CON NGƯỜI & TRIẾT LÝ NHÂN SINH
Nhụy Nguyên
“Con người là
chủ nhân vũ trụ”, nên đổi cách nói thông dụng này thành: “Con người là chủ nhân
của trái đất”; như vậy cũng chỉ tạm chấp nhận được. Bởi trên không gian quả địa
cầu còn nhiều cảnh giới khác nhau cùng tồn tại. Đơn cử như không gian của người
âm. Con người là chủ nhân, là trung tâm. Vậy điều trọng yếu ta phải trang bị là
gì nếu trước hết không phải triết lý nhân
sinh. Triết lý nhân sinh là gì? Đó chính là phần cơ bản trong đạo Phật. Đạo
Phật nêu ra một cách chi tiết và sinh động về các tầng trời, cõi Phật – có vẻ
xa vời. Nên chỉ bàn đến điều gần nhất với con người, ấy là sự sống sau cái
chết. Có hay không cõi âm? Chưa cần trực ngộ, chưa cần chau mày nhăn trán nghĩ
suy; đất nước chúng ta có hẳn một Viện nghiên cứu về vấn đề này. Một nhà ngoại
cảm bằng khả năng có được “từ cõi chết trở về” đã nói chuyện với hơn mười nghìn
liệt sĩ, những tưởng thừa lý do để đục bỏ ba chữ “chết là hết” cùng một dấu
chấm than chạm khắc trên tấm bia chấp thủ của bao người. Gần đây, Phan Thị Bích
Hằng, qua sự tiếp xúc với người âm đã thấy được sự nhiệm màu: sống không tu
tập, chỉ có đạo Phật mới cứu được con người bên kia thế giới. Trong một đại lễ
cầu siêu, cô Hằng cũng thấy Thượng Dương hoàng hậu do sân hận với Nguyên Phi Ỷ
Lan nên sau hàng ngàn năm vẫn chưa “siêu thoát”, vẫn còn chen lấn cùng chúng
sinh bốc cháo và đồ vãi cúng…
Để người âm được giải thoát, người trụ lễ
cầu siêu nhất thiết phải là bậc minh tu, Hòa thượng, bậc chứng quả đắc đạo… Nên
siêu thoát ở đây, thiết nghĩ phải bỏ
trong ngoặc kép, bởi siêu thoát đúng nghĩa phải là thoát khỏi luân hồi sinh tử,
ví như lên được Tây phương Cực lạc. Có thể ví sự siêu thoát trên như một cán bộ
tại cơ quan nọ trước đây làm việc trong căn phòng tối tăm chật hẹp, ẩm mốc, nay
được chuyển tới gian phòng rộng, thoáng đãng sạch sẽ hơn; đó cũng có thể là
tầng trời thấp nào đó, chứ chưa thay đổi cảnh giới! Mỗi cảnh giới có thời gian
khác nhau. Chúng ta biết các liệt sĩ được tiếp chuyện với nhà ngoại cảm, sau
mấy chục năm họ vẫn ở “tuổi hai mươi”, vẫn không già [bao nhiêu]. Biết đâu ở
cõi ấy, một năm chỉ bằng một ngày ở cõi dương. Đời Hán có Lưu Thần và Nguyễn
Triệu một lần lên núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ, phải lòng liền cưới làm
vợ. Nửa năm [ở trời] chợt nhớ cõi trần da diết nên quyết định xuống thăm bà con
họ hàng. Đâu ngờ chẳng còn ai. Ngẩn ngơ hỏi han mãi mới biết người thân giờ đã
trở thành thiên cổ qua bao đời. Thượng Dương hoàng hậu sau hàng ngàn năm, nhà
ngoại cảm cũng thấy bà “như cũ”. Như vậy có thể người âm sau nhiều năm [ngồi
chưa ấm chỗ] họ vẫn chưa đến thời điểm chịu nghiệp quả tạo tác ở đời hoặc họ đã
nhận chịu sự thống khổ vô biên nhưng “bất khả lộ”, hay họ chưa phải đầu thai
vào các nẻo trong lục đạo. Hoặc gần giáo lý Phật hơn, chính là do còn chấp nê
thân mình; đó chỉ là sự tác động của thần thức, là “ảo” (thực tế thần thức của
họ đã đi đầu thai); nếu [hồn] họ chịu tới chùa nghe kinh, nghe giảng Pháp, niệm
Phật khắc sẽ thâm nhập được vào một cõi nào đó không tệ để rút ngắn thời gian
cập bến bờ Tịnh độ. Các nhà ngoại cảm nói chung chưa thể nhìn thấy cảnh giới
của địa ngục, ngạ quỷ, a tu la… (phải người chứng Đạo mới thấy được). Họ chỉ mới
thấy cảnh giới Thân trung ấm và
“những vấn đề xung quanh”. Điều này cũng là một hạn chế lớn khi soi vào định
luật nhân quả, rộng hơn là không tránh khỏi khiến ai đó hiểu không thật đúng sự
vi diệu của Phật pháp. Ngay cả người thân của Phật. Vào thời điểm xảy ra chiến
tranh, Mục Kiền Liên liền xuống trần gian hốt quyến thuộc của Phật vào bát mang
lên trời lánh nạn; cuộc chiến chấm dứt, Ngài xuống lại trần gian đổ bát ra thì
thấy… toàn máu!
Đạo Phật hàng
ngày nhắc nhở nhân loại hãy thức tỉnh. Bộ óc của con người thật vĩ đại, ai uyên
bác không chừng nạp được hết thảy kiến thức liên
mạng; chỉ trừ Phật pháp. Mức độ nghiêm trọng hơn khi nhân loại gán cho đạo
Phật là một tôn giáo. (Chữ giáo gắn
sau Phật phải mang nghĩa giáo dục mới đúng, chứ không phải là
giáo thuyết. Thật nực cười: tôn giáo [Phật giáo] lại không có giáo chủ. Đạo
Phật hoàng toàn không có giáo chủ! Trong Kinh Nền Tảng Đức Tin có hai
điều sau đủ thấy Đức Thế Tôn không phải giáo chủ: (1) chớ vội tin một điều
gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở; (2) chớ vội tin một
điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên
thuyết. Phật chỉ giảng ra những điều mình thấy [lúc đại triệt đại ngộ]. Ai
nghe rồi hãy hành trì và tự chứng xem
có đúng không? Không đủ cơ duyên thì tự bỏ Phật, không một văn bản nào ràng
buộc. Từ thời điểm 500 vị chứng quả A la hán đầu tiên do tổ Ca Diếp tập hợp để
làm chứng cho việc chép lời Phật dạy [thành Kinh], (hễ một trong 500 vị ấy bảo
lời này không đúng của Phật lập tức phải bỏ ra) cho đến nay đã rất nhiều người
“giấu mặt’ chứng thánh quả, vẫn chưa ai “giải thiêng” một câu Kinh Phật. “Ta là
Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành” – câu nói của thầy giáo Thích Ca Mâu Ni nhẹ như mây khiến những người tu cúi lạy
[tượng Phật] vạn lần còn mang ơn trọng.
Các tầng cảnh
giới gần như là sự đặc định từ vũ trụ. Nếu cõi người không cần pháp luật để trị
ác nhân thì vũ trụ này cũng đâu cần tạo ra các tầng để ân sủng Phật và ngược
lại là đọa đày chúng sinh. Phật thấy chúng sinh quằn quại trong địa ngục, nhớp
nhúa quăng quật trong cõi súc sinh, giằng xé nhau trong cõi ngạ quỷ và ganh đua
tham đắm trong cõi người, a tu la nên đã cùng các Bồ tát hạ mình xuống cứu vớt.
Nếu chúng sinh thấy được công ơn vô lượng của các Ngài, thì sẽ không một ai lại
kêu: “Sao cuộc đời lắm bất công oan trái!”. Con người không chịu tu để vói tay
“lên trời” nên cứ đinh ninh “nho còn xanh quá”. Một người nông dân nghèo họ
thường ăn cơm vào buổi sáng để đủ sức lên đồng; cơ may nào đó được lên phố làm
việc công sở lương bổng kha khá thì chuyển qua dùng bún cho buổi sáng. Sau một
thời gian dư dả họ lại tìm đến những quán ăn sáng xa xỉ hơn, dẫn đến tình trặng
tìm kiếm “cảm hứng” cho vị giác. Một
người tu, nhờ năng lượng của thiền định và thanh lọc tâm tịnh sáng, một thời
gian họ thấy không còn nhu cầu điểm tâm sáng nữa; chuyên tâm miên mật hơn người
tu trở thành một thiền sư nhập thất hàng tháng hàng năm trời không cần ăn uống.
Người nông dân [trở thành cán bộ] kia sẽ không hề chạm tay được vào niềm hạnh
phúc vô bờ của người tu [trở thành thiền sư] khi đã dứt được cái sự ăn uống. Và
nhiều niềm hạnh phúc tối thượng khác như dứt phiền não, ngũ dục lục trần… những
thứ mà người phàm càng cố khoanh vùng hưởng thụ càng thấy bất lực khi thời gian
dành cho sự tỉnh thức của mình dần ráo cạn.
Con người – chủ
nhân của trái đất lẽ nào lại phớt lờ căn cốt triết lý nhân sinh?! Không tin có đời sau là không muốn biết đến căn
cốt triết lý nhân sinh. Không tin nhân
quả báo ứng là không muốn biết đến căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin luân hồi sinh tử là không muốn biết đến
căn cốt triết lý nhân sinh. Không tin nếu tu tập đúng theo cách chỉ dạy của
Phật sẽ đứng hẳn ra ngoài Tam giới trọn vẹn hết khổ đau là không muốn biết
đến căn cốt của triết lý nhân sinh, v.v. Con người lẽ nào muốn trang bị tất cả những
triết lý khác trước rồi mới trang bị điều căn cốt của triết lý nhân sinh?
Con Người tin
sâu căn cốt triết lý nhân sinh, nghĩa là tin sâu lời Phật; sẽ không còn nghĩ
ác, không còn hành vi bất thiện, dẫu cho sự nghĩ và hành vi ấy không ai nào
biết đến. Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm mười hai có 3 câu: “Đại hải Long Vương lúc làm mưa/ Có thể phân biệt đếm từng giọt/ Ở
trong một niệm biết rõ ràng”. Hằng ngày ta vẫn giấu những việc xấu – gọi là
nghiệp; và khoe khoang việc tốt, những việc liên quan đến từ thiện – gọi là
đức. Mới chỉ Đại Hải Long Vương thôi trong một niệm đã đếm được bao giọt mưa
trong một trận mưa, huống hồ các Bồ tát và Phật. Phật trong một niệm biết bao
nhiêu lá rụng trong rừng. Tựa như lúc ta đóng ngoặc kép dòng tên một người nổi
tiếng cho vào google rồi enter, trong một giây sẽ cho ra hàng triệu kết quả.
Phật thấu suốt đức nghiệp của hết thảy chúng sinh. Những việc xấu ngay cả mới
khởi ý niệm vi tế thôi đã có trung tâm xử
lý nhân quả ghi lại. Còn với việc thiện, ta chỉ nên nói ra ở mức độ vừa
phải để khơi dậy lòng tốt từ những người xưa nay chưa biết đến khái niệm “mở
hầu bao” hiệp nghĩa. Hãy dè sẻn ở mức tối đa hành động thiện nguyện của mình,
mà tốt nhất hãy lấy minh chứng công đức từ những người thật ta từng chứng kiến,
càng gần ta và càng gần người ta muốn phục thiện càng tốt.
Sau 7 ngày thiền
định dưới cội Bồ đề, Phật chứng quả đầu tiên là Túc mạng minh – thấy rõ ràng những đời
quá khứ, vị lai. Cuộc đời một sinh mệnh trong Tam giới như sợi dây
giăng ngang trời với vô vàn nút thắt, mỗi nút đánh dấu một kiếp, quãng giữa các
nút dài ngắn tùy thuộc vào số mạng, vào các kiếp [là người trần hay người trời,
a tu la hay súc sinh, ngạ quỷ…]. Con người nói chung đều phải bám vào quả địa
cầu quay tít mù và luôn trong cảm giác lo sợ run tay mỏi gối văng vào các nẻo
thấp thua. Dẫu sao, biết sợ điều ấy cũng xem như bước giác ngộ đầu tiên vậy.
N.N
Discussion about this post