KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 14)
Pháp Sư Tịnh Không
Loại
thứ hai là “Chuyển nghiệp sám”.
Đó là loại người thông minh, họ có thể chuyển biến. Việc này rất vi diệu, hiệu
quả thù thắng. Tức là đem tư tưởng ý niệm của bạn chuyển đổi lại từ phàm thành
thánh. Cách chuyển thế nào? Chúng ta cũng đã có mấy lần nói đến. Từ trước đến
nay, chúng ta chẳng phải khởi tâm động niệm đều vì chính mình, vì lợi ích, danh
vọng, lợi dưỡng của chính mình, chấp trước kiên cố, tuy nhiên hiện tại biết
nghe Phật pháp, đã thấu hiểu, quan niệm ý nghĩ dần dần thay đổi, từ nay về sau
không còn vì chính mình nữa mà mỗi niệm vì chúng sanh, vì Phật pháp, nghĩ như
vậy và làm cũng như vậy. Lời nói việc làm đều vì xã hội, vì chúng sanh, đây
chính là chuyển phàm thành thánh. Hiệu quả vô cùng to lớn. Vốn dĩ chúng ta ngày
ngày tạo ra ác nghiệp đều vì tự tư tự lợi, vì hại người lợi mình, tương lai ắt
đọa đường ác. Hiện tại ý niệm vừa chuyển, quyết định không vào ác đạo nên cái
duyên ác đạo tham sân si đã cắt, phải quấy nhân ngã không còn nữa. Trong Tứ Thư
nói: “Hy sinh phụng hiến, xả mình vì người”, khi vừa chuyển đổi, không
chỉ chuyển ba đường, mà còn chuyển sáu cõi, trực tiếp tiến vào con đường thánh
nhân, siêu phàm nhập thánh. Đây là loại sám pháp chuyển đổi.
Loại
thứ ba là “Tiêu trừ tội nghiệp”,
diệt nghiệp mới là cứu cánh. Tội nghiệp đã tạo từ vô lượng kiếp, kinh Phật có
nêu một thí dụ, giống như gian phòng tối, bên trong tối đen, chúng ta chỉ đốt
lên một ngọn đèn thì liền chiếu sáng. Bóng tối mất ngay. Chúng ta có thể dùng
bóng tối thí dụ cho tội nghiệp, đèn thí dụ cho trí tuệ. Định có thể phục
nghiệp, huệ có thể phá nghiệp. Do đây có thể biết tu học của chúng ta nương
giới sanh định, do định khai huệ. Cho nên trì giới, các vị phải biết nếu không
thể được định thì việc trì giới đó là phước báu hữu lậu của thế gian, không thể
chuyển nghiệp, không thể diệt tội, thậm chí phục tội cũng không phục được. Giới
phải được định thì giới có công đức, còn giới không được định thì giới này là
phước đức, không phải công đức. Trì giới được định có phước đức, có công đức có
thể thoát sanh tử, ra khỏi ba cõi. Nếu chỉ có phước đức thì không thể.
Vì
sao trì giới như vậy không thể thành tựu được công đức? Vẫn vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. Chính mình trì giới rất nghiêm, rất thanh tịnh hiếm thấy, mọi
người đều tán thán, thế nhưng họ vẫn có phiền não. Xem thấy người này phá giới,
người kia không giữ giới, họ còn có những phân biệt, liền khiến công đức trì
giới của họ bị mất hết. Do đó làm sao có thể được định? Lục tổ Đại sư Huệ Năng
nói trong Đàn Kinh rất hay: “Người chân chính tu hành sẽ không thấy lỗi thế
gian”, người thế gian phạm rất nhiều lỗi lầm, nếu còn không thấy chẳng phải
đã biến thành mất trí? Thấy như không thấy, quyết không để trong lòng. Người tu
hành luôn sáng suốt hơn người không tu hành, thấy như không thấy, không để
trong lòng, đó gọi là không thấy lỗi thế gian. Đại sư còn nói: “Nếu thấy lỗi
của người, xem đó là lỗi ở mình”. Bạn thấy lỗi lầm của người khác, bạn để
trong lòng, dính ở trên miệng, thường hay nói lỗi lầm này, đại sư cho đó là lỗi
lầm nơi bạn.
Thời
xưa có câu: “Bên phải lên cao, bên trái xuống thấp”, chúng ta lên giảng
đài cũng phải đi từ bên phải mà lên, xuống thì từ phía bên trái. Lại nói “Người
lỗi ta không lỗi, ta lỗi tự có lỗi”, họ làm không phải, ta không thể giống
như họ. Chính mình giới luật nghiêm hơn mà còn phê bình, xem thường, nói lỗi
lầm của người khác thì chính mình liền có lỗi lầm. Ở đây Lục tổ nhắc nhở chúng
ta tu hành thành tựu công đức phải chân thật sám trừ nghiệp chướng. Lịch sử
thời đại nhà Đường, tổ sư sáng lập luật tông Trung Quốc, Luật sư Đạo Tuyên ở
núi Chung Nam, không ai sánh bằng, không chỉ người thời đó tôn kính, tán thán
ngài mà mãi đến ngày hôm nay, nhắc đến Luật Sư Đạo Tuyên, không ai không khởi
tâm cung kính. Ngài trì giới rất tinh nghiêm thanh tịnh, cảm được thiên nhân
cúng dường. Mỗi ngày ngài ăn một bữa, thiên nhân đưa cơm đến cúng dường. Ngài
không cần phải đi khất thực. Phước báu rất lớn.
Một
hôm, đại sư Khuy Cơ đi ngang núi Chung Nam, vốn ngưỡng mộ Luật Sư Đạo Tuyên,
ông thuận tiện ghé thăm. Luật Sư Đạo Tuyên nghe đại sư Khuy Cơ đến thăm, liền
nghĩ đến cần phải hiển lộ một chút để đại sư Khuy Cơ thấy, bởi vì nghe nói đại
sư Khuy Cơ rất kém trong việc giữ giới. Ông sanh ra trong một gia đình giàu có,
chú của ông là Uý Trì Kính Đức, đại tướng của Đường Thái Tông. Vốn sanh ra từ
hào môn quý tộc, đến khi xuất gia gọi là Tam Xa Hòa Thượng. Nguồn gốc của cái
tên “Tam Xa” là do trước đó, Đại sư Huyền Trang tìm ông và khuyên ông
xuất gia. Ông đưa ra ba điều kiện hưởng thụ với Đại sư. Thứ nhất, ông thích đọc
sách, muốn mang theo một xe sách đi xuất gia. Thứ hai, hưởng thụ vật chất, muốn
mang theo một xe vàng ròng. Thứ ba, phải có mỹ nữ hầu hạ, muốn mang theo một xe
mỹ nữ. Đại sư Huyền Trang đều đáp ứng tất cả. Cho nên người ta gọi ông là Tam
Xa hòa thượng, việc trì giới của ông không được nghiêm khắc. Cho nên Luật Sư
Đạo Tuyên cho rằng Đại sư Khuy Cơ học vấn tốt, có biện tài, thế nhưng giới luật
thì không được. Vậy hôm nay phải biểu diễn một chút để ông ấy xem.
Buổi
trưa thiên nhân thường đưa cơm đến cúng dường, việc này rất hiếm lạ. Đại sư
Khuy Cơ lên ngồi trên núi, đến giữa trưa ngày hôm đó thiên nhân không đưa cơm
cúng dường đến. Luật sư Đạo Tuyên rất thất vọng, vốn dĩ muốn biểu diễn một chút
để cảm hoá Khuy Cơ, không ngờ thiên nhân thất tín lại không đến, không còn cách
nào, buổi chiều Đại sư Khuy Cơ đành xuống núi. Đến buổi trưa hôm sau, thiên
nhân đưa cơm cúng dường đến, Luật Sư Đạo Tuyên liền trách cứ: “Vì sao hôm
qua ông không đến?” Vị thiên nhân trả lời: “Hôm qua Bồ tát Đại thừa ở
trên núi, cả núi đều có thần hộ pháp bảo hộ, tôi không đến được”. Luật sư
Đạo Tuyên nghe rồi liền toát mồ hôi, hổ thẹn đến cùng tột, mới biết được cái ý
niệm của chính mình là sai lầm, chính mình có tội nghiệp.
Câu
chuyện này là một minh chứng cho lời nói của Đại sư Huệ Năng, chúng ta xem thấy
người khác có lỗi lầm, thế nhưng họ thật có lỗi lầm hay không? Không hề thấy.
Người khác thấy Đại sư Khuy Cơ khuyết điểm, lỗi lầm cả người. Thế nhưng thiên
nhân thấy ông không phải như vậy. Bạn tu giới luật Tiểu thừa nghiêm như vậy,
thiên nhân tôn kính bạn, thế nhưng còn cách xa so với Bồ Tát Đại thừa. Thiên
nhân ngày ngày đưa đồ cúng dường đến bạn, nhưng tiếp cận Bồ tát thì không thể
được vì có thần hộ pháp ngăn trở. Những lý cùng sự này, chúng ta phải tường
tận, phải thấu suốt. Tội nhất định có thể tiêu trừ, thế nhưng phải sám hối như
thế nào? Đại đức xưa dạy, chúng ta khởi tâm động niệm tạo tác tội nghiệp có hai
loại, một loại gọi là “giá tội”, một loại gọi là “tánh tội”. Giá
là phòng chỉ, phòng phạm, thân không có tội, nó chỉ phòng ngừa bạn tạo tội
nghiệp. Loại giới điều này, nếu bạn phạm thì gọi là giá giới, vẫn còn nhẹ. Tánh
tội thì cho dù Phật có chế định giới luật hay không, bạn tạo tác thì nhất định
phạm tội. Lấy ngũ giới để nói, sát sanh là tánh tội. Bạn chưa thọ năm giới thì
bạn vẫn có tội. Không thể nói chưa thọ giới thì sát sanh không có tội. Tương
tự, không thể nói: “Tôi không hiểu pháp luật, không biết rằng giết người sẽ
bị tử hình cho nên tôi giết người xem như không có tội”. Dâm dục là tánh
tội, trộm cắp, vọng ngữ lừa gạt chúng sanh cũng là tánh tội, cho dù bạn giữ
giới hay không giữ giới.
Bản
thân chính là tội, trong năm giới, uống rượu là giá tội, uống rượu không có tội
nhưng vì sao Phật lại liệt nó vào trọng giới? Vì sợ bạn uống rượu say sẽ phạm
các giới trước, tạo tác những ác nghiệp khác, cho nên rượu là phòng phạm. Nếu
bạn phạm vào giới rượu là giá giới, đó không phải là tánh giới. Năm xưa khi tôi
cầu học ở Đài Trung, Lý lão sư giảng Lễ ký cho chúng tôi nghe. Lễ Ký do tôi
thỉnh chứ thật sự lão sư không muốn giảng, vì sao? Vì không ai chịu học, không
có người học thì giảng để làm gì. Tôi đã rất thành khẩn cầu thỉnh nhiều lần,
ông mới giảng cho tôi nghe mấy thiên. Giảng đến Lễ Ký đương nhiên phải nhắc đến
người chú giải Trịnh Khang Thành, Trịnh Huyền. Khi nói đến câu chuyện của Trịnh
Huyền, người Trung Quốc thường nói “uống rượu ba trăm ly”. Ba trăm ly có
một điển tích, chính là câu chuyện của Trịnh Khang Thành.
Trịnh
Khang Thành là đại Nho triều Hán, con người thông minh tuyệt đỉnh, thế nhưng
tập khí không đoạn được. Khi lên lớp dạy học trò, ông có thói quen thưởng thức
âm nhạc. Thời đó không có máy hát nhưng trong nhà ông luôn có một đội nhạc, ca
kỹ đều là con gái. Mỗi khi ông lên lớp, những cô gái ở phía sau xướng ca khảy
đàn. Một mặt thưởng thức, một mặt dạy cho mọi người. Thầy giáo của ông để ý
thấy những gì thầy giáo dạy trong ba năm, Trịnh Khang Thành hoàn toàn lĩnh hội
được hết. Vì là phàm phu, không phải thánh nhân, thầy giáo của ông không tránh
khỏi tâm đố kỵ. Biết đứa học trò này tương lai nhất định vượt qua mình, thầy giáo
bèn tìm biện pháp hãm hại ông. Khi Trịnh Khang Thành bái biệt trở về nhà, thầy
giáo dẫn theo mấy chục học trò đến đình Thập Lý Trường để đưa tiễn. Mỗi học trò
kính Trịnh Khang Thành ba ly rượu. Thầy giáo muốn chuốc ông say để dễ bề hãm
hại. Nào ngờ Trịnh Khang Thành sau khi uống xong ba trăm ly, một lễ tiết nhỏ
cũng không thất. Ông có tửu lượng khá lớn. Năm xưa Lý lão sư giảng đến đoạn
này, ông nói: “Nếu mỗi người chúng ta đều có tửu lượng này thì Thích Ca Mâu
Ni Phật sẽ không cần đưa ra giới điều cấm uống rượu”. Sau khi Thịnh Khang
Thành rời khỏi, thầy giáo của ông còn mướn một sát thủ hãm hại ông trên đường.
Ông vốn thông minh đoán trước sự việc nên liền vào đường tắt mà đi.
Đây
là câu chuyện có thật trong lịch sử. Thầy giáo cũng đố kỵ học trò, thế mới biết
cuộc đời gian nan, không dễ dàng gì. Cho nên giá tội cùng tánh tội, chúng ta
nhất định phải thông hiểu. Giá tội chính là pháp sám hối, y theo phương pháp
sám hối Phật dạy, bạch chúng, tuyên bố với mọi người rằng ta đã làm những việc
sai lầm nào, những gì Phật răn dạy mà ta chưa thể tuân thủ, đã phạm. Nếu như đã
phạm tánh tội thì sám hối bao gồm sự sám và lý sám, tương đối phiền phức hơn,
cần phải chân thật phát tâm sám hối từ chính nội tâm mình, nguyện về sau không
làm nữa, cầu Phật Bồ tát gia hộ, cầu điềm lạ, cầu cảm ứng. Những phương pháp
sám hối này trong kinh luận nói rất nhiều.
Vào
năm cuối triều nhà Minh, Đại sư Ngẫu Ích đã y theo “Triêm sát sám pháp”,
cũng là y theo pháp môn Địa Tạng, tu Triêm Sát Pháp. Phương pháp này rất có
hiệu quả. Trong Địa Tạng ba kinh có một bộ chính là pháp sám hối “Triêm Sát
Thiện Ác Nghiệp Báo kinh”, có dạy phương pháp sám hối. Đại sư Ngẫu Ích cả
đời dùng phương pháp này để tu sám hối, việc này đáng được chúng ta học tập.
Thế nhưng trong giá tội có rất nhiều khai mở mà chúng ta cần phải hiểu. Cho nên
giới luật linh động hoạt bát, không khô cứng.
Khi
tôi ở Hoa Kỳ, có một đồng tu học Phật, nhưng chồng cô và người nhà của cô không
học Phật. Sau khi học Phật, cô phát tâm ăn chay, người nhà liền khó chịu. Cũng
vậy, một lần tôi ở Miami, người chồng của một vị đồng tu liền đến hỏi tôi về
thức ăn chay, nếu không dùng gia vị hành tỏi sẽ rất khó ăn, ông hỏi tôi có
nghiêm cấm dùng hành tỏi không? Không nghiêm cấm, bạn có thể dùng, dùng một
chút hành tỏi còn tốt hơn nhiều so với ăn thịt. Chúng ta khuyên họ không ăn
thịt, nhưng vẫn có thể ăn một ít hành tỏi, không đáng gì, đó là khai duyên. Nếu
ngay đến những phối liệu này cũng không cho phép họ dùng thì họ sẽ không ăn
chay, mỗi ngày vẫn ăn thịt chúng sanh. Ở chỗ này chúng ta nên cân nhắc, miễn
sao họ không tạo trọng tội thì cái tội nhẹ kia có thể thông qua đặc biệt đối
với giới tại gia. Nhưng với giới xuất gia, nhà Phật nhất định không cho phép,
vì sao? Sợ người ta hiềm khích, đàm tiếu rằng vị hòa thượng đó không giữ giới,
vẫn còn ăn hành tỏi. Phật ngăn cấm ngũ tân vì ăn nhiều sẽ có lỗi lầm. Cũng
giống như rượu, nó thuộc về giá tội. Rượu uống say mới có lỗi lầm. Rất nhiều
người khi uống rượu say thì ngủ một giấc thật dài, họ không phạm lỗi lầm nhưng
cũng có không ít người, rượu uống say thì khởi tửu phong, từ đó mới có lỗi lầm.
Nhà
Phật không có định pháp, không phải là nhất định. Trong gia vị có những thứ này
cũng giống như những hương liệu thì không khởi tác dụng gì. Có người xào rau
phối một ít rượu, bạn có ăn cũng không thể say, không gọi là phá giới. Ngày
trước tôi ở thư viện Từ Quang Đài Trung, trong đó có một vị cư sĩ Lưu, hiện tại
nghe nói ông đã xuất gia, người Sơn Đông thích ăn củ hành, mỗi bữa cơm nếu
không có vài củ hành thì ông không nuốt được. Trong nhà bếp nấu cơm là một bà
cụ cũng là một lão cư sĩ rất thuần thành. Ngày ngày bà mắng ông phá giới, thế
nhưng mỗi ngày nấu mì cho lão sư Lý, Lý lão sư là người Sơn Đông thích ăn mì,
bà lại nêm một chút rượu. Cư sĩ Lưu ngày ngày mắng ông phá giới vì trong mì có
rượu. Chúng tôi ở cạnh thường xem thấy chuyện cười này. Kỳ thực hai bên đều
không có lỗi. Ăn vài củ hành không khởi tác dụng gì, mì nêm một ít rượu cũng
không khởi tác dụng gì, đều xem là gia vị. Tuy nhiên trong tự viện thường sợ
hiềm nghi, còn đạo tràng cư sĩ thì không việc gì. Thực ra, những sai phạm nhỏ
nhặt này không cần xem là nghiêm trọng, trong khi cái nghiêm trọng chân thật
thì lại quên mất. Cái nghiêm trọng chân thật là gì?
Bạn
xem Sa Di Luật Nghi, giới Sa Di mang tiền theo mình là phạm đại giới. Mỗi ngày
trên người chúng ta đều mang cổ phiếu, cái đại giới này bạn không để ý trong
khi cái nhỏ nhặt kia bạn lại tô vẽ ra, chẳng phải là điên đảo sao? Vì sao Phật
bảo người xuất gia không nên mang theo tiền? Đó là phòng ngừa tâm tham, tiền
càng nhiều thì tâm tham càng nặng, càng nhiều thì càng khó xả. Cho nên Phật cấm
người xuất gia cầm tiền trong tay, trên tay không được cầm vàng bạc tiền của
vật báu, nếu phạm đều thuộc về giá giới. Chúng ta nhất định phải hiểu. Đó là
ngừa quấy dứt ác, một loại quyền nghi thiết lập. Thế Tôn khổ tâm dạy học nơi
nơi đều vì chúng ta làm ra rất nhiều công việc phòng phạm như vậy.
Có
hai phương pháp sám hối, nếu ở sự sám, chúng ta tu Đại bi sám, Lương Hoàng Sám,
Từ Bi Thủy sám, y theo sám nghi dạy mà chân thật làm mới có tác dụng. Không nên
chỉ đọc qua một lần. Nếu có thể y theo Định khai Huệ thì đó là tu tâm thanh
tịnh, tâm thanh tịnh sanh trí tuệ, thấu hiểu chân tướng của những tội nghiệp.
Kinh Phật nói “Vạn pháp đều không, vạn pháp do duyên sanh, phàm hễ là pháp
duyên sanh thì ngay thể đều là không, không thể có được”. Vậy chúng ta tạo
tác chủng chủng tội nghiệp là duyên sanh, đã là pháp duyên sanh đương nhiên
ngay thể đều là không, đó là đạo lý nhất định. Bạn hiểu được đạo lý này, khế
nhập không tánh thì cái tội liền diệt. Chỗ khế nhập như vậy chúng ta thường gọi
là chứng đắc. Thế nhưng, nếu chưa chứng được cảnh giới này thì bạn vạn lần
không nên nghĩ tội nghiệp là không. Bạn có ăn cơm không? Có, một cái có thì tất
cả đều có, một không tất cả không. Nếu bạn quả nhiên có thể vào được cảnh giới
tất cả không, tội nghiệp của bạn liền tiêu trừ, vào cảnh giới của kinh Kim
Cang: “Nhất thiết pháp hữu vi, pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như
điển, ưng tác như thị quán”. “Quán” tức là huệ, vào được cảnh giới
như kinh phía trước đã nói “Tam tâm bất khả đắc, duyên khởi tánh không”,
đây là then chốt, bạn chân thật được giải thoát, không những siêu việt sáu cõi
mà còn siêu việt cả mười pháp giới, đó là lý sám.
Từ
trên sự mà sám hối là phục phiền não, phục tội nghiệp, làm cho tội nghiệp không
khởi hiện hành, còn trên lý sám hối là nhổ sạch tận gốc tội nghiệp, chân thật
chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn, đó mới là pháp sám
hối cứu cánh. Sám hối phải bắt đầu từ đâu? Kinh Phật dạy chúng ta mười phương
pháp, Phật nói “Có mười sự việc là thuận theo sanh tử”, cũng chính là
nói, nếu như bạn có mười sự việc này thì bạn nhất định phải sanh tử luân hồi,
không thể thoát khỏi tam giới sáu cõi. Nhưng ngoài ra có mười sự việc có thể
làm cho bạn siêu việt luân hồi, siêu việt mười pháp giới. Trước tiên chúng ta
phải sám trừ mười loại tâm lý tùy thuận chúng sanh sai lầm.
Điều
thứ nhất là “Vọng kế nhân ngã, khởi ư thân kiến”, vọng là hư vọng, kế là
chấp trước. Bạn chấp trước hư vọng, cho cái thân thể mình là ta, chấp trước
thân thể của người khác là người, từ đó sanh khởi ngã chấp nghiêm trọng. Phật
đem vấn đề này xếp vào điều thứ nhất, gọi là thân kiến. Chúng ta trong kiến tư
phiền não năm loại lớn thì loại thứ nhất là thân kiến, “Thân kiến, biên
kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến”. Năm loại lớn vừa nêu là kiến
giải sai lầm, đầu tiên chính là thân kiến. Thân kiến do đâu mà có? Do không
hiểu rõ chân tướng sự thật, trong chân tướng sự thật khởi lên hiểu lầm, đem
thân của mình thành chính ta, rồi khởi thị phi nhân ngã, điên đảo vọng tưởng,
căn bản của luân hồi. Sáu cõi luân hồi do đâu mà có? Chính do những việc này mà
ra, cho nên thiện ác trong Phật pháp nói “vì chính mình là ác, vì người khác
là thiện”, cứ theo tiêu chuẩn đó mà định. Vì chính mình là tăng thêm ngã
kiến, tăng thêm ngã chấp, những thứ này rất phiền phức. Khi không vì ta nữa mà
vì chúng sanh thì ngã chấp dần dần tan nhạt, không còn chấp trước thân này là
ta, trạng thái hân hoan vui vẻ, an vui tự tại. Vì chúng sanh, vì xã hội, không
luận chúng ta ở nghề nghiệp nào đều chân thật hy sinh phụng hiến. Thực tế mà
nói, trong hy sinh phụng hiến còn có ngã chấp, ai hy sinh? ta hy sinh; ai phụng
hiến? ta phụng hiến, còn chưa quên được cái “ta”. Hy sinh phụng hiến đều
không có, pháp vốn như vậy, trong tự nhiên ta có cách làm như vậy, cho nên phải
quên mất cái ta mới được.
Loại
thứ hai, bên trong có phiền não, bên ngoài có mê hoặc. Phiền não là thị phi
nhân ngã, tham sân si mạn vô lượng vô biên. Mê hoặc bên ngoài, có người mê
hoặc, có việc mê hoặc, có vật mê hoặc, xã hội ngày nay, mỗi bước đều là hầm hố
hoặc hầm lửa, được mấy người có thể thuận buồm xuôi gió vượt qua con đường hiểm
này. Nếu bạn không có trí tuệ chân thật thì sẽ dễ dàng bị dụ, cái tạo tác ác
nghiệp này rất nặng, nhất định tăng thêm vô minh, tăng thêm phiền não, cũng là
tăng thêm nghiệp sanh tử luân hồi, do đó phải nên sám hối.
Thứ
ba “nội ngoại duyên thảy đều đầy đủ”, bên trong có phiền não, bên ngoài
có ác duyên. Chúng ta làm thiện phải ngay cả trong ý niệm. Chính mình không thể
tu thiện, thấy người khác tu thiện lại còn khó chịu, đố kỵ, nghĩ cách phá hoại,
cản trở, không ngại tạo ra tội nghiệp cực trọng, do đó chúng ta nhất định phải
biết sám hối. Giả như chúng ta gặp phải tình huống này, cũng không nên bị cảnh
giới bên ngoài dao động. Tuyệt đối không nên cho rằng, đã làm những việc tốt mà
còn gặp phải nhiều khổ nạn, bên cạnh đó lại nghe những lời xúi bẩy của những kẻ
tiêu cực cho rằng làm người tốt thường bị gạt, từ đó không dám giữ tâm tốt,
không dám làm việc tốt nữa. Như vậy là hỏng. Kẻ xúi bẩy chính là ma, không phải
Phật, vậy chẳng phải bạn đi theo ma để học sao? Chúng ta học với Phật, khi cảnh
ma hiện tiền, chúng ta mới có thể trải qua khảo nghiệm, quyết không lo sợ,
quyết không thoái lui, gặp muôn vàn khó khăn, phải biết được đó là dịp giúp cho
chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, là việc tốt, không phải việc xấu.
Kinh
Kim Cang, Phật có nói một đoạn “Thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì đọc tụng
thử kinh”, “thử kinh” ám chỉ kinh Kim Cang. Người thọ trì y theo
giáo huấn của kinh Kim Cang là người tốt, thế nhưng bị người ta khinh rẻ, nhục
mạ, Phật nói “Con người đó đời trước tội nghiệp phải đọa ác đạo, nếu không
thọ trì kinh Kim Cang, không học Phật thì tương lai sẽ lại đọa đường ác”.
Hiện tại học Phật, chăm chỉ cố gắng còn bị người khinh rẻ, chà đạp, tội nghiệp
của người này hiện tại trả hết, tương lai sẽ không đọa ác đạo nữa. Không những
không đọa ác đạo mà còn được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Chúng ta nghe Phật
nói những lời này, trong lòng cảm thấy được an ủi. Lời Phật nói luôn chân thật,
cho nên người học Phật chúng ta có gặp phải nghịch duyên thì cũng phải thản
nhiên, nỗ lực kiểm điểm. Người khác hủy báng chúng ta, chúng ta phải cố gắng
nghĩ xem có đúng hay không? Nếu có thì phải mau sửa đổi, nếu không có thì cố
gắng khích lệ, “có thì sửa đổi, không thì khích lệ”. Quyết không nên
trách người khác, không nên khởi một niệm tâm sân hận, tâm báo thù để lại bị
đọa lạc. Chúng ta vẫn có tâm cung kính cảm ân đối với họ, họ tiêu tai diệt tội
thay ta, họ là đại ân nhân của ta, làm sao ta không cảm kích. Việc tu học của
ta vẫn là mỗi niệm hồi hướng, cầu phước cho họ, đó là cách Phật dạy bảo chúng
ta phải làm.
(Còn tiếp …)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp
sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên
dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Discussion about this post