ĐIỀU TUYỆT VỜI NHẤT VÀ TỆ HẠI NHẤT CỦA CHÚNG TA
Tác giả: Paul Ekman
Tuệ Uyển chuyển ngữ – 18/02/2011
Thù hận có thể có những lợi ích ngắn hạn trong việc
thúc đẩy những hành vi vị tha nhưng về lâu về dài sẽ làm hao mòn nhân cách. – Đức Đạt Lai Lạt Ma & Paul Ekman –
Nhà tâm lý học
Paul Ekman thừa nhận rằng ông chỉ hơi thích thú với Đạo Phật khi ông được mời đến
Dharamsala, Ấn Độ, trong năm 2000 cho một cuộc đối thoại của Đức Đạt Lai Lạt Ma
với những nhà khoa học, được bảo trợ bởi Viện Tâm Thức và Đời Sống. Nhưng Ekman, một khoa học gia chức năng nổi
tiếng là một chuyên gia hàng đầu về những biểu hiện trên mặt, đã mê mẫn về đề
tài được bàn thảo: những cảm xúc tàn
phá. Sự tiếp xúc với Đức Đạt Lai Lạt Ma
đã chuyển hóa đời sống của ông, đến một mức độ mà ông ngạc nhiên vô cùng.
Ngày
nay, cả hai là những người bạn tốt. Với
sự gợi ý của Ekman, họ đã dành gần 40 giờ trong cuộc đàm luận giữa tháng
Tư năm 2006 và tháng Sáu năm 2007. Nhuận sắc với bình luận của Ekman, sự thảo luận
của họ đã xuất hiện trong Nhận Thức Tình Cảm: Vượt Thắng những Chướng Ngại đến sự Cân Bằng
Tâm Lý Học (Henry Holt, 2009, $15.00; Chăm Nom Tình Cảm, an audio/video
download, paulekman.com ). Ekman vẫn là
một người không tín ngưỡng, nhưng ông và Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tìm ra nhiều nền
tảng thông dụng, nhất là hai niềm vui đặc biệt, tâm thức sống động khám phá bản
chất tự nhiên của cảm xúc trong một tinh thần khám phá hổ tương.
Bây
giờ giáo sư danh dự của Đại Học Y Khoa
California tại San Francisco, nơi ông thành lập Phòng Thí Nghiệm Sự Tương Tác của Con Người, Ekman, không giảng dạy
nữa, nhưng ông bận rộn hơn lúc nào hết. Kế hoạch gần đây của ông bao gồm Hội
Nghị về Ngôn Ngữ của Đời Sống Tinh Thần, chương trình nảy sinh từ những cuộc
nói chuyện của ông với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tổ chức từ ngày 15 đến ngày 19 tại
Tulluride, Colorado, và vai trò cố vấn của ông trong Lừa Dối với Tôi, một loạt chương trình cùa Fox TV, mà trong ấy những
nhân vật chính khám phá những tội ác qua việc sử dụng những kỷ thuật khám phá –
lừa dối căn cứ trên sự nghiên cứu của Ekman. Sau mỗi chương trình Ekman viết những kiến thức khoa học phía sau lời đối
thoại của câu chuyện. Đấy không phải là
sự tiếp xúc đầu tiên của ông với Hollywood: những công ty như Pixar thường yêu
cầu ông cố vấn về những biểu lộ trên khuôn mặt cho những phim hoạt họa của họ. Rồi thì, cũng thế, có sự tiếp tục cố vấn của
ông cho những cơ quan chống khủng bố của chính quyền. Nhưng khi Joan Duncan Oliver của Tricycle
gọi điện thoại cho Ekman đến văn phòng của ông ở California vào tháng Mười Một
vừa qua, điều mà ông mong muốn nhất là thảo luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma.
PHỎNG VẤN
1.-
HỎI: Tôi thật say mê đọc thấy rằng sau
cuộc gặp gở với Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên, ông không có kinh nghiệm giận
dữ trong bảy tháng. Mặc dù ông ngờ vực về
việc nó xãy ra như thế nào, nhưng ông đã hơi nghi ngờ về một sự tái tổ chức đời
sống tình cảm của ông đã xãy ra. Ông giải
thích cho sự chuyển biến ấy như thế nào?
ĐÁP: Cung cách mà tôi nhận thức nó từ khuôn thức của
khoa học Tây phương là sau cái chết của mẹ tôi – tôi được mười bốn tuổi khi bà
tự tử – tôi đã gia tăng sự thù hận đối với cha tôi, người tôi cho là chịu trách
nhiệm. Ông ta là một người tàn nhẫn,
lăng mạ, và ngược đãi, và rất ganh đua với tôi. Loại thù hận như thế là một thể trạng chịu đựng của sự mong muốn làm tổn
thương một người khác: nó không phải là bạn đang cảm thấy ghét bỏ trong mọi thời
khắc, nhưng bất cứ khi nào người ấy hiện ra trong tâm thức, một cách trực tiếp
hay gián tiếp, sự thù hận ấy tái diễn. Nó gậm mòn nhân cách, vì thế nó trở thành một căn cứ cho việc phát triển
sự sân hận mà nó quá sẳn sàng và quá mạnh mẽ. Khi tôi gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, cha tôi đã chết hơn bốn mươi năm, nhưng
tôi vẫn ghét ông. Trong buổi sơ giao với
Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi nghĩ ngài sẽ tập trung “tính chất” trên vết thương mà
tôi vẫn cảm nhận từ cái chết của mẹ tôi, và mặc dù sự thù hận vẫn hiện hữu cho
đến một vài năm sau đó, nhưng nó đã phát sinh một sự thay đổi sâu sắc.
Những
đồng nghiệp phân tích tâm lý của tôi nghĩ rằng tôi đã có một phản ứng thuyên
chuyển đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng
tôi chưa bao giờ cảm nhận ngài như hình ảnh của một người cha, dù chỉ trong một
khoảnh khắc; tôi cảm thấy ngài như một người anh mà tôi chưa bao giờ có. Sự giải thích của ngài là trong một tiền kiếp
chúng tôi đã là anh em.
2.-
HỎI: Ông nghĩ thế nào về điều ấy?
ĐÁP: Ô, tôi nghĩ tái sinh là một câu chuyện thần
tiên dễ thương, như thiên đàng và địa ngục, nhưng tôi không bất cung kính ngài
vì sự tin tưởng ấy. Tôi chưa bao giờ có
niềm tin trong nghĩa lý giáo thuyết, vì thế tôi không biết giải thích thế nào về
nó. Tôi tin rằng tại một điểm nào đó, chúng
tôi sẽ hiểu nền tảng của sự chuyển biến này một cách khoa học. Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi không đồng ý về điều
này. Ngài nghĩ tôi là một người giản hóa
luận và nó sẽ mãi mãi là một điều huyền bí. Tuy nhiên, niềm tin của tôi là không có điều gì của tâm thức mà không là
sản phẩm của não bộ.
3.-
HỎI: Một vài năm trước đây, cuối cùng
ông đã tha thứ cho cha ông. Ông có nghĩ
rằng khả năng để tha thứ có liên hệ với sự tiếp xúc với Đức Đạt Lai Lạt Ma
không?
ĐÁP: Mặc dù lần đầu tiên gặp gở Đức Đạt Lai Lạt
Ma, tôi đã tranh luận một cách mạnh mẽ với ngài về những lợi ích của thù hận. Nói rằng, tôi đã nghĩ nó có thể thúc đẩy những
hành vi xây dựng. Tôi không biết rằng
tôi sẽ cố gắng để hoàn thành tất cả những thứ mà tôi đã làm hay không nếu tôi
đã không được thúc đẩy bởi một khát vọng trả thù cha tôi. Tuy thế, Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi đã kết
thúc với một quan điểm chung rằng thù hận có thể có những lợi ích ngắn hạn
trong việc thúc đẩy những hành vi vị tha nhưng trong lâu dài sẽ làm hao mòn
nhân cách. Tôi không thể định rõ
khi tôi chấm dứt cảm nhận thù hận đối với cha tôi: nó không phải là một sự thay
đổi đột ngột, nên nó không được chú ý. Nhưng bây giờ, tôi hoàn toàn tỉnh thức về việc không còn cảm thấy mối
thù hận ấy nữa – không còn bị làm bận tâm với việc tôi sẽ trả thù ông như thế
nào nữa.
4.-
HỎI: Ông gọi những cuộc đàm luận của
ông với Đức Đạt Lai Lạt Ma là “một tiến trình đối thoại”. Ông đã học hỏi được gì từ cuộc đàm luận này đến
cuộc đàm luận khác?
ĐÁP: Tôi cho bạn một thí dụ, nếu tôi đã không từng
nói chuyện với ngài, tôi sẽ không đảm nhiệm đề tài về việc làm thế nào để hiểu
những cảm xúc tốt hơn là chỉ nghĩ về chúng như tích cực và tiêu cực như trong
tâm lý học Tây phương. Tôi sẽ không thấy
rằng bạn không thể chỉ đơn giản nói một cảm xúc làm ưu phiền hay không làm ưu
phiền, bởi vì không ưu phiền là trung tính. Từ quan điểm của Darwin, chúng ta sẽ không có cảm xúc nếu chúng không lợi
ích cho chúng ta. Vì thế, làm thế nào
chúng ta quyết định cùng chính cảm xúc là xây dựng hay tàn phá? Điều ấy tủy thuộc trên việc nó diễn ra thế
nào trong một phạm vi cụ thể.
Tám
hay mười năm trước, tôi không thừa nhận quan điểm của Richard Dawkins rằng sự lừa
dối xãy ra do bởi một sự thích thú căn bản trong việc khai thác người
khác. Tôi nói, không, nếu ông nhìn vào lịch
sử của đời sống con người trên hành tinh này, ở một mức độ lớn trong những nhóm
nhỏ cộng tác đã đối phó với con mồi và thú săn mồi. Đây là những gì mà Đạo Phật liên hệ đến như sự
liên hệ hổ tương, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma hay tôi đều không áp dụng đến cảm
xúc. Và khi chúng tôi thực hiện, một ý
tưởng đã phát sinh từ những cuộc đàm luận của chúng tôi. Tôi đã đề nghị rằng bất cứ khi nào một tình
tiết cảm xúc đưa đến một sự cộng tác tốt hơn chúng tôi nên xem nó là xây dựng,
và khi nó gây trở ngại với sự cộng tác xãy ra sau thì nó nên được xem như tàn
phá. Ngài đã đồng ý.
Trên
một đề mục khác, sự thảo luận về từ bi yêu thương đưa đến một công thức hoàn
toàn khác, mà tôi tiếp tục sửa soạn kỷ lưỡng. Vào thời gian những cuộc gặp gở của chúng tôi, tôi đã phân biệt lòng
thương hay từ bi yêu thương trong gia đình với lòng từ bi yêu thương phổ quát –
lòng từ bi yêu thương cho tất cả chúng sinh – mà nó thì khác biệt với những gì
ngài gọi là lòng từ bi yêu thương vô giới hạn bao gồm tất cả mọi tạo vật sinh sống. Ngài đã thấy điều đó hữu ích và đã thay đổi
quan điểm của ngài, vì thế ngài đã không còn nghĩ về lòng từ bi yêu thương như
cảm xúc. Cảm xúc liên hệ trong từ bi yêu
thương, nhưng như là động cơ của từ bi yêu thương. Đấy là một vấn đề nữa đã cống hiến đến sự suy
nghĩ của tôi: bất cứ khi nào bạn nhìn
váo một cảm xúc, bạn phải nhìn vào động cơ cho cảm xúc ấy. Điều ấy là quyết định cho việc hoặc là nó sẽ
đóng vai trò trong một hình thức xây dựng hay tàn phá. Tôi chưa từng nghĩ về điều ấy trong cách này.
5.-
HỎI: Vậy thì động cơ và xu hướng, là
trung tâm của Đạo Phật, đã không thật sự là những bộ phận trong sự suy tư của
ông?
ĐÁP: Bạn có thể đánh mất bằng chứng như một nhà
khoa học bằng việc thừa nhận rằng người ta có những khuynh hướng. Chúng ta có thể lượng định thái độ rõ ràng
hay có thể thấy của con người, nhưng không dễ dàng để ước lượng những ý định của
họ là gì, vì thế tâm lý học hầu như đã hành động giống như chúng ta thật sự
không thể dễ dàng đo lường những thứ không hiện hữu. Không phải ngẫu nhiên mà tâm lý trị liệu nhận
thức thái độ– mà nó đã nhấn mạnh những gì chúng ta có thể sáng tạo và thay đổi
mục tiêu của chúng ta – đã liên hệ tự nó đến chính niệm. Nhưng điều đó không phải là những gì đã từng
ngự trị tâm lý học Tây phương.
6.-
HỎI: Khi ông hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma những thực tập
nào sẽ giúp những người mà cảm xúc trổi dậy một cách nhanh chóng và mãnh liệt,
câu trả lời của ngài một cách căn bản là khái niệm phương tiện thiện xảo của Đức
Phật – mà những phương pháp cũng nhiều
như con người trên trái đất này. Điều
này có đưa đến câu vấn đề có bất cứ sự nghiên cứu nhân rộng nào về thiền quán
và cảm xúc hay không?
ĐÁP: Không, bời vì sự nghiên cứu mà chúng tôi đã
thực hiện, được gọi là Trau Dồi Cân Bằng Cảm Xúc – mà chúng tôi nhận hành động
dưới sự yêu cầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma – phối hợp những loại thiền quán khác
nhau cũng cũng như những sự thực hành của phương Tây. Những loại khác biệt có thể hữu ích hơn cho
người này đến người nọ. Và ngay cả cùng
một người, những thứ khác nhau có thể lợi lạc trong những ngày khác nhau.
7.-
HỎI: Ông đánh giá tác dụng của thiền
quán như thế nào?
ĐÁP: Điều định lượng quan trọng nhất mà chúng tôi
dùng là, nó có thay đổi mối quan hệ của họ với người phối ngẫu và con cái của họ
không? Chúng tôi đã dùng những lượng định
tiêu chuẩn của sự chán nãn và lo lắng, và chúng tôi đã thấy một sự thay đổi khổng
lồ – nó to lớn như bất cứ điều gì mà chưa từng được ghi nhận bởi bất cứ một kỷ
thuật nào. Điều mà chúng tôi có thể nói
đấy là một tác nhân thay đổi đúng đắn. Có phải đấy đã là một điều đã hoạt động tốt nhất cho mọi người hay
không? Chúng tôi không có cách nào để biết. Chúng tôi có một bửa ăn với nhiều món nóng
– nguội, mà chúng ta không thể nói món nào hương vị tốt hơn.
8.-HỎI: Có một sự đối thoại tiếp tục giữa Đạo Phật
và tâm lý trị liệu trong những năm gần đây, nhiều thứ phát sinh qua những cuộc
gặp gở của Viện Tâm Thức và Đời Sống. Điều
gì ông đã đối lập với Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thêm vào cho sự đối thoại này?
ĐÁP: Điều khác nhau là sự tập trung trên hai vấn đề
– cảm xúc và từ bi yêu thương. Như tôi
hiểu nó, chính khái niệm cảm xúc là không đơn giản trong tư tưởng Phật Giáo –
thể trạng tinh thần ấy, với những đặc trưng của nó, hay việc nó khác biệt với
những thể trạng tinh thần khác. Những cảm
xúc của chúng ta chịu trách nhiệm cho tình trạng tốt nhất cả tệ hại nhất của
chúng ta. Chính danh xưng của cuộc gặp gở
Tâm Thức và Đời Sống 2000 – Những Cảm Xúc Tàn Phá – đối với tôi dường như tôi
tiếp nhận một nhận thức sai lạc. Nó hổ
trợ xa hơn cho ý tưởng rằng mục tiêu là để xa lánh cảm xúc của chúng ta, mà
chúng là quá tàn phá. Điều đó không bao
giờ là mục tiêu, và ngay cả nếu nó là thế, thì chúng ta sẽ không bao giờ đạt đến
được.
Tôi
cố gắng đề có thêm 30 phút nữa với Đức Đạt Lai Lạt Ma để tập trung trên một vấn
đề mà tôi cho là rất quan trọng: từ bi
yêu thương quả cảm và từ bi yêu thương phổ quát – hai vấn đề này quan hệ như thế
nào và mục tiêu của chúng ta nên là thế nào trong sự quan tâm như thế. Làm thế nào và tại sao “từ bi quả cảm” xãy
ra? Và làm thế nào chúng ta biết là chúng ta có “từ bi quả cảm” hay không?
9.-HỎI: Ông đã đọc về một người đàn ông, người đã nhảy
qua một đường xe điện ngầm New York để cứu một người lạ đã té ngã trên đường rầy
và ông ta chút nữa thì bị một đoàn xe chạy tới đụng phải. Đó có phải là từ bi quả cảm hay không?
ĐÁP: Nếu bạn đang đứng bên cạnh người ấy, và bạn
đã không nhảy ra, bạn biết là bạn không có“từ bi quả cảm” . Điều
gì giống như thế để biết rằng chúng ta không có? Điều gì giống như là người đứng bên cạnh mà
không hành động? Điều ấy thay đổi chúng
ta như thế nào? Đó có phải là một sự thay đổi hữu ích? Tôi không biết câu trả lời, và không có người
nào khá hơn để khám phá vấn đề này hơn là Đức Đạt Lai Lạt Ma.
10.-HỎI: Khi ông và Đức Đạt Lai Lạt Ma thảo luận về sự
liên hệ hổ tương (duyên sinh) và khoa học, ông đã nói rằng một hứng thú trong sự
cộng tác là “từ từ vào” khoa học. Như vậy
là thế nào?
ĐÁP: Một lý thuyết nền tảng của quan điểm Darwin
trong mỗi thế hệ sẽ luôn luôn biến đổi đa dạng ở trong bản chất tự nhiên của
con người: chúng ta cần những nguyên vật liệu sống bởi vì chúng ta không bao giờ
biết những gì của môi trường sẽ được chiếu cố. Chúng ta sống trong một thế giới mà một quốc gia thực hiện những ảnh hưởng
trên những xứ sở khác, vì thế chúng ta phải bắt đầu có một nhận thức phổ quát rộng
rãi hơn. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải
đề cập đến một khía cạnh cộng tác về tính chất tự nhiên của con người – và dĩ
nhiên, đủ để mà ngạc nhiên, đấy là nhận thức của Đạo Phật. Thế giới đã nhận ra. Những thay đổi trên thế giới một cách kỷ thuật
bây giờ đã làm cho quan điểm của Đạo Phật thích hợp hơn bao giờ hết.
11.-HỎI: Đức Đạt Lai Lạt Ma hẳn không ngạc nhiên.
ĐÁP: Tôi nghĩ ngài hài lòng. Nhưng ngài nhiều lúc rất hài lòng, và nhiều
khi ngài cũng rất gieo neo. Nó tùy thuộc
trên những gì đối diện với ngài. Nhưng
ngài là một người lạc quan. Và đó là một
trong những điều thay đổi xãy ra trong tôi từ khi tôi gặp ngài: tôi thường là một
người bi quan. Bây giờ tôi không biết tự
gọi tôi là một người lạc quan hay một người bi quan cải thiện. Tôi vẫn tránh suy nghĩ về những trường hợp tệ
hại nhất.
12.-HỎI: Ông nghĩ Đức Đạt Lai Lạt Ma có nghĩ về những
trường hợp tệ hại nhất không?
ĐÁP: Tôi nghĩ Đức Đạt Lai Lạt Ma có một nhận thức
thực tiển về thế giới, và ngài nghĩ tôi có một quan điểm thiếu kiên nhẫn tiêu
biểu của Tây phương đối với thế giới. Trái lại, tôi không tin rằng tôi sẽ tái sinh. Đó là một cung cách thông thường để tiếp nhận
một quan điểm vô cùng lâu dài, nhưng tôi không thể thoát khỏi quan niệm Tây
phương là điều mà chúng ta không phải vĩnh viễn và chúng ta không thể bảo đảm rằng
chúng ta sẽ không làm nổ tung thế giới trước khi sự tiến hóa thay đổi xãy ra
trong một cách tự nhiên hơn.
Chỗ
mà Đức Đạt Lai Lạt Ma có quan điểm đúng đắn là thiếu kiên nhẫn có thể bóp méo
thế giới quan của chúng ta và làm cho những hành động của chúng ta thiếu hiệu
quả hơn. Thiếu kiên nhẫn có thể rất tốt
bằng việc giúp chúng ta không nhẫn nại chịu đựng hành động bạo ngược nhưng có
thể bóp méo quan điểm của chúng ta về những gì khả dĩ và làm thế nào đem đến sự
thay đổi. Chúng ta phải trau dồi kiên nhẫn
để cho nhận thức của chúng ta không bị bóp méo.
13.-HỎI: Có phải ông đang nói rằng khi chúng ta đang ở
trong những nổi đau khổ của cảm xúc, điều đó xác định tính chất suy nghĩ của
chúng ta?
ĐÁP: Vâng, đúng đấy. Cảm xúc nối kết những gì chúng ta suy
nghĩ. Tuy thế, hãy trở lại ông bạn phóng
ra trên đường rầy xe điện ngầm. Nó là một
cảm xúc đã làm cho ông ta hành động như thế, và chúng ta biết điều đó là không
thể cưỡng lại được. Ông ta không do dự,
ông ta không chọn lựa. Ông ta hành động
do bởi cảm xúc đòi hỏi ông ta hành động. Và điều đó là một ân huệ cứu độ duyên dáng của con người.
The Best and
Worst of Us
– Tricycle – Issue # 72 nói chuyện với nhà tâm lý học Paul Ekman về
công việc của ông với Đức Đạt Lai Lạt Ma về những cảm xúc tàn phá và xây dựng.
Phụ chú:
Paul Ekman: sinh ngày 15/02/1934, tại Washington, D.C., và lớn lên ở Newark, New Jersey, Washington, Oregon, cùng Southern California. Ông là một nhà tâm lý học tiên phong trong việc
nghiên cứu những cảm xúc và sự liên hệ của chúng với sự biểu hiện trên khuôn mặt. Ông được xem là một trong 100 nhà tâm lý học
xuất sắc nhất của thế kỷ hai mươi.
Ẩn
Tâm Lộ ngày 25/02/2011
Discussion about this post