DÒNG SÔNG NHÌN THẤY |
|
|
Ngài Dogen là một người biết yêu thiên nhiên, một thi sĩ và nhà thần
bí phi thường. Ngài xây tu viện sâu trong núi trên dòng sông Cửu Đầu Long. Ngài
thực hiện hầu hết các tác phẩm của ngài ở nơi ẩn dật trên đỉnh núi. Ngài thân
thiết với núi. Nhưng núi và sông mà ngài Dogen nói ở đây không phải là núi và
sông của thi sĩ, của nhà tự nhiên học, của thợ săn hay thợ rừng. Chúng là núi
và sông của Pháp giới.
Thiền sư Dogen (Đạo Nguyên)
viết trong Kinh Núi và Sông:
“Dòng sông không
mạnh cũng không yếu, không ướt cũng không khô, không chảy cũng không dừng,
không lạnh cũng không nóng, không có cũng không không, không mê cũng không ngộ.
Đông lại nó cứng hơn kim cương: ai có thể đập vỡ nó? Tan ra, nó mềm hơn sữa: ai
có thể bẻ gãy nó? Không ai nghi ngờ có nhiều đức tính thể hiện từ dòng sông.
Chúng ta nên học trường hợp khi những dòng sông trong mười phương được nhìn
thấy trong mười phương. Đó không phải là bài học chỉ khi con người hay thần
thánh nhìn thấy dòng sông: có một bài học của dòng sông nhìn thấy dòng sông.
Dòng sông thực hành và thọ ký cho dòng sông; từ đó, có một bài học về dòng sông
nói lên tiếng nói của dòng sông. Chúng ta cần thể nhận con đường trên đó cái
ngã gặp gỡ cái ngã. Chúng ta cần chuyển dịch lui tới theo, và bật ra từ, con
đường mà trên đó một người học và hiểu toàn bộ người khác”.
Đoạn kinh trên tương ứng
với bước thứ ba trong Thiên Chính Ngũ Vị của ngài Động Sơn – một giáo lý vi tế
và thâm sâu về hai mặt tương đối và tuyệt đối của thực tại(1). Bước thứ ba phản
ảnh sự chín mùi trong việc tu tập – tác động của tánh không trong đời sống hàng
ngày, sự khởi lên của từ bi như là hoạt động của thế giới.
Ngài Dogen là một người
biết yêu thiên nhiên, một thi sĩ và nhà thần bí phi thường. Ngài xây tu viện
sâu trong núi trên dòng sông Cửu Đầu Long. Ngài thực hiện hầu hết các tác phẩm của
ngài ở nơi ẩn dật trên đỉnh núi. Ngài thân thiết với núi. Nhưng núi và sông mà
ngài Dogen nói ở đây không phải là núi và sông của thi sĩ, của nhà tự nhiên
học, của thợ săn hay thợ rừng. Chúng là núi và sông của Pháp giới.
Núi và sông thường được
dùng trong Phật giáo để chỉ luân hồi – thế giới vô minh, sự đau khổ của thế
giới, sự vô thường trong thế giới hiện tượng. Cái chúng ta có ở đây không phải
là một bài kinh về núi và sông trong nghĩa đó, những sự hiển lộ của núi và sông
như một bài kinh, một bài pháp. Dòng sông mà ngài Dogen nói đến là dòng sông Pháp
giới, thế giới của vạn pháp. Sông, giống như núi, luôn luôn có một ý nghĩa tâm
linh đặc biệt. Trong lịch sử tâm linh, nhiều nguồn cảm hứng đã xuất phát từ
thềm sông Hằng, cũng như dọc theo dòng sông Dương Tử ở Trung Hoa. Nhiều giáo lý
Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo cũng đã xuất hiện trên thềm những dòng sông.
Thoreau nói về dòng sông
Có tiếng nói từ bên
trong dòng nước mang theo tinh thần của nó đến tai đang nghe, và trong niềm
tĩnh lặng nó chảy qua trong dáng vẻ minh triết, ân cần với niềm tôn kính, trong
trẻo như toàn bộ những tư tưởng đẹp đẽ này. Nó tiếp nhận những khu rừng xanh
yêu kiều. Nó mỉm cười trong đôi cánh tay an bình của nó.
Trong cuốn Siddartha của
Herman Hesse, dòng sông đóng một vai trò chính trong sự giác ngộ của Gautama.
Với tôi, cuốn sách đó là một bài học có ảnh hưởng lớn. Khi tôi trở lại với cuốn
sách sau nhiều năm học nó ở nhà trường, tôi nhớ bao nhiêu là khó khăn trong
cuộc đời của tôi vào lúc đó. Một cách nào đó, cuốn sách đã không thấm nhập vào
tâm hồn tôi khi tôi còn trẻ. Nhưng lần sau, đọc lại cuốn sách, tôi đã đến với
dòng sông Delaware. Đi đến dòng sông trở thành một cuộc hành hương đối với tôi,
một nơi đến để tiếp nhận linh hồn của dòng sông, để được dòng sông nuôi dưỡng.
Tôi không biết điều gì đang xảy ra, nhưng tôi bị chấn động bởi điều mà Hesse
nói về Siddartha và dòng sông. Mỗi khi tôi đi ra dòng sông Delaware, tôi giống
như được uống một vị nước trong mát, tinh nguyên, làm dịu đi ngọn lửa đang cháy
trong tôi. Tôi không hiểu, nhưng tôi tiếp tục trở lại. Tôi chụp nhiều hình với
nhiều dáng vẻ của mặt nước dòng sông trong những thời điểm khác nhau. Tôi thấy
mình du lịch trong dòng sông, đắm mình trong dòng sông. Việc này kéo dài nhiều
năm, và nhiều năm dòng sông đã dạy cho tôi. Và cuối cùng, tôi nghe nó. Tôi nghe
nó nói. Tôi nghe điều mà nó nói với Siddartha và Thoreau.
Trong câu chuyện của
Hesse, Siddartha mang một nỗi đau buồn và khốn khổ không cùng. Ông lang thang
trong rừng, và cuối cùng đi đến một dòng sông – dòng sông mà trước kia người
lái đò đã đưa ông sang bên này. Trong Phật giáo, hình ảnh dòng sông và sự vượt qua
nó là prajna paramita, là trí tuệ qua đến bờ bên kia: “Qua, qua, hãy đi qua đến
bờ bên kia”. Chúng ta có thể hiểu sự vượt qua đó bằng nhiều cách. Chúng ta có
thể hiểu bờ bên kia không có gì khác với bờ bên này. Chúng ta cũng có thể hiểu
bờ bên kia vượt qua chúng ta, cũng như chúng ta vượt qua bờ bên kia.
Ở chỗ này, Hesse viết về
Siddartha:
Với vẻ mặt thất thần,
chàng nhìn chăm chăm vào dòng nước. Chàng thấy mặt chàng phản chiếu và bập bềnh
trong đó. Chàng buông cánh tay ra khỏi thân cây và xoay mình một chút để có thể
buông đầu xuống và chìm trong nước. Chàng nhắm mắt hướng về cái chết. Lúc đó,
từ một vùng xa xôi của tâm hồn, từ quá khứ trong cuộc đời mệt mỏi của chàng, chàng
nghe tiếng vọng. Đó là một chữ, một âm, không suy nghĩ, chàng nói lên âm thanh
đó theo bản năng. Cái khởi đầu và chấm dứt cổ xưa của tất cả các vị Bà la môn,
tiếng “Om” linh thiêng có ý nghĩa là đấng Toàn Thiện, hay sự toàn thiện. Trong
khoảnh khắc, khi tiếng Om đến tai Siddartha, tâm hồn bão tố của chàng bỗng thức
tỉnh, và chàng nhận ra hành động điên rồ của mình.
Hesse tiếp tục nhiều
trang nói về lời dạy của dòng sông, rồi ông viết:
Ta sẽ ở lại bên dòng
sông này, Siddartha nghĩ. Nó cũng là dòng sông mà ta đã qua để vào thành phố.
Một người lái đò thân thiện đã đưa ta qua. Ta sẽ đến với ông ta. Con đường một
lần đưa ta từ túp lều của ông để đến với một cuộc sống mới bây giờ đã cũ và mất
dấu. Chàng nhìn một cách yêu thương vào dòng nước đang chảy, vào màu xanh lá cây
trong trẻo, vào những đường nét trong suốt của sự trang trí tuyệt vời của nó.
Chàng nhìn thấy những viên minh châu hiện lên từ đáy nước, những chiếc bong
bóng bơi trên mặt gương, màu xanh của bầu trời phản chiếu trong đó. Dòng sông
nhìn chàng với ngàn con mắt, màu xanh lá cây, màu trắng, màu trong suốt, màu
xanh da trời. Chàng yêu thương dòng sông này biết mấy! Dòng sông này làm cho
chàng say mê! Chàng biết ơn dòng sông vô cùng! Trong tâm chàng, chàng nghe một âm
thanh mới vừa thức dậy. Nó nói với chàng: “Hãy yêu thương dòng sông này,
hãy ở lại bên nó và học từ nó”. Vâng, chàng muốn học từ nó. Đối với chàng,
dường như người nào hiểu được dòng sông này và những bí ẩn của nó, cũng sẽ hiểu
được nhiều điều hơn nữa, nhiều điều bí ẩn, những điều bí ẩn cổ xưa”.
Thiền sư Dogen nói về
những bí ẩn của dòng sông và của tất cả nước: “Dòng sông không mạnh cũng không
yếu, không ướt cũng không khô, không chảy cũng không dừng, không lạnh cũng không
nóng, không có cũng không không, không mê cũng không ngộ”. Nó không có cái gì
có tính chất nhị nguyên. Nước là H2O, bao gồm hai phần hydrogen và một phần
oxygen, hai chất không mùi và không vị. Chúng ta kết hợp hai thành phần lại và chúng
ta có nước. Nhưng nước không phải là oxygen cũng không phải là hydrogen. Nó
không phải là chất khí. Nó là cái mà D.H. Lawrence gọi trong bài thơ của ông
“cái thứ ba”. Nó không phải là cái này, cũng không phải là cái kia; nó luôn
luôn là cái thứ ba. Cái thứ ba không mạnh cũng không yếu, không ướt cũng không
khô, không chảy cũng không dừng, không lạnh cũng không nóng, không hiện hữu
cũng không không hiện hữu, không mê cũng không ngộ. Cái thứ ba mà Dogen nói đến,
kinh điển nói đến và dòng sông nói đến là cái gì?
Thiền sư Động Sơn là một
trong những vị sáng lập dòng Thiền Tào Động, một phần truyền thống của tu viện
Zen Mountain Monastery. Một lần ngài đi qua một con sông với Vân Cư, người đệ
tử truyền thừa của ngài. Ngài hỏi Vân Cư: “Nước sâu nhiều ít?” Vân Cư trả lời:
“Không ướt” Động Sơn nói: “Ngươi thô lậu” Vân Cư nói: “Xin Thầy nói”. Động
Sơn nói: “Không khô”. Điều đó có hiển bày cái thứ ba hay không? Phải chăng nó
không ướt cũng không khô?
Cứng hơn kim cương, mềm
hơn sữa. Cứng hơn kim cương diễn tả tính Chân như bất biến của vạn pháp, cái
như như của vạn pháp. Ngay trong lúc này! Mềm hơn sữa là nói đến Chân như trong
điều kiện hóa của sự vật. Cũng trong Kinh Núi và Sông, ngài Dogen nói về người
gái đá (thạch nữ) sinh con trong đêm. Gái đá là người đàn bà không thể sinh con
và, dĩ nhiên, người đàn bà như vậy không thể sinh con. Ngài Dogen nói thêm rằng
việc như vậy là bất khả tư nghì, không thể nghĩ bàn. Điều này để ám chỉ sự
không thể nghĩ bàn của cái không có những tính chất cố định, không có sự hiện hữu
nào, nhưng có thể làm sinh khởi sự hiện hữu tùy thuộc điều kiện, thế giới tương
đối hay thế giới nhị nguyên của sự vật. Đó là nền tảng của sự phụ thuộc lẫn nhau
của sự vật trong toàn thể vũ trụ, cái mà chúng ta gọi là Lưới Trời Đế Thích –
hoàn toàn thấm nhập vào nhau trong quan hệ tương duyên, tương sinh. Không có
cách nào có thể tạo ảnh hưởng lên một sự vật mà không làm ảnh hưởng đến cái
toàn bộ của nó. Với hai câu cứng hơn kim cương, mềm hơn sữa, ngài Dogen trình
bày hai phương diện tương đối và tuyệt đối của thực tại.
Tiếp theo, ngài Dogen
nói:
Chúng ta nên học trường
hợp khi những dòng sông của mười phương được nhìn thấy trong mười phương. Đây
không phải chỉ là học về thời gian lúc con người và thần thánh nhìn thấy dòng
sông. Có sự học về dòng sông nhìn thấy dòng sông. Dòng sông thực hành và thọ ký
cho dòng sông; từ đó, có một bài học về dòng sông nói lên tiếng nói của dòng
sông. Chúng ta cần thể nhận con đường trên đó cái ngã gặp gỡ cái ngã. Chúng ta
cần chuyển dịch lui tới theo, và bật ra từ, con đường mà trên đó một người học
và hiểu toàn bộ người khác.
Thế nào là con đường
trên đó cái ngã bắt gặp cái ngã, và cái khác gặp gỡ cái khác? Đó là sự tu tập
của dòng sông nhìn thấy dòng sông, nhìn thấy chính nó. Ngài Dogen trình bày khác
một chút trong một tác phẩm khác của ngài, Genjokoan (Hiện Thành Công Án). Ngài
nói: “Học Phật là học về ngã. Học về ngã là quên ngã. Quên ngã là giác ngộ từ
vạn pháp”. Khi chúng ta học về ngã, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng nó là một ý
niệm được tạo ra từ ý nịệm. Chúng ta tạo ra từ phút giây này qua phút giây
khác. Chúng ta tạo ra nó như chúng ta tạo ra vạn pháp, bằng sự tương duyên và
tương sinh của chúng ta. Điều gì xảy ra khi cái ngã được quên đi. Cái gì sẽ còn
lại? Toàn thể thế giới hiện tượng sẽ còn lại. Toàn thể pháp giới sẽ còn lại.
Điều đó có nghĩa là “Quên ngã là giác ngộ từ vạn pháp”. Đó là, chúng ta thấy
vạn pháp như là thân và tâm của chúng ta. Trong một bài kệ, ngài Động Sơn nói
về lão bà nhìn trong gương thấy hình bóng của mình. “Rõ ràng gặp mặt nhưng
không phải là thật là tôi”(2). Anh và tôi là một nhưng tôi không phải là anh và
anh không phải là tôi. Bộ não của chúng ta không thể giao dịch với bình diện
đó. Đó là lý do thực hành là thiết yếu. Chúng ta phải tự thấy nó, và thấy rằng
ngôn ngữ không đến được với nó. Không có cách nào chuyển tải cái thực tại này
bằng ngôn ngữ, như vị của loại nước trong suốt không thể được chuyển tải bằng
cách nào khác hơn là nếm nó.
Sương buổi sáng trên
mười ngàn ngọn cỏ biểu lộ chân lý của toàn thể mười ngàn sắc tướng của đại địa.
Mỗi sự vật, mỗi ngọn cỏ, mỗi giọt sương, mỗi và mọi sự vật trong toàn pháp giới
chứa đựng toàn thể pháp giới. Đó là chân lý của mười ngàn sắc tướng của đại địa.
Những âm thanh của thung
lũng dòng sông hát lên tám vạn bốn ngàn bài ca Chân như. Có nghe chúng chăng?
Những bài ca không chỉ nói lên tiến Om. Chúng ca lên tám vạn bốn ngàn bài ca,
tám vạn bốn ngàn bài kệ, những giáo pháp, bài kinh của đá và nước. Tràn ngập
xuyên khắp những âm thanh và sắc tướng này là một dấu vết tách rời khỏi ngôn
ngữ và ý niệm. Có thấy nó chăng? Nếu muốn bước vào đó, chỉ nhìn và nghe. Nhìn
với toàn thể thân và tâm. Thấy với toàn thể thân và tâm. Lắng và nghe với toàn
thể thân và tâm, và rồi lập tức sẽ hiểu chúng. Đó là lối vào. Nếu chạy đuổi theo
nó, sẽ không bao giờ tìm thấy nó. “Mang theo cái ngã để nhận ra mười ngàn pháp
là vọng tưởng”, như ngài Dogen nói. “Mười ngàn pháp đi tới và nhận ra cái ngã
là giác ngộ”. Thấy không? Bờ bên kia đi đến.
Dòng sông thực hành và
thọ ký cho dòng sông có nghĩa là gì? Có nghĩa rằng chúng ta thực hành và xác
minh chúng ta, và đó cũng là sự thực hành và thọ ký của tất cả chư Phật trong
quá khứ, hiện tại và tương lai. Đức Phật tiên đoán rằng đến một thời kỳ nào đó
Phật pháp sẽ biến mất trên thế gian. Ngài định nghĩa thời kỳ đó là thời kỳ không
còn một vị thầy, một cuốn kinh nào, không có người tu thiền, không có ai giác
ngộ. Ngài diễn tả thời kỳ đó như một thời kỳ dày đặc tối tăm, sẽ xuất hiện vào lúc
nào đó trong tương lai. Chúng ta hãy cho rằng thời kỳ dày đặc tối tăm đó đã
xuất hiện. Hãy cho rằng thời kỳ đó đã xuất hiện năm trăm năm. Trong trường hợp
đó, chúng ta sẽ đặt vấn đề về việc tâm truyền tâm. Ngay cả hiện tại cũng đã có
sự dứt đoạn lịch sử trong việc tâm truyền tâm. Từ quan điểm dòng truyền thừa,
chúng ta ca tụng danh mục truyền thừa coi như đó là một sự tiếp nối liên tục.
Nền văn hóa Trung Hoa rất coi trong việc tiếp nối tổ tiên. Nếu không có tổ tiên
gần gũi, người ta dùng một tên thích hợp để tạo sự tiếp nối, và mọi người đều
vui vẻ. Các sử gia ngày nay thỉnh thoảng tìm thấy những tên này không phải là
những người kế thừa chính xác. Và các học giả bèn kết luận: “A ha! Lối truyền
thừa tâm truyền tâm không có thật. Vị thầy qua đời và cả trăm năm sau vị thầy
khác được coi như tâm truyền tâm từ vị thầy trước đó. Do đó không có việc tâm
truyền tâm”. Đó là lý do tại sao họ là những học giả! Từ cái nhìn Phật giáo,
nếu việc tâm truyền tâm biến mất cả triệu năm trên trái đất, một người tham
thiền thể nhận ra cái ngã chân thật, có cùng một thể nghiệm với Đức Phật trong quá
khứ, thì khoảng dứt đoạn triệu năm sẽ được tiếp nối trong một tích tắc,
tâm-truyền-tâm.
Cũng như khi điện khí
biến mất trên mặt đất, và sau đó một triệu năm, có một người chế tạo ra chiếc
máy phát điện, xoắn một sợi dây kim loại gắn vào máy, khi quay máy lên, sức
nóng phát ra sẽ tạo ra ánh sáng. Đó cũng là thứ ánh sáng mà chúng ta có từ
chiếc bóng đèn ngày nay, cùng một thứ điện. Tất cả việc phải làm là tạo ra
điện. Trong trường hợp Phật pháp, tất cả điều phải làm là thể nhận ra nó. Thể
nhận ra cái gì? Thể nhận ra rằng Tâm Phật vẫn luôn luôn ở đó. Chúng ta không
đạt đến nó, chúng ta sinh ra cùng với nó. Thiền không phải từ Nhật truyền đến
Mỹ; nó vốn luôn luôn ở đó và sẽ luôn luôn ở đó. Nhưng giống như bóng đèn, chỉ
điện thôi không đủ. Chúng ta cần nối bóng đèn để thấy ánh sáng. Trong Phật pháp
chúng ta nối với con người; Phật pháp chiếu sáng qua con người, qua chư Phật.
Chỉ các Đức Phật nhận ra các Đức Phật. Ngài Dogen nói như sau khi chúng ta nhận
ra Đức Phật: “Chúng ta cần thể nhận con đường trên đó cái ngã gặp gỡ cái ngã.
Chúng ta cần chuyển dịch lui tới theo, và bật ra từ, con đường mà trên đó một
người học và hiểu toàn bộ người khác”.
Một trong những tính
chất của bước thứ ba trong Thiên Chính Ngũ Vị của ngài Động Sơn, Chính Trung
Lai, là sự chín mùi trong tu tập, tánh không vận hành như là nền tảng trong
những sinh hoạt hàng ngày. Sự vận hành này không gì khác hơn là mười ngàn tay
mắt của đức đại bi Quán Thế Âm. Ngài luôn luôn hiện ra theo hoàn cảnh. Trong sự
thị hiện của ngài không có sự phân ly. Việc nhìn thấy mặt mũi của chính mình ở
bất cứ nơi nào chúng ta nhìn đến trở thành hành động. Không chỉ thấy hay biết
mặt mũi của mình, cái ngã chân thật của chúng ta, nhưng còn hành động trên nền
tảng của cái biết này. Đó gọi là làm-không-làm. Từ bi không đồng nghĩa với làm
việc tốt, hay tử tế. Từ bi vận hành một cách tự do, không do dự, không giới
hạn. Nó xuất hiện không cố gắng, như tóc mọc, như tim đập, như hơi thở, như máu
lưu thông, như làm mười ngàn sự việc khác mà chúng ta làm hàng phút hàng giây.
Nó không có một sự cố gắng ý thức nào. Một người nào đó ngã xuống, chúng ta vực
họ lên. Không ý thức người làm và việc làm. Không có sự phân ly.
Nếu chúng ta muốn sự
thực hành của chúng ta thể hiện ra trong thế giới, nếu chúng ta muốn giúp chữa
lành lại quả địa cầu của chúng ta đang rên rỉ kêu đau, chúng ta cần nhận ra
điều chúng ta vừa nói. Tất cả cái mà chúng ta cần để nhận ra nó là lắng nghe,
và qua tiếng kêu ầm ì của đại lộ từ xa, chúng ta có thể nghe tiếng của dòng
sông. Nghe chăng? Chỉ có vậy… Phải chăng đó là cái thứ ba?
(Trích dịch từ
Teachings of the Earth)
John Daido
Loori – Thị Giới dịch
(1) Thiên Chính Ngũ Vị:
1- Chính Trung Thiên: Dụng ở trong thể, tương đối ở trong tuyệt đối. 2- Thiên
Trung Chính: Thể ở trong dụng, tuyệt đối ở trong tương đối. 3- Chính Trung Lai:
Đến từ tuyệt đối, nương lý tu sự. 4- Thiên Trung Chí: Đến từ cả tương đối và
tuyệt đối, khi đó dụng hoàn toàn khế hợp với thể. 5- Kiêm Trung Đáo: Thể và
dụng đều đủ, sự và lý cùng sánh. (2) Thất hiểu lão bà phùng cổ kính Phân minh
địch diện biệt vô chân.
02-24-2009 08:12:46
Discussion about this post