CĂN BẢN ĐỨC HẠNH
Trái tim thánh thiện, tâm tư tỉnh thức, nguyên nhân hạnh phúc
và những nguyên tắc cản bản khác của Đạo Phật.
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 06/04/2011
Tôi tin rằng tất cả mọi người có cùng bản chất tự
nhiên. Ở những mức độ tinh thần cảm xúc,
chúng ta giống nhau. Tất cả chúng ta đều
có khả năng để trở thành những con người hạnh phúc cùng dễ thương và chúng ta
cũng có khả năng để trở nên những con người rất tệ hại và tai hại. Khả năng giống nhau cho những thứ này hiện diện trong tất cả chúng ta; vấn đề quan
trọng là cố gắng để thúc đẩy những khía cạnh tích cực và lợi ích và cố gắng tiết
chế những phương diện tiêu cực. Những
phương diện tiêu cực sẽ đem đến kinh nghiệm khốn cùng một cách không thể tránh
khỏi. Trước mắt chúng ta có thể đón nhận
một sự hài lòng nào đấy, nhưng về lâu về dài sự tiêu cực luôn luôn sẽ đem đến
những kinh nghiệm bất toại. Nói cách
khác, những điều tích cực luôn luôn mang đến sức mạnh nội tại cho chúng
ta. Với nội lực, sẽ có ít sợ hãi hơn và
tự tín vững vàng hơn. Với sức mạnh nội tại,
sẽ dễ dàng hơn để mở rộng cảm nhận ân cần của chúng ta đến người khác mà không
có bất cứ cản trở nào, cho dù là tôn giáo hay văn hóa, v.v… Do thế, điều rất
quan trọng là nhận ra khả năng này đối với vấn đề tốt và xấu cùng để phân tích
một cách cẩn thận.
Đây
là những gì chúng tôi gọi là sự khuyến khích những giá trị nhân bản sâu sắc
hơn. Giá trị nhân bản sâu sắc hơn là từ
bi – một cảm nhận của sự chăm sóc và dâng hiến cho người khác. Những phẩm chất đức hạnh cốt yếu nhân bản là cần yếu, và không có
chúng, chúng ta không thể là những người hạnh phúc. Đây là điều gì đấy rất quan trọng cho dù
chúng ta là những người có tin tưởng hay không tin tưởng trong bất cứ một niềm
tin tôn giáo nào.
Trong
loài người có một số người mà khí chất tinh thần thích hợp với niềm tin tôn
giáo, và việc sử dụng niềm tin tôn giáo để thúc đẩy những giá trị căn bản của
nhân loại là điều gì đấy rất tích cực. Những tôn giáo khác biệt quan trọng của thế giới một cách căn bản có
cùng thông điệp, thông điệp của từ ái, bi mẫn và tha thứ. Những phương pháp để thúc đẩy những điều này
có thể khác nhau, nhưng khi những truyền thống này ít hay nhiều hướng đến cùng
một mục tiêu – mà đấy là một đời sống hạnh phúc hơn, trở nên một người từ bi hơn
và một loài người từ bi hơn – thì những
phương pháp khác nhau không biểu hiện một vấn nạn. Đạt đến thân chứng tối hậu mới là những gì
quan trọng.
Thực Hiện Giáo
Huấn
Một
khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một
bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Trong cách này, chúng ta mới có thể có những kinh nghiệm nào đấy, và với
các kinh nghiệm này chúng ta sẽ đi đến hiểu biết giá trị sâu xa hơn. Sự thực hành là rất cần yếu.
Nếu
chúng ta không nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thực hiện giáo huấn vào
trong đời sống hằng ngày của chính chúng ta qua thực hành, thì sẽ có một hiểm họa
của việc theo đuổi một ấn tượng thông thường hay hình thức sáo rỗng. Thí dụ, khi người ta nói về Ki Tô Giáo, hình
tượng đầu tiên mà người ta nghĩ đến là một thánh giá to tướng bên trong thánh
đường hay nhà thờ. Có lẻ, khi ai đấy nói
về Đạo Phật, biểu tượng mà chúng ta nhận thấy là một Đức Phật tĩnh tọa bên
trong một Phật điện khổng lồ của chùa viện. Đặc biệt, khi người ta nói về Phật Giáo Tây Tạng, có lẻ quý vị sẽ cảm nhận
ấn tượng của một tu sĩ cầm một cái trống hay chập chỏa; có thể người ta nghĩ về
một tu sĩ đeo một mặt nạ trông kỳ dị. Đây là những gì mà chúng tôi muốn nói về một ấn tượng thông thường hay
hình thức khuôn sáo. Có một loại nguy hiểm
nào đấy trong điều này.
Khi
người nào đấy đề cập đến Đạo Phật, đặc biệt về Phật Giáo Tây Tạng, quý vị phải
có một cảm nhận về lòng vị tha, lòng vị tha vô hạn, và một sự thấu hiểu về tính
không hay thực tại tối hậu. Chúng ta phải
trau dồi những nhận thức của chúng ta để khi chúng ta suy nghĩ về Đạo Phật Tây
Tạng, những hình tượng đầu tiên trong tâm thức chúng ta là những khái niệm như
lòng vị tha, lòng từ bi phổ quát, và sự thấu hiều về bản chất sâu xa của thực tại. Đây là loại nhận thức mà chúng ta phải trau dồi.
Bốn Chân Lý Cao
Quý
Như
quý vị có thể nhận thức, cốt lõi giáo huấn của Đức Phật được đặt trên sự hiểu
biết về Bốn Chân Lý Cao Quý. Bốn Chân Lý
Cao Quý là nền tảng của Đạo Phật. Đây là
những sự thật về khổ đau, nguồn gốc của nó, khả năng chấm dứt khổ đau, và con
đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau.
Giáo
huấn về Bốn Chân Lý Cao Quý được đặt nền tảng trong kinh nghiệm của con người. Nền tảng sự tồn tại của con người là khát vọng
căn bản cho sự tìm cầu hạnh phúc và xa tránh khổ đau. Hạnh phúc mà chúng ta khao khát và khổ đau mà
chúng ta lãng tránh được mang đến như một kết quả của nguyên nhân và điều kiện
(nhân duyên). Sự thấu hiểu cơ cấu nhân
quả của khổ đau và hạnh phúc là những gì mà Bốn Chân Lý Cao Quý đề cập đến.
Để
thấu hiểu cơ cấu này, Đạo Phật phân tích những khả năng đa dạng của nhân quả. Thí dụ, người ta có thể tranh luận rằng những
trãi nghiệm của chúng ta về khổ đau và hạnh phúc xãy ra mà không có lý do gì,
không có một nguyên nhân nào. Đó là một
khả năng đã bị phủ nhận trong giáo lý nhà Phật. Cũng có một khả năng là những trãi nghiệm của chúng ta được tạo nên hay
làm ra bởi một thần thánh siêu nhiên nào đấy. Khả năng này cũng bị bác bỏ trong Đạo Phật. Cũng có một khả năng của một nguyên lý cơ bản
về một loại vật chất nguyên sơ nào đấy mà có thể là căn nguyên cho nguồn gốc tất
cả mọi thứ và sự kiện. Điều này cũng bị
loại bỏ trong Đạo Phật.
Đã
phủ nhận tất cả những khả năng siêu hình này, giáo huấn nhà Phật trình bày một
sự thấu hiểu về tiến trình nhân quả trong dạng thức của cội nguồn tương liên
duyên khởi. Đấy là nói rằng, trãi nghiệm
khổ đau và hạnh phúc của chúng ta không phải hình thành bởi chính chúng hay bởi
những nguyên nhân nào đấy hiện hữu một cách độc lập, cũng không phải bởi sự phối
hợp nào đấy của những thứ này. Lập trường
của Đạo Phật là tất cả mọi vật và mọi sự kiện, bao gồm kinh nghiệm của chúng ta
về khổ đau và hạnh phúc, hình thành từ một kết quả của một tiến trình của tương
liên duyên khởi – sự gặp gở của vô số nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên).
Vai Trò Chính Yếu
của Tâm Thức
Nếu
chúng ta nhìn vào giáo huấn của Bốn Chân Lý Cao Quý một cách cẩn thận, nhận thức
căn bản mà chúng ta tìm thấy là tầm quan trọng bậc nhất của sự hiểu biết, tâm
thức hay ở đây là ý thức, đóng vai trò quyết định trong kinh nghiệm của chúng
ta về khổ đau và hạnh phúc.
Khi
Đạo Phật nói về bản chất tự nhiên khổ đau, có những mức độ khác nhau về khổ
đau. Thí dụ, có loại khổ sở mà rất rõ
ràng đối với tất cả chúng ta, như kinh nghiệm đau đớn. Điều này tất cả chúng ta có thể nhận thức như
khổ đau. Và có một mức độ thứ hai của khổ
đau, mà trong dạng thức thông thường chúng ta định nghĩa như những cảm giác
khoái lạc. Tuy thế, trong thực tế, những
cảm giác khoái lạc là khổ đau bởi vì chúng có hạt giống của sự không thỏa mãn
trong chúng.
Cũng
có một mức độ thứ ba của khổ đau, điều mà thuật ngữ Đạo Phật gọi là sự khô đau
cùng khắp của điều kiện (hành khổ). Trong một ý nghĩa, chúng ta có thể nói rằng mức độ thứ ba này của khổ
đau chỉ đơn thuần là thực tế của sự hiện hữu của chúng ta như những chúng sinh
bất giác, những kẻ là đối tượng của các cảm xúc, tư tưởng tiêu cực và hành động
nghiệp báo. Chính sự hiện hữu của chúng sinh gắn chặc với những cảm xúc
và nghiệp báo tiêu cực là trong thực tế khổ đau và là nguồn cội của bất toại ý.
Nếu
chúng ta nhìn vào những loại khổ đau này, chúng ta thấy rằng tất cả chúng căn bản
đặt nền tảng trong thể trạng tâm thức của chúng ta. Khi chúng ta nói về những vọng tưởng đã thúc
đẩy chúng ta vào việc hành động trong những cung cách tiêu cực, thì đấy là những
thể trạng của tâm thức, những thể trạng tư tưởng vượt ngoài sự kiểm soát. Do vậy, khi Đạo Phật liên hệ đến chân lý về
nguồn gốc của khổ đau, tập đế, chúng ta nói về một tình trạng vô kỷ luật và
chưa thuần hóa của tâm thức đã làm sinh khởi một thể trạng bất giác và khổ
đau. Một cách cơ bản, tập đế, cội nguồn
của khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, và chính khổ đau chỉ có thể được thấu hiểu
qua dạng thức của một thể trạng tâm thức.
Giáo
huấn nhà Phật diễn tả sự chấm dứt của khổ đau, diệt đế, như thể trạng tối thượng
của hạnh phúc[i]. Điều này không nên được hiểu trong dạng thức
của cảm giác khoái lạc; chúng ta không nói về hạnh phúc ở trình độ của cảm giác
hay cảm xúc. Đúng hơn, chúng ta đang
liên hệ đến trình độ cao nhất của hạnh phúc, là điều được đánh dấu bằng sự tự
do hoàn toàn khỏi khổ đau và vọng tưởng. Một lần nữa, đây là một phẩm chất tinh thần, một thể trạng của tâm thức. Do thế, chúng ta phải thấu hiểu bản chất tự
nhiên của tâm thức.
Khi
chúng ta nói về chân lý của con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, đạo đế,
chúng ta cũng nói về những trình độ khác nhau của tâm thức, những mức độ đa dạng
của sự thân chứng. Vì thế nhằm để thấu
hiều Bốn Chân Lý Cao Quý, chúng ta phải thấu hiểu vai trò chính yếu mà tâm tư,
ý thức, hay sự nhận biết, hoạt động trong sự quyết định kinh nghiệm của chúng
ta về khổ não và đớn đau.
Luân Hồi và Niết
Bàn
Tiến
trình thực sự mà qua đấy tâm thức tạo nên sự hiện hữu bất giác và khổ đau mà
chúng ta trãi qua được diễn tả bởi Nguyệt Xứng trong tác phẩm Hướng Dẫn Đến
Trung Đạo, ở đấy ngài tuyên bố, “Một thể trạng không thể kiểm soát của tâm thức
làm phát khởi những vọng tưởng mà chúng đưa đẩy chúng sinh vào trong những hành
động tiêu cực là điều mà sau đó tạo nên môi trường mà chúng sinh sinh sống.”
Khi
cố gắng để thấu hiểu bản chất tự nhiên của việc tự do khỏi khổ đau mà Đạo Phật
nói đến (niết bàn), chúng ta có thể nhìn vào một đoạn trong Nền Tảng của Trung
Đạo, mà ở đấy trong một ý nghĩa nào đấy Long Thọ đã đặt ngang hàng sự tồn tại bất
giác (luân hồi) và sự hiện hữu giác ngộ (niết bàn). Điểm mà Long Thọ đề xuất trong việc đặt ngang
hàng sự tồn tại bất giác và hiện hữu giác ngộ là chúng ta không nên có ấn tượng
rằng có bất cứ loại bản chất bên trong nào đấy hay biểu hiện thực chất nào đấy
đến sự hiện hữu của chúng ta, mà nó là giác ngộ hay bất giác.
Từ
quan điểm của tính không, luân hồi và niết bàn là đồng đẳng trống rỗng về bất cứ
thực tại bản chất hay biểu hiện bên trong. Điều phân biệt một tình trạng bất giác với thể trạng giác ngộ là sự nhận
thức hay tỉnh giác về tính không của luân hồi là điều có thể được gọi là niết
bàn. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng đấy
là một thể trạng của tâm thức – một sự thấu hiểu hay nhận thức về tính không –
làm khác biệt luân hồi với niết bàn.
Đưa
ra những chi tiết này, là điều rất hợp lý để phát sinh câu hỏi: Có phải Đạo Phật cho rằng mọi thứ không là gì
cả mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức?
Đây
là một câu hỏi quan trọng và chúng ta phải có những sự đáp ứng suy luận khác
nhau từ những đạo sư Phật Giáo. Trong một
trường phái, những đại sư đã tranh luận rằng trong sự phân tích cuối cùng,
vâng, mọi thứ, bao gồm cả kinh nghiệm khổ đau và hạnh phúc của chúng ta, không
là gì cả mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức chúng ta.
Nhưng
cũng có một trường phái khác luận chiến kịch liệt chống lại hình thức chủ quan
cực đoan. Trường phái thứ hai này tiếp tục
chủ trương rằng, mặc dù con người, trong một ý nghĩa nào đấy, thấu hiểu mọi thứ
như sự tạo tác của tâm thức, nhưng điều này không nghĩa là mọi thứ không phải
là gì cả mà chỉ là tâm. Họ tranh luận rằng,
con người phải duy trì một mức độ khách quan rằng mọi thứ thật sự tồn tại. Mặc dù ý thức, hay tâm, đóng một vai trò
trong việc tạo dựng kinh nghiệm của chúng ta và thế giới trong cùng một lúc,
nhưng họ cho rằng có một thế giới khách quan có thể tiếp cận được đến tất cả mọi
đối tượng, tất cả mọi kinh nghiệm.
Có
một quan điểm khác mà tôi nghĩ chúng ta nên thấu hiểu với sự quan tâm đến khái
niệm của Đạo Phật về tự do hay niết bàn. Long Trí (Nagabuddhi), đệ tử của Long Thọ, nói rằng, “Giác ngộ hay tự do
tâm linh không phải là một tặng phẩm mà ai đấy có thể cho bạn, cũng không phải
là hạt giống giác ngộ là sở hữu của người khác.” Điều hàm ý ở đâylà khả năng cho giác ngộ tồn
tại một cách tự nhiên trong tất cả chúng ta.
Long
Trí tiếp tục hỏi, “Niết bàn là gì, giác ngộ là gì, tự do tâm linh là gì?” Ngài trả lời, “Giác ngộ chân thật không là gì
cả mà là khi bản chất tự ngã của một người hoàn toàn tác chứng.” Khi Long Trí nói về bản chất tự ngã của con
người, ngài liên hệ đến những gì Đạo Phật gọi là linh quang căn bản, tính bản
nhiên sáng rở nội tại của tâm. Ngài
nói, khi điều này biến thành hiện thực trọn vẹn, đấy là giác ngộ, đấy là Phật
quả chân thực.
Khi
chúng ta nói về giác ngộ, Phật quả hay niết bàn, mà đấy là hoa trái từ sự nổ lực
tâm linh của con người, chúng ta đang nói về một phẩm chất của tâm thức, một thể
trạng của tâm. Tương tự thế, khi chúng
ta nói về những vọng tưởng và các nhân tố làm chướng ngại sự tác chứng của
chúng ta về thể trạng giác ngộ ấy, chúng
ta cũng nói về những thể trạng của tâm, những trình trạng lừa dối của tâm thức. Một cách cá biệt, chúng ta đang liên hệ đến
những tình trạng lừa dối làm nền tảng trong
một cung cách bóp méo về sự nhận thức tự ngã của con người và thế giới. Phương tiện duy nhất mà nhờ đấy chúng ta có
thể loại trừ cung cách hiểu biết sai lầm, hay bóp méo của nhận thức về tự ngã
và thế giới, là qua sự trau dồi tuệ giác nội quán vào trong tính bản nhiên chân
thật của tâm, và bản chất thật sự của tự ngã và thế giới.
Tóm
lại, quan điểm căn bản trong giáo huấn của Đức Phật về một mặt, làm quân bình
tình trạng vô nguyên tắc của tâm thức với sự tồn tại của khổ đau và bất giác; về
mặt khác, là một thể trạng trật tự của tâm thức với hạnh phúc, giác ngộ hay tự
do tâm linh. Đây là điểm căn bản.
Tư Tưởng Thích
Đáng và Không Thích Đáng
Từ
kinh nghiệm đời sống thường ngày của chúng ta, chúng ta biết rằng có những loại
tư tưởng có thể được phân loại như thích đáng và rồi thì có những loại khác là
không thích đáng. Thí dụ, nếu tư tưởng đặc
thù của chúng ta phù hợp với thực tại, thế thì chúng ta có thể gọi đấy là một
tư tưởng hay kinh nghiệm thích đáng hay giá trị. Trái lại, chúng ta cũng trãi nghiệm những tư
tưởng và cảm xúc hoàn toàn mâu thuẩn đến cung cách những sự việc [thật sự như
thế nào].
Trong
kinh luận Đạo Phật, việc đạt đến giải thoát tâm linh tối thượng được nói là hoa
trái của những tư tưởng và cảm xúc thích đáng. Thí dụ, theo giáo huấn nhà Phật, những nhân tố chính yếu làm nguyên nhân
cho việc đạt đến giác ngộ được nói là tuệ giác nội quán chân thực vào trong
tính bản nhiên của thực tại. Tuệ giác nội
quán chân thực vào trong tính bản nhiên của thực tại là một cung cách thích
đáng của việc hiểu biết sự vật, chẳng hạn như bản chất tự nhiên của thế giới và
v.v…
Do
vậy, chúng ta có thể nói rằng Phật quả tự nó là một hệ quả của những tư tưởng
và cảm xúc thích đáng. Trái lại, chúng
ta có thể thấy kinh nghiệm bất giác (luân hồi) như sản phẩm của những cung cách
kinh nghiệm và thấy biết sự vật.
Theo
Đạo Phật, nền tảng gốc rể của sự hiện hữu bất giác được nói là vô minh si ám
(avidya). Đặc trưng chính của sự si mê
ám tối này là một cung cách bóp méo nhận thức thế giới và chính chúng ta. Gốc rể khổ đau của chúng ta và sự kinh nghiệm
bất giác căn cứ trên sự lệch lạc căn bản này. Một lần nữa, tư tưởng và cảm xúc không thích đáng – những cung cách
không thích đáng trong việc thấy biết và trãi nghiệm sự vật – là nguồn gốc căn
bản của khổ đau và bất giác của chúng ta. Điểm chính trong sự phân tích cuối cùng là mối
quan hệ giữa những hình thức thích đáng của tư tưởng và cảm xúc với hạnh phúc
và tự do tâm linh, và những hình thức không thích đáng của tư tưởng và cảm xúc
với khổ đau và bất giác.
Trong
sự thực tập của Đạo Phật về rèn luyện tâm, sự nhấn mạnh là dấn thân trong một
tiến trình mà nhờ đấy những hình thức thích đáng của tư tưởng và cảm xúc có thể
được phát triển, làm nổi bật và hoàn hảo, và cũng như những hình thức không
thích đáng của tư tưởng và cảm xúc bị làm mất tác dụng, xói mòn và cuối cùng bị
loại trừ.
Điều
gì đấy chúng ta phải thấu hiểu khi tiếp cận một kỷ thuật như sự rèn luyện tâm
thức của Đạo Phật là công việc uyển chuyển mà chúng ta đang dấn thân vào. Kinh điển nhà Phật đề cập 84,000
loại tư tưởng tiêu cực và tàn phá, tương ứng với tám muôn bốn nghìn phương pháp
đối trị. Điều quan trọng là không nên có
một dự đoán mơ mộng rằng bẳng cách nào đấy, nơi nào đấy, mà chúng ta có thể sẽ
tìm ra một chìa khóa thần diệu để giúp chúng ta loại bỏ mọi thứ.
Do
vậy, chúng ta cần quyết tâm hơn và kiên nhẫn hơn. Thật sai lầm để có một sự tiên đoán rằng một
khi chúng ta bắt đầu thực tập Phật Pháp, trong một thời gian ngắn, như một tuần,
chúng ta sẽ trở nên giác ngộ. Điều này
là không thể và không thực tế.
Trau Dồi Tuệ
Giác và Phương Tiện Thiện Xảo
Nếu
chúng ta phân loại những sự tiếp cận phức tạp, đa dạng đến sự rèn luyện tâm thức
và đem đến sự thuần thục tinh thần, chúng ta có thể xác định hai phương diện
chính. Một là phương diện phát triển tuệ
giác nội quán hay trí huệ. Thứ hai là
khía cạnh phương pháp hay “phương tiện thiện xảo”. Không gian của tuệ giác nội quán hay trí huệ,
chính yếu tập trung trên tiến trình cho việc phát triển, trau dồi và làm nổi bật
những cung cách thích đáng của việc hiểu biết và những hình thức vững chắc của
tư tưởng.
Tám
Đề Mục Chuyển Hóa Tâm [ii]
tóm tắt những giáo huấn then chốt của cả tuệ trí và phương tiện thiện xảo. Sự tập trung chính yếu là những đối trị mà có
thể làm cho hành giả đáp ứng với hai nhân tố chính.
Nhân
tố thứ nhất là những tư tưởng sự yêu mến tự ngã của chúng ta và cảm giác vị kỷ
mà chúng đặt nền tảng trong ấy. Các đối
trị cho điều này một cách chính yếu liên hệ đến việc trau dồi lòng một là lòng
vị tha, hai là lòng từ bi, và ba lòng bồ đề (bồ đề tâm) – nguyện vọng vị tha để
đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Những loại thuộc giải này hướng một cách trực
tiếp đến việc phản kháng tư tưởng vị kỷ
và yêu mến tự ngã[iii].
Nhân
tố thứ hai là bám víu, chấp trước[iv] vào thứ gì đấy thường còn, tự ngã tồn tại
vĩnh cửu. Đối trị cho điều này chứa đựng
trong giáo huấn tuệ trí của Tám Đề Mục Chuyển Hóa Tâm. Do thế, có thể nói rằng Tám Đề Mục Chuyển Hóa
Tâm chứa đựng trong ấy căn bản toàn bộ những giáo huấn của Đức Phật trong một
hình thức khác biệt.
Hai Chân Lý
Nhìn
vào tinh hoa giáo huấn của Đạo Phật bằng cách này trong dạng thức của tuệ trí
và phương pháp cũng đáp ứng một cách kỳ diệu đến quan điểm của Long Thọ. Ngài nói rằng toàn bộ giáo huấn của Đức Phật
phải được hiểu trong khuôn khổ của hai chân lý (nhị đế) – chân lý quy ước thế
gian (tục đế) và chân lý tối hậu (chân đế).
Tính Không
Hai
dòng cuối cùng của Tám Đề Mục Chuyển Hóa Tâm nói rằng, “Cảnh giác rằng mọi thứ
là vọng tưởng,/ Nguyện cho tất cả, không chấp thủ, được tự do khỏi xiềng xích.”
Những dòng này trình bày sự cần thiết để bao gồm sự thực tập của hành giả trong
một sự thấu hiểu về tính không. Chúng
nói về việc cần yếu để dấn thân của hành giả trong sự rèn luyện tâm thức với sự
hiều biết trọn vẹn về chân lý tối hậu, đấy là tính không. Điều này có nghĩa là chúng ta phải phát triển sự tỉnh thức rằng mọi thứ là
vọng tưởng, không chấp trước, chúng ta sẽ tự do khỏi xiềng xích.
Điều
đòi hỏi chúng ta trước khi chúng ta có thể trau dồi sự thấu hiểu về mọi thứ
trong dạng thức vọng tưởng – như bản chất là để phủ nhận thực tại cụ thể của mọi
thứ, bao gồm cả “tự ngã” của chính chúng ta. Không có sự phủ nhận thực tại cụ thể của hiện hữu, thì không thể phát
triển nhận thức bản chất vọng tưởng, lừa dối của mọi thứ.
Làm
thế nào để chúng ta phát triển sự thấu hiều này về sự không thực chất hay tính
không của mọi thứ? Chỉ tưởng tượng rằng
mọi thứ là không và trống rỗng sự hiện hữu thực chất là không đủ. Chỉ đơn giản lập lại dòng này trong tâm, như
một công thức thì không đủ; điều ấy cũng không thích đáng. Điều được đòi hỏi là phát triển một tuệ giác
chân thật vào trong tính không qua một tiến trình lý trí phân tích và qua một
tiến trình phản chiếu.
Một
trong những cung cách tác động nhất để thấu hiều mọi thứ là trống rỗng bản chất
thực tế là thông hiểu bản chất phụ thuộc tương liên của thực tại (hay tính
duyên khởi). Điều đặc thù về tính nguyên
thỉ phụ thuộc duyên sinh là trong sự thấu hiểu này có một khả năng để tìm thấy
một con đường trung đạo giữa sự hư vô hoàn toàn về một phía, và thực tế hay sự
tồn tại độc lập về mặt khác. Thế nên, bằng
việc tìm ra con đường trung đạo chân thực, chúng ta có thể đi đến sự thấu hiểu
và tuệ giác chân chính vào trong tính không.
Một khi loại tuệ giác nay thâm nhập vào trong
tính không được tìm thấy do thiền quán qua một tiến trình dựa trên lý trí và
quán chiếu sâu sắc, rồi thì có một loại phẩm chất mới khi chúng ta tác động qua
lại với thế giới và những đối tượng chung quanh chúng ta. Có một năng lực mới để sự dấn thân của chúng
ta với thế giới bởi vì có sự tỉnh thức này về vọng tưởng – như bản chất của thực
tại. Luận điển khuyến nghị rằng hành giả
nên dấn thân trong sự rèn luyện với sự tỉnh thức này về bản chất vọng tưởng lừa
dối của thực tại.
Nhận Xét Kết Luận
Ngay
cả mặc dù bây giờ tôi đã già hơn, nhưng dường như sức khỏe thân thể của tôi
hoàn toàn tốt đẹp. Do vậy, cho đến khi
nào thân thể này có thể quản xuyến, toàn bộ đời sống của tôi tôi sẽ cống hiến
cho người khác. Ngay cả những sự đóng
góp nhỏ, tôi cũng luôn luôn sẳn sàng để phục vụ quý vị tối đa mà tôi có thể. Chân thành cảm ơn.
This teaching was sponsored by the Conservancy for
Tibetan Art and Culture, a non-profit organization committed to preserving
Tibet’s unique cultural heritage. To obtain a complete transcript of these
teachings, contact CTAC or Wisdom Publications (www.wisdompubs.org). An
audiotape of this teaching is available from Snow Lion (www.snowlionpub.com).
Basically Good, His Holiness the 14th Dalai Lama
Ẩn Tâm Lộ ngày 04/05/2011
http://www.shambhalasun.com/index.php?option=content&task=view&id=2383
[i] Niết bàn là hạnh phúc tối thượng – Kinh Pháp
Cú
[ii]
Xem Tám Đề Mục Chuyển Hóa
Tâm
[iii]
Ái trong mười
hai nhân duyên – Luyến ái
[iv]
Thủ trong mười hai nhân
duyên – Chấp ngã
Discussion about this post