WILLIAM L. AMES
William L. Ames tốt nghiệp thạc sĩ vật lí học tại Viện công nghệ
California và tiến sĩ Phật học tại Đại học Washington, từng giảng một khóa về
vật lí và đạo Phật tại Viện nghiên cứu tích hợp California (California
Institute of Integral Studies). Ông là đồng tác giả một công trình nghiên cứu
về hố đen, tác giả của một số công trình bàn về nhiều khía cạnh của Trung quán
tông (Madhyamaka) thuộc đạo Phật đại thừa (Mahayana). Hiện ông là thủ thư tại
thư viện Fisher ở Đại học John F. Kennedy, Orinda, bang California; tham gia dịch và ấn hành một số
chương thuộc tác phẩm Trung quán tông Ấn Độ Prajnapradipa của
Bhavaviveka.
MICHEL BITBOL
Michel Bitbol là nghiên cứu gia trưởng tại CNRS và tại Trung tâm nghiên
cứu nhận thức luận ứng dụng thuộc Đại học bách khoa Paris (Ecole
Polytechnique). Ông dạy tại đại học Paris, thỉnh
giảng định kì tại trường Linacre thuộc Đại học Oxford. Ông sinh năm 1954, nhận bằng tiến sĩ
vật lí và hậu tiến sĩ (habilitation) triết học ở Paris. Từ năm 1980 đến 1989 ông chủ yếu
nghiên cứu về vật lí sinh học, còn từ 1990 trở đi ông chuyên tâm về triết học
của vật lí. Ấn phẩm chính của ông gồm: Schrodinger’s philosophy of quantum
mechanics (Kluwer,1996), Mecanique quantique, une introduction
philosophique (Flammarion, 1996), và Phisique et philosophie de l’esprit
(Flammarion, 2000).
JOSÉ IGNACIO CABEZÓN
José Ignacio Cabezón là giáo sư hiệu Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 về đạo Phật
Tây Tạng và văn hóa học tại Đại học California,
Santa Barbara.
Ông học đại học chuyên ngành vật lí tại Caltech và nhận bằng tiến sĩ Phật học
tại Đại học Wisconsin
– Madison. Mười
năm nay ông là tu sĩ đạo Phật, trong đó có sáu năm ông theo học một chương
trình truyền thống tại tu viện Sera miền nam Ấn Độ. Ông là tác giả, biên tập
viên, dịch giả vài quyển sách và bài báo học thuật, như: A Dose of
Emptiness; Buddhism and Language; Buddhism, Sexuality, and Gender; Tibetan
Literature (biên tập chung với R. Jackson); cùng tác phẩm mới nhất của mình
tựa Scholaticism: Cross – Cultural and Comparative Perspectives.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA THỨ MƯỜI BỐN
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn là nhà lãnh đạo thế tục và tinh thần của
Tây Tạng, đã nhận giải Nobel hòa bình năm 1989. Ông là nhà chủ trương bất bạo
động trên trường quốc tế, là đại diện hàng đầu cho đạo Phật trong thế giới ngày
nay và đã có mối quan tâm lâu dài với khoa học. Từ năm 1987 cùng với nhiều nhà
khoa học tầm cỡ như David Bohm hay John Bell, ông tham dự vào các hội thảo giữa
đạo Phật và khoa học tổ chức hai năm một lần có tên Trí tuệ và cuộc sống. Một số
bản ghi từ các hội thảo đã được ấn hành, như: Gentle Bridges: Conversations
with the Dalai Lama on the Science of Mind (Shambhala, 1992); Sleeping,
Dreaming, Dying: An Exploration of Consiousness with the Dalai Lama
(Wisdom, 1997); Healing Emotions: Conversations with the Dalai Lama on
Mindfulness, Emotions, and Health (Shambhala, 1997); Consiousness at the
Crossroads: Conversations with the Dalai Lama on Brainscience and Buddhism
(Snow Lion, 1999).
NATALIE DEPRAZ
Natalie Depraz nhận
bằng tiến sĩ triết học năm 1993 chuyên về tác phẩm Husserl và hiện tượng học đa
chức năng. (phenomenology of intersubjectivity / intersubjectivity: intersubjectivity performs many functions (en wiki) đa chức năng?) Từ năm 1997 bà làm chủ nhiệm chương trình tại
Đại học triết học quốc tế (Paris), còn từ 2000 bà giảng dạy triết học tại Đại
học Sorbonne (Paris IV). Ấn phẩm của bà gồm: Transcendance et incarnation.
Le statut de l’intersubjectivité comme altérité à soi chez Husserl (Paris:
Vrin, 1995); Alterity and Facitity: New Pespectives on Husserl, biên tập
chung với D. Zahavi (Dordrecht: Kluwer, 1998); Lucidité du corps. De
l’empirisme transcendantal en phenómenólogie (Paris, 1993 trở đi); Phenomenology
and the Cognitive Sciences (với S. Gallagher và F. Varela, số đầu tiên do nhà xuất bản
Kluwer, tháng 1 năm 2002).
DAVID RITZ
FINKELSTEIN
David Ritz
Finkelstein nghiên cứu về bản chất mạng thần kinh (neural network), một dạng
não lượng tử tương đối (quantum relativistic brain) là ngành mà trong đó tự
nhiên vận hành như những mẫu hình lượng tử (quantum pattern) của quá trình sáng
tạo hay hủy diệt. Nghiên cứu này bàn đến không – thời gian lượng tử, logic
lượng tử, lí thuyết tập hợp lượng tử, hạt cơ bản, sự hấp dẫn lượng tử, đồng
thời nó cũng xuất hiện trên một số tạp chí như Physical Review, Classical and Quantum Gravity, International Journal
of Theoretical Physics dưới dạng do ông biên tập hay trong quyển Quantum Relativity gần đây của ông. Ông
từng là sinh viên trường trung học Stuyvesant, trường Đại học thành phố ở thành
phố New York
rồi Viện công nghệ Massachussets. Hiện ông sống ở Atlanta cùng vợ và con gái,
đồng thời làm việc và nghiên cứu tại Viện công nghệ Georgia với một số học trò
ông có nhiều ảnh hưởng như James Baugh, Sukanya Chakrabarti, Andrej
Galiautdinov, J. Michael Gibbs (học trò cũ), William Kallfelz, Zhong Tang.
Người cộng sự khoa học chính của ông là Heinrich Saller ở Viện Heisenberg, Munich.
DAVID GALIN
David Galin nhận bằng y khoa năm 1961 tại đại học Albert Einstein, New York.
Ông đang làm cận giáo sư (associate professor) chính thức khoa tâm thần học
đồng thời là chủ nhiệm phòng thí nghiệm phát triển thần kinh thuộc trường y
khoa, Đại học California San Francisco. Nghiên cứu chính của ông trong bốn mươi
năm qua là ngành sinh lí học thần kinh và sinh lí học tâm lí người cũng như
động vật, mà ông là tác giả được trích dẫn rộng rãi cho nghiên cứu về điểm dị
biệt và tương hợp của hai bán cầu não. Ông còn chỉ đạo nghiên cứu hội chứng
không hiểu chữ viết (dyslexia), khía cạnh sinh lí học thần kinh của ngành tâm thần
học. Mối quan tâm hiện thời của ông là sự trải nghiệm tâm linh nhìn theo góc độ
sinh lí học thần kinh, lí thuyết về ý thức và bản ngã, khôi phục quan niệm tâm
linh cho các dạng trí tuệ khoa học lẫn phi tôn giáo.
PIET HUT
Piet Hut là giáo sư trường Khoa học tự nhiên thuộc Viện nghiên cứu cao
cấp, Đại học Princeton. Dù ngành nghiên cứu
chủ yếu của ông là vật lí thiên văn, nhưng ông cộng tác liên ngành từ địa chất,
cổ sinh vật học đến khoa học nhận thức, vật lí hạt lẫn khoa học máy tính. Hiện
ông đang tham gia dự án tại Tokyo
nhằm mô phỏng động lực học thiên thể bằng máy tính với tốc độ lên tới một
Petaflops. Ông cùng Douglas Heggie vừa công bố tác phẩm The Gravitational Million-Body Problem (Nhà xuất bản đại học
Cambridge 2002). Ông tham gia Bàn tròn Husserl (Husserl Circle), là thành viên sáng lập
Hội Kira là tổ chức đã mở vài hội nghị mùa hè chuyên về các dạng của sự hiểu
biết.
THUPTEN JINPA
Thupten Jinpa được giáo dục theo truyền thống đạo Phật Tây Tạng, đã nhận
bằng Geshe Lharam (tương đương học vị tiến sĩ thần học tại phương Tây) ở trường
Ganden, đại học Ganden Monastic miền nam Ấn Độ. Ông dạy nhận thức luận và siêu
hình học theo truyền thống đạo Phật tại đại học Ganden trong vòng năm năm. Sau
đó ông nhận bằng cử nhân danh dự cùng bằng tiến sĩ tôn giáo học tại đại học Cambridge. Từ năm 1985 ông
trở thành người phiên dịch Anh ngữ chính thức cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông đã
dịch và biên tập vài tác phẩm của Đức Đạt Lai Lạt Ma sang tiếng Anh kể cả quyển
Good Heart: The Dalai Lama Explores the Heart of Christianity (Rider,
1996). Tác phẩm riêng của ông gồm: Song of Spiritual Experience: Tibetan
Buddhist Poems of Insight and Awakening (Shambhala, 2000); Tsongkhapa’s
Philosophy of Emptiness (sắp xuất bản tại nhà Curzon). Từ năm 1996 đến 1999
ông là nghiên cứu sinh hiệu Margaret Smith về tôn giáo phương Đông tại trường
Girton thuộc Đại học Cambridge. Hiện ông là chủ tịch đồng thời làm trưởng biên
tập để triển khai và ấn hành bộ sách về kinh đển Tây Tạng tại Viện nghiên cứu
kinh điển Tây Tạng ở Montreal,
Canada.
STEPHEN LABERGE
Stephen LaBerge nhận bằng tiến sĩ sinh lý học thần kinh tại Đại học
Stanford vào năm 1980. Ông được nhận vào ban Woodrow Wilson, ban của các trưởng
khoa, đồng thời là thành viên ban hậu tiến sĩ NIH tại Đại học Stanford. Hiện
ông là nghiên cứu gia ở khoa tâm lý tại Stanford và là giám đốc Viện sáng suốt
(Lucidity Institute). Ông thuộc hội đồng biên tập cho các tác phẩm như
Dreaming, Sleep and Hypnosis hay Consciousness and Cognition. Ông viết nhiều
sách và bài báo về lĩnh vực giấc mơ, về ý thức.
VICTOR MANSFIELD
Victor Mansfield là giáo sư vật lý và thiên văn tại Đại học Colgate đồng
thời giảng dạy vài khóa học phổ thông về Đạo Phật truyền thống Tây Tạng, về tâm
lý học trường phái Jung. Ông ngày càng quan tâm nhiều đến tư tưởng phương Đông
cũng như dạng tâm lý học trong sự thâm trầm tư tưởng (depth psychology) kể từ
khi ông đang làm tiến sĩ về vật lý thiên văn lý thuyết tại Đại học Cornell. Ông
đã ấn hành rộng rãi vài ấn phẩm về vật lý thiên văn lý thuyết cùng các nghiên
cứu liên ngành, kể cả quyển sách Synchronicity, Science, and Soul – Making .
Để xem một số ấn phẩm của ông xin vào trang www.lightlink.com/vic. Ông là Phật tử hơn 25 năm nay, đã theo học và
thực tập với nhiều vị lãnh đạo tâm linh tại Hoa Kỳ, châu Âu, Ấn Độ.
MATTHIEU RICARD
Matthieu Ricard đã là tu sĩ Đạo Phật hơn 20 năm qua tại tu viện Shechen
ở Nepal, ông còn là thông dịch viên Pháp ngữ cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông sinh
năm 1946 tại Pháp, nhận bằng tiến sĩ di truyền học tế bào tại Viện Pasteur dưới
sự hướng dẫn của François Jacob là người đã đạt giải Nobel. Ông viết một quyển sách được đề
cao là Animal Migrations (Hill and
Wang, 1969). Ông đến Ấn Độ lần đầu năm 1967 rồi bắt đầu học và thực tập đạo
Phật theo truyền thống Tây Tạng. Ông sống tại vùng Himalaya từ năm 1972 rồi tu
tập nhiều năm liền dưới sự dẫn dắt của ông Dilgo Khyentse Rinpoche là một trong
những vị thầy của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông là đồng tác giả quyển The Monk and the Philosopher (Schocken,
1999) được dịch sang hai mươi mốt ngôn ngữ viết về cuộc đối thoại giữa ông và
cha mình là ông Jean-François Revel vốn là
triết gia Pháp theo trường phái bất khả tri. Ông còn viết sách ảnh Journey to Enlightenment nói về cuộc đời
ông Khyentse Rinpoche (Aperture, 1996) cùng vô số bản dịch văn bản từ tiếng Tây
Tạng như quyển The Life of Shabkar
(State University of New York Press, 1994). Hiện ông vừa ấn hành một tác phẩm
đối thoại với nhà thiên văn Trịnh Xuân Thuận bàn về khoa học và đạo Phật được
có tựa đề cho bản Anh ngữ là The Quantum
and the Lotus (Crown, 2001). (Bản tiếng Việt: Cái vô hạn trong lòng bàn tay
– Phạm Văn Thiều dịch – NXB Trẻ 2005)
FRANCISCO J. VARELA
Cố học giả Francisco
J. Varela là đồng sáng lập Viện Tinh thần và Cuộc sống, ông nhận bằng tiến sĩ
sinh học tại Đại học Harvard năm 1970. Mối quan tâm của ông tập trung vào cơ
chế của sự nhận thức cũng như ý thức, và ông đã công bố trên hai trăm bài trên
các tạp chí khoa học về đề tài này. Ông viết, biên tập mười lăm quyển sách mà
trong đó có quyển The Embodied Mind
(MIT, 1992) và gần đây là Naturalizing
Phenomenology (Stanford University Press, 1999), The View from Within: First-person Methods in the Study of
Consciousness (London: Imprint Academic, 1999). Cho đến thời điểm ông mất
vào tháng năm 2001 thì ông là Foundations de France Professor về khoa học nhận thức
và nhận thức luận tại trường Ecole Polytechnique, trưởng nghiên cứu tại Centre
Nationale de la Recherche Scientifique (CNRS), là trưởng bộ phận Neurodynamics
ở LENA (Laboratory of Cognitive Neurosciences and Brain Imagining) thuộc bệnh
viện Salpetrière, Paris.
WILLIAM S. WALDRON
William Waldron giảng về tôn giáo vùng Nam Á tại đại học Middlebury ở
Middlebury, bang Vermont.
Ông tốt nghiệp đại học ngành Nam Á học và nhận bằng tiến sĩ Phật học tại Đại
học Wisconsin-Madison sau nhiều năm sống, học tập ở Ấn Độ, Nepal, Nhật Bản.
Lĩnh vực nghiên cứu của ông là Đạo Phật Nam Á, nhấn mạnh vào tính đối chiếu và
tương giao văn hóa trong triết lý về tinh thần. Ông có viết bài về ālayavijñāna
là một quan niệm về nhận thức của tiềm thức trong đạo Phật theo truyền thống
Yogācāra.
B. ALAN WALLACE
Nhiều năm là tu sĩ
tại các tu viện đạo Phật ở Ấn Độ và Thụy Sĩ, Alan Wallace đã giảng Phật pháp và
cách thực tập tại Châu Âu và Hoa Kỳ từ năm 1976 đồng thời đóng vai trò phiên dịch
cho rất nhiều học giả cũng như đạo sư Tây Tạng, trong đó có Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Sau khi tốt nghiệp ngành vật lý và triết học của khoa học hạng summa cum laude
tại Đại học Armhest, ông nhận bằng thạc sĩ rồi tiến sĩ ở Đại học Stanford với
nghiên cứu chủ đạo là phương pháp chiêm nghiệm trong việc thực hành nhiếp tâm.
Ông từng là giảng viên tại Trung tâm cao cấp Tây Tạng học (Thụy Sĩ), Viện
nghiên cứu Phật học Hoa Kỳ thuộc UCLA, và Đại học California Santa Barbara.
Hiện là học giả kiêm thiền sư độc lập, ông giảng dạy thiền định khắp Châu Âu và
Hoa Kỳ và là tác giả, biên tập viên, dịch giả, đồng tác giả hơn ba mươi tác
phẩm về đạo Phật Tây Tạng, về y khoa, ngôn ngữ, văn hóa cũng như về sự tương
hợp giữa khoa học và tôn giáo. Những ấn phẩm của ông gồm Choosing Reality: A
Buddhist View of Physics and the
Mind (Snow Lion, 1996), The Bridge
of Quiescence: Experiencing Buddhist
Meditation (Open Court, 1998), The Taboo of Subjectivity: Toward a New
Science of Consciousness (Oxford,
2000).
ANTON ZEILINGER
Anton Zeilinger sau khi được giáo dục trong ngành cổ học Hi La đã theo
học vật lý tại Đại học Vienna.
Ông là giảng viên cũng như giảng viên mời ở nhiều trường khắp nơi trên thế
giới, trong đó có Đại học Vienna, MIT, Đại học Melbourne, Đại học kỹ thuật
Munich, College de France và Đại học Merton. Hiện ông là giáo sư vật lý tại
Viện vật lý thực nghiệm thuộc Đại học Vienna.
Nghiên cứu chủ đạo của ông thuộc lĩnh vực cơ sở của cơ học lượng tử mà ông cùng
nhóm nghiên cứu qua nhiều năm đã tìm được một số thí nghiệm cơ bản có tính quan
trọng, trong đó gần đây nhất là quantum teleportation.
Từ năm 1987 tôi bắt đầu dự nhiều hội thảo về khoa học trên tinh thần đa
văn hóa giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma với nhiều nhà khoa học phương Tây xuất chúng do
Viện Tinh thần và Cuộc sống (Mind and Life Institute – www.mindandlife.org) tổ chức. Động cơ
thôi thúc tôi viết quyển sách này là từ đề nghị của Đức Đạt Lai Lạt Ma dành cho
tôi sau một buổi hội thảo như thế, viết về một tác phẩm tập hợp các tiểu luận
chuyên đề so sánh đạo Phật với khoa học nhận thức (cognitive science) cũng như
với khoa học vật chất (physical science – lưu ý: khác với physics hay vật
lí). Qua sự tương giao giữa đạo Phật với khoa học tự nhiên, các tác giả không
những đánh giá phương pháp suy luận giữa phương Đông và phương Tây mà còn làm
sáng tỏ những giả định tiềm ẩn trong hai thế giới quan khác biệt này. Nhờ cách
này chúng tôi gắng xua đi trở ngại ngăn cản sự đối thoại thi vị giữa đạo Phật
với khoa học đồng thời tiên liệu là mỗi nguyên tắc của đôi bên sẽ mang lại tư
duy mới mẻ cùng một thử thách sâu sắc cho vài phương pháp hay giả thuyết khác.
Sau phần lời nói đầu là phần lời giới thiệu, trong đó tôi viết một bài
giới thiệu tổng quan quyển sách kèm quan điểm về nan đề trong các công trình
đối chiếu giữa đạo Phật và khoa học hiện đại, tất nhiên đây là quan điểm của
riêng tôi chứ không phải của những tác giả khác trong sách này. Tôi cũng viết
lời dẫn ngắn cho mỗi tiểu luận ở cả ba phần của sách. Phần một hợp tuyển này
đưa ra hai cách khái quát có tính lịch sử về sự giao kết giữa đạo Phật và khoa
học hiện đại. Phần hai tập trung vào sự tương giao giữa đạo Phật và khoa học
nhận thức. Đây là ngành khoa học tự nhiên có nhiều nghiên cứu hết sức quan
trọng về nhận thức cùng quan hệ của nhận thức với thế giới xung quanh, và nó
cũng là ngành khoa học có quan hệ gần với đạo Phật nhất do hai bên có chung
nhiều đề tài quan tâm. Vì thế mà ngành này cũng được đề cập nhiều nhất trong
các hội nghị “Tinh thần và cuộc sống” giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhóm
khoa học gia kể từ năm 1987 đến ngày nay do Adam Engle cùng Francisco J. Varela
khởi xướng mà tôi cùng Thupten Jinpa đã dự hầu hết với tư cách thông dịch viên.
Chỉ sau hội nghị lần thứ chín không lâu, tháng 5 năm 2001 ông Francisco Varela
mất; vậy là chúng tôi mất đi một người bạn thân thương, một đồng nghiệp đáng
kính. Tác phẩm này dành để tưởng nhớ đến ông, người mà chúng tôi không bao giờ
quên.
Phần ba nói về đạo Phật và khoa học vật chất. Vì ngày nay vật lí là cơ
sở cho mọi ngành khoa học tự nhiên nên một cuộc đối thoại giữa đạo Phật và khoa
học không thể không đề cập đến cách tiếp cận của ngành này với thế giới vật
chất. Thế kỉ 20 đã chứng kiến ngành vật lí mà cụ thể nhất là cơ học lượng tử đã
nêu lên nhiều chủ đề nhận thức luận, bản thể luận thách thức quan niệm truyền
thống của toàn bộ lĩnh vực khoa học trước đó. Vài chủ đề như thế sẽ được thảo
luận nhiều lần trong sách này nhằm nêu lên cách nhìn từ khoa học cũng như từ
triết lí đạo Phật nhất là theo Trung quán tông (Madhyamaka), chẳng hạn chủ đề
về quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Sách còn có tiểu luận của nhà vật lí Piet
Hut nói về thách thức từ đối thoại liên lĩnh vực này đến bối cảnh đời sống
thường ngày.
Tôi tin tưởng là chuyên luận này sẽ cuốn hút không những giới khoa học,
Phật học, giới học giả tôn giáo mà còn lan rộng hơn, đến mọi bạn đọc quan tâm
sự tương giao giữa phương Đông – phương Tây hay giữa khoa học và tâm linh nói
chung. Tôi mong công trình này sẽ phản ánh quan điểm đa chiều khi tìm về bản chất
của nhân tính, trí tuệ và của tổng thể vũ trụ, nhằm mang lại thịnh vượng hơn
cho nhân loại.
Tôi xin ngỏ lời cảm ơn Đức Đạt Lai Lạt Ma về nguồn cảm hứng cho sự đối
thoại liên lĩnh vực và đa văn hóa ngài đã tạo ra từ nhiều năm nay. Tôi cũng gửi
lời cảm ơn đến Hội John E. Fetzer, Hội Richard Gere đã hỗ trợ chương trình; đến
các học giả, tu sĩ, khoa học gia đã dự phần vào tác phẩm này; đến Tajine
Goorjian đã sắp xếp mục lục cho sách; đến các vị Jonathan Slutsky, Holly
Hodder, Robin Smith, Alessandro Agelini, Susan Pensak ở Nhà xuất bản đại học
Columbia đã giúp công trình này trở thành hiện thực.
Discussion about this post