánh này thì phải làm sao? Đừng lo, chúng ta
còn có cầu thang leo từng cấp từng cấp đi lên, tuy chậm nhưng chắc. Giáo hạ là
vào từ “cửa chánh”, chánh tri chánh kiến. Nói chung đường đi của Phật
rất nhiều. Leo cầu thang thời gian dài phải đến ba A Tăng Kỳ kiếp, đó là nói
học giáo. Như vậy hiện tại chúng ta rớt hai cửa đầu. Chúng ta không phải là
thượng căn, không thể một bước lên trời; leo cầu thang quá chậm và mệt lại
không muốn leo, còn phương pháp nào không? Vẫn còn, niệm A Di Đà Phật là vào từ
“cửa tịnh”, tức tu tâm thanh tịnh.
Thực
tế mà nói, dù bạn có công phu hay không, chỉ cần bạn dùng một câu A Di Đà Phật
tịnh hoá ô nhiễm, ngày nay chúng ta gọi là ô nhiễm tinh thần, ô nhiễm tâm lý, ô
nhiễm tư tưởng, ô nhiễm kiến giải, thậm chí ô nhiễm cả sinh lý. Chúng ta dùng
một câu A Di Đà Phật tịnh hoá nó, sau đó chúng ta nương công đức bổn nguyện của
A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương tịnh độ. Sanh đến thế giới Cực Lạc thì thọ
dụng của chúng ta so với người căn tánh thượng thượng căn của thiền tông không
biết cao hơn gấp bao nhiêu lần. Cho nên pháp môn này thù thắng không gì bằng.
Hôm nay chúng ta giảng chính là giảng pháp môn niệm Phật, một pháp môn được chư
Phật tán thán, ngay Bồ Tát Phổ Hiền cũng bội phục.
Tóm
lại Tam quy, trong ba cái cửa để đi thì chúng ta nên vào cửa tịnh, vì giác và
chánh rất khó đi. Tâm thanh tịnh là điểm quan trọng hơn bất cứ thứ gì.
Ÿ
Câu thứ hai, “Cụ túc chúng giới”
Câu
này dạy chúng ta phải trì giới. “Chúng giới” có nghĩa là rất nhiều giới,
không chỉ năm giới, mười giới, giới tỳ kheo, giới tỳ kheo ni, giới Bồ tát, hoặc
rộng hơn so với phạm vi này, đó là giới điều, tất cả vẫn còn nhỏ hẹp. “Chúng
giới” chỉ lời giáo huấn của Phật trong trong kinh. Nhưng chúng ta lại không
thể thọ trì vì kinh điển quá nhiều. Thực ra, ngay trong một đời, chúng ta chỉ
thọ trì một bộ kinh là đủ, y theo lời răn dạy của một bộ kinh mà làm là đã rất
viên mãn, đặc biệt bộ kinh Vô Lượng Thọ này.
Kinh
Vô Lượng Thọ chính là cương yếu của kinh Đại Hoa Nghiêm, là kinh triển khai
kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
lại triển khai toàn bộ Đại Tạng kinh. Chúng ta đã chọn đúng tinh hoa, chọn đúng
tinh yếu thì phải y theo giáo huấn của bổn kinh mà tu hành, sẽ liền đầy đủ được
chúng giới.
Ÿ
Câu thứ ba, “Bất phạm oai nghi”
Dùng
lời hiện đại mà nói thì oai nghi là lễ tiết. Trong thế pháp, nó là quan niệm
đạo đức, phong tục tập quán, nhân tình lễ tiết, mà chúng ta cần phải biết nhất
là vào thời buổi hiện nay. Với công nghệ tin tức, giao thông thuận tiện, không
gian hoạt động của chúng ta rộng lớn, thường hay có kỳ nghỉ ở nước ngoài. Đi du
lịch hay tham quan đến một khu vực nào đó, trước tiên chúng ta phải dò xét
phong tục tập quán, phong thổ nhân tình của khu vực đó để nhập cảnh tùy tục.
Tuy cùng ở với nhau thời gian ngắn thậm chí chỉ một hai ngày cũng có thể kết
với người bản địa một mối duyên, hoan hoan hỉ hỉ. Ngay trong cái duyên hoan hỉ,
chúng ta đem Phật pháp tặng cho họ ngoài một ít lễ vật tùy thân. Đi đến đâu,
chúng ta cũng kết duyên với mọi người, thậm chí chỉ bằng một tấm hình Phật nho nhỏ
in rất đẹp, phía sau đề mấy câu kinh văn. Tùy lúc tặng mọi người, mỗi niệm
không quên quan tâm chúng sanh, thương yêu, giúp đỡ chúng sanh.
Tặng
tấm hình Phật nhỏ cho họ, chính là thương yêu, quan tâm, giúp đỡ họ; khiến cho
họ “nghe qua tai mãi trồng được thiện căn”. Nếu họ có hứng thú, có tâm
hoan hỉ, chúng ta liền liên hệ với họ, thường không ngừng gửi tặng vật băng
đĩa. Tóm lại, mỗi giờ mỗi phút đều phải lưu ý, phải đem Phật pháp giới thiệu
cho mọi người, nhất định phải từ “Bất phạm oai nghi” mà làm, để người
khác thấy chúng ta liền sanh tâm hoan hỉ. Không nên để người khác nhìn thấy
chúng ta liền sanh tâm chán ghét. Cái hoan hỉ đó phải nỗ lực mà làm, ngoài ra
còn phải cầu Tam Bảo gia trì. Học Phật phải thành tựu tấm thành tích. Tấm thành
tích đó thể hiện trên tướng hảo đổi tốt, và thân thể đổi tốt.
Trong
hội trường của chúng ta, có một vị lão pháp sư Hàn Quốc. Năm nay ông tám mươi
tuổi, một mình lữ hành cùng cả đống hành lý. Thân thể ông rất khoẻ mạnh, người
trung niên không thể sánh bằng. Đây là biểu hiện thành tích của nhà Phật do
thường niệm A Di Đà Phật. Lần này ông đến thăm, tôi đề ra “Tín tâm niệm Phật”,
ngay trong tín tâm đã đầy đủ tất cả Phật pháp. Người Trung Quốc nói “Nhất
tâm niệm Phật”, nhất tâm chính là tín tâm. Còn hoài nghi, xen tạp, thì không
gọi là tín tâm. Đại sư Ngẫu Ích nói lục tín trong “Yếu giải” của ngài:
tín tự, tín tha, tín sự, tín lý, tín nhân, tín quả. Không có hoài nghi, không
hề gián đoạn, gọi là tín tâm niệm Phật, nhất định sẽ nắm phần vãng sanh thế
giới Tây Phương Cực Lạc. Hiện tại tuy chưa đi nhưng đã được ghi danh ở thế giới
Cực Lạc, họ có thể đi bất cứ lúc nào. Năm nay ông ấy tám mươi, tuổi tác tuy lớn
đối với thế giới này nhưng đối với tất cả chúng sanh, ông chân thật rất thương
yêu quan tâm, lo lắng. Ông chỉ sợ Phật pháp về sau không có người kế thừa, nên
khi nghe nói chúng ta ở đây mở lớp bồi dưỡng một tốp pháp sư trẻ tuổi tu học
pháp môn tịnh độ, ông ấy hoan hỉ không gì bằng, liền đến đây thăm viếng chúng
ta. Thấy chúng ta có người kế thừa nên ông ấy vãng sanh sẽ không còn gì lo lắng
nữa, có thể an tâm ra đi. Chúng ta đối với hành trì của lão pháp sư cũng rất
tôn kính và tán thán.
Điều
thứ ba của tam phước
Ÿ
Câu thứ nhất, “Phát bồ đề tâm”
Kinh
Vô Lượng Thọ dạy chúng ta vãng sanh “Tam bối vãng sanh”, “vãng sanh
chánh nhân”, trong hai phẩm kinh này đều nói mạnh việc phát tâm Bồ Đề một
lòng chuyên niệm A Di Đà Phật. Nhưng vì sao người niệm Phật thì nhiều mà người
vãng sanh lại ít? Từ trước, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam thường nói, một vạn người
niệm Phật chân thật có thể vãng sanh chỉ khoảng ba đến năm người. Nguyên nhân
cuối cùng do đâu, rất ít người biết. Họ niệm Phật rất chuyên cần, một ngày niệm
mấy vạn danh hiệu Phật, xâu chuỗi không rời tay, nhưng vì sao không thể vãng
sanh? Vì họ làm được “Một lòng chuyên niệm”, mà chưa làm được “Phát
tâm Bồ Đề”. Từ sớm đến tối vẫn niệm Phật, nhưng vẫn còn cãi lộn với người,
vậy làm sao được? Một ngày có niệm mười vạn danh Phật hiệu cũng không thể vãng
sanh, vì chưa có tâm Bồ Đề. Cho nên Bốn mươi tám lời nguyện, mọi người biết
được nguyện thứ mười tám là quan trọng, nguyện thứ mười chín cũng không thể xem
thường.
Nguyện
thứ mười chín là phát tâm Bồ Đề. Bạn không phát tâm Bồ Đề không được. Tâm Bồ Đề
là gì? Là tâm chân thật giác ngộ. Giác ngộ thế gian này khổ không vô thường,
đây mới là chân thật giác ngộ. Đối với thế gian này nhất định không tham luyến.
Chúng ta sống trên thế gian này như sống trong căn nhà trọ, thời gian rất ngắn,
tốt hay không tốt đều được, hà tất phải tính toán, vì chỉ còn mấy ngày phải đi
thì có gì đáng để so đo. Cho nên phải nhìn thấy mọi thứ đều tốt, thuận cảnh
tốt, nghịch cảnh cũng tốt, người thiện tốt, người ác cũng không tệ. Giữ gìn tâm
địa của chính mình thanh tịnh bình đẳng, đó là tâm Bồ Đề. Chúng ta chân thành
đối với người, y theo giáo huấn của Phật mà sinh hoạt, làm việc, và đối nhân xử
thế tiếp vật, vĩnh viễn giữ gìn tâm thanh tịnh bình đẳng của chính mình. Như
vậy mới tương ưng tâm Bồ Đề. Chiếu theo kinh điển, căn bản của tâm Bồ Đề là tâm
chân thành. Tâm chân thành khởi tác dụng đối với chính mình, chính là lòng tự
trọng tự ái, chúng ta gọi là thâm tâm. Đối với người khác quan tâm thương yêu
giúp đỡ, đối với tất cả chúng sanh nhất định phải có tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề là
chân tâm, cũng là tâm Phật.
(Còn
tiếp …)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp
sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên
dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Discussion about this post