CON KHỈ LẠI THỨC TRONG MỖI GIẤC THIỀN
Nhụy Nguyên
Trong Hoàng Bá truyền tâm pháp yếu (Trần Tuấn
Mẫn dịch) có ghi lại lời của Sơ tổ
Đạt Ma: “Hết thảy chúng sinh vốn là Phật, không cần nhờ tu mà nên. Nay chỉ cần
nhận biết bổn tâm mình, thấy bổn tính mình, đừng cầu tìm chi khác nữa. Làm sao
nhận biết tâm mình? Chính cái ‘đang nói năng đây’ là tâm”. Vậy, yếu chỉ của Đạt
Ma khi sang du hóa ở Trung Hoa nước Ngụy vào năm 520 sau TL hẳn là “Trực chỉ
nhân tâm”.
Trực chỉ nhân
tâm, tức đã biết có tâm, đã nắm được tâm? Vậy nên cần quay lại câu hỏi ban đầu:
“Làm sao nhận biết tâm mình?”. Nhiều người vỗ ngực Phật tại tâm, thực chất họ
chưa biết tâm. Con người được sinh ra vốn có thân và tâm. Hầu như ai
cũng biết đến thân, chăm sóc chiều chuộng nó, đặc biệt với các sao… Họ dùng
mỹ phẩm, thời trang, nói chung dùng tiền vuốt ve thân thái quá. Nên dĩ nhiên tâm bị bỏ quên. Một không gian lãng mạn
với những lời hoa mỹ, những nốt nhạc ru tình; họ đến chốn thơ mộng thưởng thức
nhiều món ngon với cả thị giác lẫn vị giác… tất cả những thứ ấy khiến con
người nhầm tưởng đã có một cuộc sống tràn đầy [nội] tâm, hay rõ hơn là đã nắm
được tâm. Đến như [nhị tổ] Huệ Khả xưa từng chặt
đứt một cánh tay thể hiện ý hướng cầu đạo; khi Sơ tổ bảo “đưa tâm ta an cho thì
lắc đầu: “Con kiếm mãi mà chẳng thấy tâm đâu”. (Ảnh: Nhụy Nguyên)
Cũng một miếng
ăn, nhưng ta biết ta đang ăn, đang cảm thấy ngon hay dở, lòng rộn sướng vui hay
bực tức, đấy mới chính là khoảnh khắc ta bắt đầu nhận diện được tâm [tham].
Cũng một lời nói tưởng rất tình cảm là nhắc đến anh (chị) X ra giữa mọi người,
nhưng ta biết sự nhắc đó chỉ để những người khác nói hùa sai sót của X; mức độ
vi tế đó nếu biết mà lấy làm xấu hổ, lúc đó ta thực đang biết đến tâm. Cũng một
hành động móc tiền cho người ăn xin, nhưng ta biết chỉ để nở mặt với ai đó ngồi
bàn bên; biết ngay bao phần trăm cơ hội trong việc thiện đó, chính là tâm đang lên tiếng trong mình. Vân vân.
Tâm chính là viên ngọc, còn thân chỉ là cái hộp đựng nó. Càng chăm sóc thân,
tâm càng dễ lu mờ tì vết. Biết tâm và chăm sóc tâm, tâm sẽ phát sáng khiến thân
thể trong suốt như pha lê.
Nhận biết tâm
trong cuộc sống đã khó, giữ được tâm bình lặng trong Thiền định càng nan giải
khôn cùng. “Không có hiện
tượng nào lướt đi nhanh chóng như cái tâm. Khó mà tìm được một sự so sánh nào
để diễn tả được sự lướt đi nhanh chóng của tâm” (Kinh Anguttara Nikàya). Tịnh Danh pháp
chủ từng ví “tâm như khỉ vượn”, rất khó chế ngự, rất khó điều phục. “Giống như một con khỉ bay nhảy trong rừng
sâu khi thì chụp cành này, rồi buông bỏ lại chụp cành khác, rồi chạy chụp cành
khác nữa (Samyutta Nikàya, II, trang 95). Trong Con
đường dẫn đến Phật quả – Những Giáo lý về Pháp Bảo của sự Giải thoát (Thanh Liên dịch), Gampopa cũng
tự vấn: “Có bao giờ bạn nhìn thấy bức tranh tuyệt đẹp minh họa các giai đoạn
của thiền định? Bạn thấy một con voi, một con thỏ, một con khỉ, và một người
đàn ông. Con voi là tâm ta, con thỏ là sự hôn trầm, con khỉ là sự xao lãng và
người đàn ông là sự chú tâm. Ở cuối trang giấy, con khỉ đang dùng một sợi giây
để kéo con voi đến nơi nào nó muốn”. “Phục hổ” Hòa thượng Quảng Khâm, bậc thánh
nhân đạt đến công phu chuyên ngủ ngồi nghiệm: “Xuất gia là để trị cái tâm lăng
xăng như khỉ”; “Tam bộ nhất bái” Hư Vân thiền sư tự thuyết, lúc trẻ ông cũng
“tâm nhiều tham cầu, như khỉ vượn nhảy nhót hái trái cây”…
Trong rất nhiều
từ ngữ dùng để chỉ mức độ nghiêm trọng của tâm như: điều tâm, nhiếp phục tâm,
khai phá tâm,… thì thuần hóa tâm
thiết nghĩ chuẩn xác và đắc địa nhất. Ngày xưa những loài vật hoang ở rừng rú,
hung tợn và độc ác, con người bắt chúng về nhốt lại rồi lên kế hoạch thuần hóa, đến lúc chúng sống bên người
mà không làm hại đến [tính mạng] ta, thậm chí giúp, cứu ta, lúc đó mới hoàn
tất. Tâm của người không tu tập tập từ nhỏ, lớn rồi mới tu chẳng khác con ngựa
hoang, hay như bò tót mà đấu sĩ cưỡi trong các lễ hội ở Tây Ban Nha. Nó lồng
lộn, vừa nhảy vừa xoay sao hất bằng được người cưỡi rơi xuống đất, rồi thừa
thắng hung hãn lao tới húc. Mức độ quấy nhiễu còn tệ hơn, ấy là lúc ta đối mặt
với con khỉ. Khi Thiền, tâm chúng ta như con khỉ chuyền cành, liên tục
không ngừng nghỉ. Tính dữ của [tâm]
bò tót đã lặng, nhưng tâm-con-khỉ lại có vũ khí rất lợi hại. Có một clip về
động vật hoang dã quay cảnh con khỉ cứ bám nhành cây mà bớp tai đấm vào đầu con
hổ đang rất mệt mỏi cố ngủ dưới bóng cây. Mỗi lần bị bợp, con hổ vùng dậy tức
tối xem chừng có thể xé tan xác khỉ nhưng chịu không làm gì được. Nhoáng cái
khỉ đã ở trên cao. (Tranh của Ohara Koson)
Nhắc lại một
công án Thiền: một người nài nỉ xin bằng được vị sư câu thần chú. Sư bằng lòng
cho, chỉ dặn: Lúc niệm thần chú này đừng nghĩ đến con khỉ, ắt sẽ linh nghiệm.
Người kia mừng rỡ và đầy tự tin đáp: Tưởng gì chứ không nghĩ đến con khỉ thì
quá dễ. Và thế là mỗi lần niệm câu thần chú, con khỉ cứ xuất hiện quấy nhiễu.
Anh càng xua đuổi, khỉ càng nhảy vào đầu dẫm đạp lên từng chữ của câu thần chú.
Đã biết “tâm như khỉ vượn” thì nên tìm cách thân thiện với những biến thái của
tâm chứ ngăn chận có chăng là ảo tưởng. Carolyn Rose Gimian từng viết: “Trong
truyền thống Phật giáo, người ta thường dùng sự so sánh tương đồng
giữa kinh nghiệm tự ngã với một con khỉ bị kẹt trong một căn nhà
trống. Con khỉ ích kỷ và tự mãn nhảy bổ vào tường rồi dội ra, cảm
thấy bị nhốt và cố gắng để thoát ra. Nó nghĩ nó bị giam trong ngôi
nhà và không hề biết rằng chính nó đã tạo ra nhà giam này. Nó cũng
không hề ý thức được rằng nó như vậy là thực sự ổn rồi. Bạn và
tôi có thể không khác gì mấy anh chàng khỉ đó”.
Hãy tưởng tượng
đến một vùng tối, cánh cửa nhà ai đột nhiên mở và ánh sáng chiếu ra; ngồi
thiền, lúc ấy tâm ta quan sát không rời những ai ngang qua vùng sáng, như một
camera hồn nhiên, không dùng lý trí phân tích can dự. Tổ Hoàng Bá truyền tâm
pháp cho một học trò như sau: “Vừa kiến chấp thấy Phật, liền bị Phật ngăn ngại;
vừa kiến chấp thấy chúng sinh, liền bị chúng sinh ngăn lại. Hễ có kiến chấp
phân biệt phàm Thánh, sạch dơ, liền bị các kiến chấp ấy ngăn ngại. Vì những thứ
ấy ngăn ngại tâm ông, nên ông cứ luân chuyển mãi, loay hoay như con khỉ, buông
cái này, chụp cái kia, không lúc nào ngưng”. Những tiếng guốc, những giọng nói,
những tiếng động, những sự việc quá khứ vị lai sẽ thầm lặng lướt qua tâm, hãy
để chúng trôi đi và không “kiểm soát vé” dẫu rằng tâm ta đang được canh gác
nghiêm mật. Nếu một câu chuyện đâu đâu ghé qua “cửa ải” rồi rủ tâm đi luôn, gần
hay đã quá xa thì nhất khoát “kẻ gác tâm” cũng phải tỉnh thức quay về.
Có rất nhiều
kiểu quán trong thời Thiền. Tứ Niệm Xứ
gồm quán Thân [bất tịnh], Thọ [khổ], Tâm [vô thường], Pháp [vô
ngã]. Người tu khi thiền cũng có thể niệm “A Di Đà Phật” từ lúc vào thiền cho
đến lúc xuất thiền. Dòng quán niệm nối nhau không ngừng nghỉ trong sự ngưỡng
vọng ơn cao dày Đức Phật, trong nỗi khao khát tột đỉnh được trở về “bản quán”
Cực Lạc. Ấy tạm gọi là Thiền-Tịnh song tu. Pháp
ngữ của Thiền sư Hư Vân: “Nếu như niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì có
khác gì với tham thiền! Tham thiền đến độ cả hai năng và sở đều mất thì có khác
gì với thật tướng niệm Phật! Thiền tức là Thiền trong Tịnh độ. Tịnh độ tức là
Tịnh độ trong Thiền. Thiền và Tịnh độ vốn tương trợ lẫn nhau”. Thiền không chỉ ngồi thiền. Thiền phải có ở hầu như mọi
hành động suốt ngày đêm của ta. Nhất là trước lúc ngủ, người tu nhất tâm niệm
“A Di Đà Phật” đến lúc nào ngủ quên kì thôi. Cần kiên quyết thực hiện cho thành
nếp, hễ cứ nằm xuống để ngủ là tự động câu Phật hiệu bật lên trong tâm; nửa đêm
lỡ có tỉnh dậy lại niệm tiếp. Đó âu cũng là cách dụi cái bóng của con khỉ chìm
xuống đáy tâm.
Con khỉ trong
thuyết Tiến hóa, đến nay các nhà khoa
học vẫn chưa giấu được cái đuôi vào đâu. Cũng như Ngộ Không chạy trốn Nhị Lang
thần, lúc biến thành túp lều vẫn để lộ… cột cờ. Loài người không là quá trình
tiến hóa từ loài khỉ, nhưng nếu ai khởi niệm tu giải thoát, thì con khỉ đã sẵn
có trong tâm rồi.
N.N
Discussion about this post