BA TÔI VÀ THIỀN KHÁN THOẠI ĐẦU (*)
Cao Ngọc Hồng Ân (Australia)
Hồi đó, mỗi đêm trước khi đi ngủ, mẹ thường dạy cho thuộc ca dao tục ngữ. Mẹ hay ê a hát cho thằng con bé tí bập bẹ nói theo: “Còn cha gót đỏ như son. Đến khi cha mất, gót con đen sì”.
Tôi ngô nghê hỏi mẹ, vậy là không có cha kỳ gót chân cho hả mẹ. Mẹ nói ừ, được kì gót chân cho là cả một hạnh phúc. Còn nhỏ xíu, tôi chẳng biết gì… chỉ biết mỗi cuối tuần ba về, chở hai mẹ con đi ăn, đi ngắm phố. Ba hay cõng tôi lên tận 4 tầng chung cư nhà cậu mợ. Ba giấu mẹ, lén
mua cho tôi nho, táo… những thức ăn xa xỉ thời bấy giờ. Chỉ biết ba từ mỏ đá về nhà trên chiếc môtô màu đỏ pha vàng đất của những con đường lầy
lội, áo ba cũng vàng và người nồng nặc mùi đất núi, và bụi đường xa.
Từ bé đến giờ, tôi không có thói quen đợi Tết, mà chỉ đợi đến hết tuần. Những ngày cuối cùng sót lại của một tuần, gia đình tôi vui như hội… Tôi chỉ nhớ còn nhỏ, mặc cộc một chiếc quần đùi, hai răng sún, cắt đầu ngố như lấy cái muỗng dừa úp lên. Hễ lần nào nghe tiếng động cơ xe réo ì ì ngoài cổng, tôi tưng tưng, tơn tơn chạy ra… hét lên inh ỏi: “Mẹ ơi! Ba về! Ba về kìa!”.
Lúc bé, trong tôi, vẽ lên rõ nhất hình ảnh về ba như thế này. Ba rất nóng tính, nên đừng bao giờ đem bài vở hỏi ba chỉ cho. Ba cũng rất dễ dụ, nên đồ chơi nào mẹ không mua mà nói với ba thì sẽ có tất cả. Nghĩ
như vậy, nhưng ít khi nào tôi nói ba mua con cái này, cái kia. Tôi tập theo mẹ, im lặng… nhưng ba là một ông tiên, ba lúc nào cũng đoán trước những suy nghĩ, những mong muốn của thằng con bé tẹo, tròn trĩnh. Ba là vậy. Lúc nào cũng vậy, đừng nói gì hết, vì ba đã tính toán xa rất xa rồi.
Khi bọn trẻ cùng trang lứa mải mê với trò công an bắt cướp, đá banh, bắn bi…, tôi ở trong nhà với mẹ. Hồi ấy, nhà tôi nằm sâu trong Quân khu 7, giữa mịt mù cỏ, bông lau, cây mắt mèo, và những hàng xoài xanh xa xa,
những hàng cây bạch đàn xào xạc. Thi thoảng có vài anh bộ đội đi tuần ngang nhà, hát vu vơ vài câu nhạc từ chiến khu xa xăm.
Mỗi đêm mưa, là bầy dế, cào cào, châu chấu rên lên rĩ rả. Trò vui nhất là được cầm kiếm gỗ đánh nhau với mẹ, tập theo mấy bộ phim chưởng thời bấy giờ. Hay tha thẩn bắt cào cào bỏ vào rổ nuôi. Vớt nòng nọc sống
trong cái xe bồn rỉ sét đem chơi trò bán hàng. Hôm nào đó thì nắn đất sét thành con này, con nọ rồi ngồi chơi một mình.
Nghĩ lại, thời ấy người ta chưa phát hiện bệnh tự kỷ rầm rộ như bây giờ, chứ nếu không mẹ cũng đã lo sốt vó thằng con trai cưng bị bệnh gì liên quan đến thần kinh. Và mỗi lần ba về, là ánh nắng chiếu qua những ngày tháng chầm chậm trôi ấy. Ba chở 2 mẹ con về thăm ngoại, xách nước tưới cây, nuôi gà, nuôi khỉ… Ba làm mọi thứ để không gian ấy không trôi chậm nữa, mà sinh động lên.
Ba không muốn thằng con trai quen theo cách sống của mẹ cứ lầm lũi chịu đựng, hay phải buồn buồn nhìn theo những món hàng đắt tiền chưng bày trong mấy tủ kiếng sáng choang. Ừ, ba cho con gót chân son để bước nhẹ tênh giữa đời.
Tôi không hiểu ba. Giống như chưa bao giờ hiểu. Vì ba xa quá, giống như ông Phật trên bàn thờ vậy. Mình chỉ cầu xin Phật, chứ chưa bao giờ mình tự hỏi mình có hiểu cái ông bằng cát đá, xi măng kia có ẩn ý, hay buồn khổ gì không. Đến bây giờ, khi lớn lên, vững vàng hơn trước, tôi mới hiểu ba sau khi đã tìm hiểu ông bằng cát đá trên chùa ấy ổng dạy điều gì…
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi,
đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật, người ta hay thờ bằng tượng ngồi trên một chiếc bè nhỏ xíu giữa bát ngát sóng cuộn mà gương mặt vẫn y nguyên, không vui không buồn, mình gọi là bình thản… Mấy
Thầy dạy, đó mới thật là An Nhiên.
Nhưng hiểu là một chuyện, còn bước vào cảnh giới ấy thì là một chuyến đi rất dài. Có lẽ, tôi chỉ vừa dợm chân bước trên con đường hiểu ba. Có hiểu mới có thương. Còn thương trước, rồi hiểu sau, chắc chỉ duy nhất thằng tôi này đang làm. Nhưng vì tình thương để mình cố gắng hiểu một ai đó để rồi thương cho đúng cách, đúng nghĩa là thương. Chắc như vậy cũng được.
Ai cũng có nội kết, ba cũng vậy. Đời tặng ba chút đau khổ, đạo tặng ba chút bình yên. Bù trừ, đôi khi công bằng, đôi khi bất công.
Người ta tin rằng có một vị Phật, nguyện hoá thân là quỷ dữ để độ chúng sanh. Tôi cũng tin như vậy trong ngày chân ướt chân ráo vào với bể
Phật mênh mông. Người ta tin Phật hoá ra quỷ dữ chứ ít thấy ai đi tìm Phật trong quỷ.
Ngay cả ba, đến bây giờ tôi mới nhận ra ba là người khéo phương tiện,
khéo giáo hoá, khéo độ đời. Đứng giữa biển, là Phật lớn thì an nhiên, tĩnh tại, còn Phật nhỏ hay Phật vừa vừa thì thoáng chút sóng gió, cũng thoáng chút nhẹ nhàng.
Mẹ là hình ảnh để quán Từ Bi, còn đối với tôi, ba là một dạng thiền công án. Lúc choáng váng, ngợp thở, khó hiểu, gút mắc lúc |
Tôi tin vào Phật Ngàn Tay bao nhiêu, thì giờ tôi lại tin ba bấy nhiêu. Vị Phật nhỏ, vừa vừa đang ở bên tôi. Sao không vén lớp bèo tấm mỏng tanh là những quạu quọ, cộc cằn, khó chịu để thấy bên dưới, mặt nước trong vắt đến mê người.
Rồi từ sự trong veo ấy, tôi thấy ba dịu dàng ngồi xức thuốc đỏ cho vết thương của mẹ mau lành, thấy ba sừng sững như núi và vui như hội khi
dẫn vợ con đi ăn sáng, uống cà phê, thấy ba thông tuệ như một vị Đạo sư
khi giảng cho hai mẹ con nghe về Thập nhị nhân duyên, lục căn lục trần…
Vị Đạo sư ấy kỳ lạ đến duyên dáng khi cứ miệt mài hỏi hai “đệ tử”: Có ai hỏi Đạo gì không? Làm ơn hỏi đi!
Thấy ba như một cánh chim lớn, một tàn cây vững vàng mỗi lần con nghĩ
về chuyến đi lên phố lạ, thấy ba luýnh quýnh đến tội nghiệp khi mỗi lần
mẹ truyền dịch mà bình nước sắp hết, thấy ba ung dung rãi thóc cho chim
trời và cùng mau nước mắt mỗi khi thấy ai đó có hoàn cảnh khó khăn, thấy ba chi li từng đồng cho bản thân mà cũng hào phóng đến bất tận với vợ con…
Còn nhiều lắm, ba tôi đứng giữa 2 khoảnh trời trái ngược nhau. Tìm ba
giữa đạo đế thấy ba mênh mông hiểu biết, tìm ba giữa đời để hiểu ba từng trải, trôi nổi bể dâu.
Ba giữ cho con trai ba gót đỏ như son, để đôi tay con chưa từng chai sạm, để con hãnh diện với bạn bè cùng lứa, để môi con không ngớt nở
nụ cười… Rồi ngày kia, con vô tình nhận ra, chân ba cứng như đá, đôi bàn tay như gọng kềm (mẹ và con hay nói vậy), môi ba cười đôi lần méo xệch.
Ai đó có lần khen, con có nụ cười trong veo, và đầy từ bi… nhưng không ai biết rằng ba chở bao sương gió, chở bao nhiêu nhọc nhằn để nụ cười ấy còn mãi trên môi con. Ai đó có lần khen, con viết văn hay, suy nghĩ sâu sắc… nhưng không ai biết rằng ba trằn trọc bao đêm giữa chợ đời
để những suy nghĩ cao xa cứ tuôn mãi theo những ngón tay con bay trên bàn phím. Không ai biết cả, chỉ có mình con biết. Vậy mà có lúc, con tưởng chừng đã quên.
Mùa Vu lan, mọi người hay viết về mẹ. Tôi cũng đã viết, rất nhiều
về mẹ. Vì tôi gần mẹ, trong từng khoảnh khắc trưởng thành, mẹ luôn bên cạnh. Có lần, tôi còn bảo mẹ là vị Phật nào đó trên chùa, thương tôi mà xuống ở cạnh bên để chăm lo, nhắc nhở.
Trong kinh Vu Lan Báo Hiếu, Ngài Mục Kiền Liên chỉ quán tìm mẹ giữa vòng trần lao, chứ không thấy nhắc đến cha. Rồi kinh Báo Hiếu cũng
dạy về công ơn của mẹ nặng hơn cha gấp bội lần đến nỗi xương mẹ nhẹ hơn
xương cha, vì mẹ phải sinh nở đớn đau. Đó là những điều có thật. Và hình ảnh người mẹ dễ làm người ta xúc động. Vì mẹ thui thủi bên con, lo con từng miếng ăn giấc ngủ. Đến quê người ta cũng dành quê của mẹ, chứ không phải của ba:
Như vậy, hình ảnh mẹ dễ làm hành giả phát khởi tâm từ bi trong các pháp quán niệm. Có vị Thầy dạy rằng, hãy quán chúng sanh trong nhà lửa đau khổ khôn cùng là mẹ ngươi trong muôn ngàn kiếp – kẻ đã từng mang nặng 9 tháng 10 ngày ròng rã rồi tách da xẻ thịt sanh ra ngươi rồi nuôi nấng chăm bón ngươi từng muỗng sữa, chén cháo, bát cơm .v.v. Mẹ là hình
ảnh để quán Từ bi, còn đối với tôi, ba là một dạng thiền công án. Lúc choáng váng, ngợp thở, khó hiểu, gút mắc, lúc thì mênh mông, hiền hoà, giản dị. Một dạng khởi đầu từ hiểu mà thương, dạng kia lại từ thương mà hiểu. Nhưng cuối cùng vẫn là hơi thở… Hơi thở cho tôi tiếp xúc với mẹ tôi, ba tôi vừa thương vừa hiểu.
Cao Ngọc Hồng Ân (Australia)
________________
(*) Toạ thiền khán công án hay thoại đầu
Phương pháp tu nầy gọi là ‘’lấy độc trừ độc’’. Vì có một nghi vấn trong đầu thì mọi vọng tưởng đều lặng mất. Cho nên người khán công án hay thoại đầu, phải tin tưởng tuyệt đối thầy mình đến thọ giáo, ông dạy một câu như ‘’trước khi cha mẹ chưa sanh là gì’’ v.v…, liền phải sống chết với câu ấy, cho đến ngày ngộ đạo mới thôi. Khi khán thoại, nên đề khởi câu thoại đầu lên, sau chữ gì? Một sức
mạnh nghi kéo dài im lặng, khi sức nghi yếu dần liền đề khởi nữa, cứ như thế mãi. Câu nói đặt thành nghi vấn là thoại, cái nghi kéo dài im lặng là đầu. Hay nói cách khác hơn, trước khi chưa đặt nghi vấn là đầu, nghi vấn dấy lên là thoại. Chủ yếu dùng cái nghi đập chết mọi vọng tưởng. Khi cái nghi đã thành khối, khỏi cần khởi mà lúc nào cũng nghi, gọi là ‘nghi tình’. Một khi khối nghi tan vỡ ra là ngộ đạo. Thế nên nói ‘’đa nghi đa ngộ’’. Song tu khán thọai đầu phải gan dạ chết sống với câu mình nhận nơi thầy, cho đến ngộ đạo, không được học kinh sách hay hay lý luận gì cả. Tu khán thoại đầu, khi tọa thiền khán thoại đầu, lúc ra ngoài hoặc làm công tác cũng vẫn khán thoại đầu, không đổi thay pháp nào khác.
(HT.Thích Thanh Từ)
(Giác Ngộ)
Discussion about this post