ĂN ĐỂ SỐNG
CHỨ KHÔNG PHẢI SỐNG ĐỂ MÀ ĂN
Thích Đạt Ma Phổ Giác
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp
nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo
thụ hưởng sự ăn uống mà nhẫn tâm giết hại các loài vật. Có những việc cần thiết
mà chúng ta không lo, chỉ cố tâm lo phần không quan trọng mà lãng quên phần lợi
ích lâu dài. Trong cuộc sống chúng ta thường chỉ lo ăn với uống cho đó là vấn
đề chính yếu. Tối ngày chúng ta làm lụng vất vả chỉ để ăn với uống sao cho ngon
miệng nên ta phải giết hại các sinh vật rồi tham đắm, dính mắc vào đó mà chịu
quả báo xấu khi đủ duyên. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị. Khi
có quyền cao chức trọng thì ăn trên ngồi trước bắt người khác phải cung phụng
cho mình đầy đủ những nhu cầu cần thiết.
Vấn đề thở là điều quan trọng nhất trong cuộc sống, nhưng ít ai
nghĩ đến mình nhịn thở bao lâu mới chết. Trong tích tắc thở ra mà không thở vào
là chết ngay. Vậy mà người đời lại quan trọng việc ăn với uống, còn thở ra sao
không cần biết. Rõ ràng, việc tối quan trọng chúng ta lại lơ là, việc không
chính đáng thì ta nỗ lực, làm việc nhọc nhằn vất vả để thỏa mãn cho nhu cầu bản
thân. Như vậy, hằng ngày ta chỉ lo việc bồi bổ thân này mà đành giết hại vô số
các loài vật, ta ăn trên sự đau khổ của chúng.
Cuộc sống của chúng ta trong thời đại hiện nay có quá nhiều thứ
bệnh thuộc bộ máy tiêu hóa và hô hấp phát sinh từ sự ăn uống, hít thở không
đúng đắn. Một số người ít hoạt động tay chân nên phát sinh rất nhiều bệnh tật.
Chính vì thế, muốn thân khỏe mạnh, tâm an ổn nhẹ nhàng chúng ta cần phải biết
điều hòa trong ăn uống, hít thở đúng cách và vận động thân thể nhiều bằng cách
lạy Phật-Bồ tát, vừa sám hối nghiệp tập nhiều đời, vừa rèn luyện sức khoẻ dẻo
dai.
Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy mọi người không nên ăn
nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích
hợp với cơ thể. Cách thức ăn uống của người Việt tương đối lành mạnh nhưng chế
độ ăn uống thường mang tính cách theo thói quen, ngon miệng, hợp khẩu vị mà có
thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết hoặc dư chất bổ dưỡng.
Đại đa số chúng ta không ý thức được tầm quan trọng của nước đối
với cơ thể nên thường uống ít nước hoặc có uống thì dùng các loại nước ngọt
được chế biến hay rượu bia quá nhiều. Cách tốt nhất là uống nước mỗi ngày từ 2
lít đến 2,5 lít bằng nước đun sôi để nguội. Thân thể thiếu nước nên sinh ra
nhiều bệnh tật như táo bón, nhức đầu, trĩ, sạn thận, thận suy, áp huyết cao,
viêm gan siêu vi B và bụng hay sình trướng, khó tiêu…
Từ đó, chúng ta dễ trở nên giận dỗi, cáu gắt hay nóng nảy, khó
chịu khiến cho không khí gia đình trở nên căng thẳng, mất tươi vui, hạnh phúc.
Lượng nước trong cơ thể chiếm 70% dưới mọi hình thái của nó, do đó các tế bào
và mọi bộ phận trong thân thể cần có lượng nước nhất định. Ngoài việc tắm rửa
hằng ngày để da dẻ sạch sẽ, mịn màng, chúng ta cần uống lượng nước cần thiết để
điều hoà thân thể khoẻ mạnh.
Muốn tránh các thứ bệnh nói trên chúng ta cần phải uống nhiều
nước, chừng hai ba ly ngay sau khi ngủ dậy mỗi sáng và trước khi đi ngủ buổi
tối để giúp bộ máy tiêu hóa và tuần hoàn hoạt động tốt, dễ dàng lọc máu và thải
mọi cặn bã ra ngoài.
Người cư sĩ tại gia nên ăn nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt nhiều cá
nhưng phải biết chọn lựa loại nào ít nhiễm độc vì một số lớn các bệnh
tật phát xuất từ việc ăn uống không điều độ hay không biết chọn lựa thức ăn.
Giảm bớt chất béo trong máu sẽ tránh được bệnh tim, huyết áp cao và ung thư
gan.
Để quân bình trong cuộc sống ăn uống hằng ngày, cơ thể chúng ta
cần có đủ chất bổ đến từ thịt, cá và chất xơ trong các thứ rau, đậu và trái
cây. Chất xơ giúp tiêu hóa dễ dàng và loại bỏ các thứ mỡ không cần thiết cho cơ
thể. Nói chung, thức ăn kho và luộc tốt hơn là chiên, xào, nướng. Ngoài ra,
chúng ta nên để ý cách dùng các gia vị âm dương trong nghệ thuật nấu nướng và
ăn uống của người Việt Nam. Theo đó, các loại thịt cá thuộc loại âm thường được
nấu nướng hay ăn với các thứ gia vị và rau thuộc loại dương và ngược lại.
Thế giới chúng ta ngày hôm nay có quá nhiều bệnh
tật vì ô nhiễm môi trường, ô nhễm thức ăn thực phẩm và do con người ăn uống vô
độ. Có ai bệnh mà lại không buồn phiền? Điều đầu tiên chúng ta lo lắng là phải hao
tiền tốn của lo thuốc thang tìm cách chữa trị.
Bệnh có hai dạng là thân bệnh và tâm bệnh, nhưng
phần nhiều thân bệnh là do tâm điều hành, sai sử. Thân chúng ta tại sao lại
bệnh? Vì tâm tham ăn uống nên ta đưa nhiều các thức ăn uống nhiễm độc vào cơ
thể. Do tâm tham muốn quá nhiều nên trở thành tâm bệnh, vì tham nên chúng ta
muốn thân sung sướng, không ngờ cái sung sướng trong khoái khẩu lại là nguyên
nhân gây ra bệnh.
Ta không biết trân quý sức khỏe sẽ làm tổn thương
thân này. Có người suốt cả cuộc đời lúc nào cũng bệnh, khi bị như vậy ta phải
biết mình đã gieo tạo nghiệp sát sinh hại vật quá nhiều.
Chúng ta hãy nên thường xuyên thực tập sám hối để dừng nghiệp
cũ, không cho chúng tái phạm nữa; mặt khác lại hay giúp người cứu vật, nhờ vậy
chúng ta sẽ mau được lành bệnh. Khi bệnh ta hãy tìm phương cách chữa trị như đi
khám bác sĩ, đi bệnh viện theo dõi, đồng thời phải biết sám hối, biết làm thiện
để chuyển hoá nghiệp xấu ác thì từ từ sẽ hết bệnh.
Rất nhiều bệnh tật phát xuất từ tình trạng máu huyết lưu
thông không đều đặn do ít hoạt động chân tay. Do đó, một trong những cách phòng
bệnh hữu hiệu nhất là hay siêng năng hoạt động chân tay, tập thể dục, đi bộ,
bơi lội, làm vườn, lau dọn nhà cửa và lạy Phật-Bồ tát mỗi ngày.
Một hôm, Phật hỏi các vị Tỳ kheo: “Mạng người sống trong bao lâu?”
Một thầy trả lời: “Mạng người sống chừng 80 năm”. Phật hỏi vị khác, thầy đó trả
lời: “Mạng người sống trong bữa ăn”. Hai vị thầy trả lời Phật đều không chấp
chận. Ngài hỏi tiếp vị thứ ba và vị này trả lời: “Mạng người sống trong hơi thở”. Phật nói: “Đúng
thế, đời người chỉ dài bằng một hơi thở, bởi thở vào mà không thở ra thì xem
như mất mạng”.
Chúng ta có thể không ăn hai ba chục ngày mà không chết, chính
chúng tôi đã từng nhịn ăn mỗi lần ba bốn tuần, mỗi ngày chỉ uống nửa lít nước
đun sôi để nguội, nhờ vậy mà vượt qua được bệnh tật hiểm nghèo.
Ngày xưa, đức Phật dạy các tỳ kheo quán hơi thở, thở vô mình biết
thở vô, thở ra mình biết thở ra, đến khi thuần thục không cần theo dõi hơi thở
nữa mà chỉ nhìn hơi thở vô ra dài sâu. Nhờ
vậy, tâm an định và trí tuệ thấy biết đúng như thật phát sinh, do đó ngày càng
sống tốt hơn mà hay giúp người cứu vật.
Khi tâm an định, rỗng rang, bớt đi tạp niệm thì trí nhớ sáng suốt,
tuệ giác tâm linh khai mở. Nhờ vậy, ta nhận biết cuộc sống vô thường, mạng sống
vô thường và muôn loài vật cũng lại như thế. Mạng sống chúng ta ngắn như một
hơi thở, nhờ thường xuyên quán sát như thế ta sẽ thấy biết đúng như thật nên dễ
dàng buông xả phiền não tham-sân-si mà an nhiên, tự tại, giải thoát.
Dân gian thường nói “có thực mới vực được đạo”, tức có
ăn mới tu hành được. Đây không chỉ là một câu nói vui đùa bâng quơ mà là một sự
thật. Chính vì vậy, ăn uống đã trở thành nhu cầu cần thiết trong đời sống hằng
ngày của chúng ta. Điều này được thể hiện qua câu nói “miếng trầu làm đầu câu
chuyện”.
Ông cha ta nhận thấy ăn uống là sự tự do của mỗi người nên dân
gian có câu “trời đánh còn tránh bữa ăn”. Xã hội thường coi việc mời
ăn, mời uống, tặng quà cáp cho nhau như một mối quan hệ cần thiết của mỗi
người. Do đó, “bánh ít đổi đi, bánh quy đổi lại” hay “có đi, có lại mới toại
lòng nhau”. Dĩ nhiên, đó cũng là một nhu cầu thiết thực trong mối tương giao
cuộc sống.
Để thể hiện địa vị và tầm quan trọng của con người trong xã hội
nên có câu “mâm cao cỗ đầy” dùng để miêu tả bữa ăn của giới thượng lưu quyền
thế. Việc cưới hỏi, lấy vợ gã chồng phải làm tiệc ăn mừng là lẽ đương nhiên;
nhưng đầy tháng, thôi nôi, sinh nhật, thi đỗ, làm ăn phát đạt, thậm chí mua nhà
tậu đất, thăng quan tiến chức cũng tổ chức ăn mừng thiết đãi gia đình người
thân, bạn bè và bà con lối xóm.
Ăn uống, tiệc tùng như thế lâu ngày đã trở thành văn hóa tín
ngưỡng trong dân gian mà “phép vua cũng thua lệ làng”. Nói cho cùng,
ăn uống là một nhu cầu cần thiết và cũng là phương tiện để bày tỏ tình thân hữu
hay mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội, nhưng do lối văn hóa ăn
uống của người Việt đã ăn thì phải ăn cho đã, đã uống thì phải uống cho say, ăn
với uống phải no say. Cho nên, từ đó con người ngày càng sa đọa với thói quen
ngu si chấp ngã mà làm tổn hại người, vật.
Người dân các miền thôn quê có ba nhu cầu chính trong việc ăn uống
là đám giỗ, đám cưới, đám ma. Ba đám này đã trở thành nhu cầu thiết thực trong cuộc
sống. Người thành thị thì ăn uống lu sà bù, đâu đâu cũng thấy quán nhậu làng
nướng, đủ thứ món ngon vật lạ được phơi bày buôn bán công khai.
Dân gian có câu “ăn được ngủ được là tiên, không ăn không ngủ mất
tiền thêm lo”, nhưng quan trọng hơn hết là chúng ta có thể đánh giá con
người qua cách ăn, cách uống, cách nói năng và cách làm việc. Hay nói cách
khác, ăn uống phản ánh phạm trù sống, phương thức sống, cách thức sống và phép
tắc sống, nhìn vào cách ăn uống ta có thể biết người đó có lòng từ bi hay không.
Khi xưa lúc chưa biết tu bản thân chúng tôi là kẻ đam mê ăn uống,
ngày nào cũng phải có rượu bia, bồ đà và gái gú. Trong khi chờ con vịt cắt cổ
làm tiết canh, chúng tôi tranh thủ để có mồi nhậu lai rai bằng cách thẻo miếng
mỡ bầu diều bóp gỏi làm chua khi con vịt còn sống. Loại ăn nhậu như chúng tôi
ngày trước là hạng người sống không có nhân cách đạo đức, thử hỏi làm sao biết
thương yêu gia đình, người thân nên mới bịp bợm, gian trá, xảo quyệt và ác độc.
Phật pháp quá hay, quá tuyệt vời, chúng tôi nhờ gặp bậc minh sư
chân chánh, thầy lành bạn tốt nên mới có cơ hội làm mới lại chính mình mà vượt qua
những thói đam mê thấp hèn có tính cách hại người và vật.
Là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết chọn lựa những thức
ăn và thức uống không làm ảnh hưởng xấu đến cơ thể. Người ăn chay mà lại thích
ăn đồ giả mặn, loại thức ăn này rất có hại và lại mắc hơn những loại rau cải
bình thường nhưng không đủ chất dinh dưỡng.
Ăn chay trong thời buổi này phải cao thượng và có ý thức, chúng ta
chấp nhận muốn ít biết đủ như vậy sẽ ít bệnh. Trước khi ăn những món hiền lành
và bổ dưỡng ta nên nói thầm trong miệng, “chỉ xin ăn những thức ăn có tác
dụng ngăn ngừa tật bệnh và nuôi dưỡng thân tâm sáng suốt”. Đó là ta luôn
sống trong tỉnh giác khi ăn và khi nấu ăn.
Ngoài những thức ăn vật chất để nuôi thân tồn tại, thức ăn tinh
thần mới thực sự quan trọng đối với mọi người trên thế gian này. Nếu sống trong
tu viện thì mỗi ngày đọc kinh, sám hối, ngồi Thiền, được gần gũi các bậc tu
hành kiểu mẫu, trông thấy đức hạnh của họ sẽ giúp chúng ta sống tốt theo.
Người ăn chay đúng cách ít bệnh mà vẫn sống
khỏe sống thọ. Ăn chay còn có ích lợi cho sức khỏe như dễ tiêu hóa hơn, ít gây
bệnh tật hơn. Nhiều người chung quanh thường cảm thấy an tâm hơn khi sống gần
gũi những người ăn chay. Những con thú chỉ ăn thực vật thảo mộc, không bao giờ
sát hại các sinh vật khác, không gây sợ hãi cho các loài vật sống gần bên.
Người tự nguyện phát tâm ăn chay là người
có tâm từ bi rộng lớn, coi muôn loài vật như bản thân mình, không thích giết hại
một sinh vật nào, không muốn nhìn thấy một sinh vật nào đau khổ. Họ hiểu biết
rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ chết, khi bị sát hại chúng cũng đau
khổ như loài người không khác.
Có những người họ từ
bi đến nỗi những loài vật nhỏ nhít như côn trùng, gián, kiến, ruồi, muỗi cũng
không dám sát hại chúng; hoặc những loài vật lớn hơn như gà, vịt, heo, bò cũng
không dám ăn thịt nên họ ăn chay trường. Nhưng đối với gia đình, người thân
hoặc người bên ngoài xã hội nếu nói một câu lỡ lời thì họ nhất định không chịu
bỏ qua mà trách móc, mạt sát đủ điều.
Trong cuộc sống của
chúng ta, người nào phát tâm ăn chay trọn vẹn thì thật là đáng quý,
đáng trân trọng. Đó là nhân duyên tốt để chúng ta tiến tu trên con đường hành
Bồ tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi. Khi ăn chay trường
chúng ta giữ trọn vẹn giới không sát sinh, nhờ vậy ta không làm tổn hại đến
thanh danh, đời sống và hạnh phúc gia đình của người khác.
Ngày nay, các chương trình dạy nấu ăn trên truyền hình cho thấy
trong nhà bếp tại gia hay bếp của các nhà hàng, ngay khi các con vật còn sống mà
họ bắt bỏ vào chảo dầu sôi như cá, bỏ cua đang sống vào nồi nước luộc, sò ốc bị
nướng trên lò, hoặc như khỉ bị dạt đầu mổ óc ăn sống. Những con vật đó ngo ngoe
giẫy giụa, vùng vẫy rất đau đớn không khác nào địa ngục trần gian.
Ăn chay đối với nhân loại mà nói không chỉ giữ được
thân thể khỏe mạnh, tránh được nhân quả nghiệp báo mà còn có nhiều lợi ích khác
không thể nói cho cùng. Lợi ích thiết thực lớn nhất của ăn chay là tăng trưởng
lòng từ bi đến với các loài vật và cuối cùng là nhân chấm dứt chiến tranh vì
không tạo nghiệp giết hại chúng sinh.
Thức ăn chay phần
nhiều đều là rau quả và các loại thảo mộc thiên nhiên được sinh trưởng lớn lên
từ đất đã có nhiều chất dinh dưỡng, lại ít độc tố hơn các loài động vật. Người
ăn chay đúng cách máu sẽ sạch nên tuần hoàn nhanh khiến cơ thể nhẹ nhàng, thoải
mái, hoạt bát, chịu đựng giỏi, thông minh và có thể sống lâu.
Thường con vật bị
giết trong lúc đang giận dữ hoặc sợ hãi sẽ tiết ra độc tố tồn đọng trong máu
thịt. Nếu chúng ta ăn nhằm loại thịt này thì tất nhiên sẽ bị nhiễm độc tố, may
mà độc tố này khi gặp rau quả sẽ được hóa giải bớt phần nào. Ăn chay có thể giữ
lâu tuổi trẻ, tinh lực dồi dào, đầu óc mẫn tiệp, da thịt mềm mại. Đây là hiện
tượng của tuổi trẻ. Ngược lại, thân thể mệt nhọc, thần trí hôn ám, da thịt xù
xì, lộ ra dáng vẻ già trước tuổi.
Sát sinh để ăn thịt
các loài động vật dẫn đến làm tổn hại gây ra ác nghiệp thù hằn vay trả, tất
phải thọ báo xấu vì sự công bằng của nhân quả. Thọ báo đến nhanh hay chậm là
tùy theo sự cố ý có chủ tâm và cách sát sinh hại vật. Nếu sau khi đã lầm lỡ sát
sinh thì chúng ta phải sám hối tu thiện cũng có thể chuyển được nghiệp xấu ác
mà quả báo có thể nhẹ đi đôi phần.
Chỉ có Phật giáo mới
có thể nói rõ được nguyên nhân vì sao xảy ra chiến tranh. Chúng ta có thể thấy
quả thì biết nhân, giống như thấy dưa thì biết ngay dưa là từ hạt giống dưa mà
có. Hiện tại, sở dĩ loài người bị quả báo chiến tranh dẫn đến đau thương, chết
chóc làm nhiều người đau khổ là do tạo nhân giết hại mà ra.
Sát sinh có hai
nguyên nhân chủ yếu, một là trực tiếp giết và hai là xúi bảo người khác giết. Nếu
tạo hai nghiệp sát này thuần thục thì khi đủ duyên tất sẽ kết thành quả chiến
tranh. Một số người do không tin lý nhân quả, lại còn cho rằng trời sinh ra vạn
vật để phục vụ con người nên mặc tình giết hại. Dân gian có câu “oan gia trái
chủ”, giả sử có trải qua trăm ngàn kiếp đi nữa thì những nghiệp tốt xấu mỗi
người đã tạo ra cũng không mất. Nên biết, giữa nhân và quả còn có sự trợ duyên,
khi nhân gặp duyên đầy đủ thì trổ quả.
Ăn chay là ăn các loại hạt như gạo, mì, mạch, ngô, các loại hoa lá
cây, các loại rau đậu, các loại củ quả. Ăn mặn là ăn những món ăn thuộc các
loài động vật từ to lớn tới các loài nhỏ bé như trâu bò, lợn gà, cá tôm, cua sò
ốc v.v… Vì tất cả các loài hữu tình đều ham sống sợ chết cũng như con người nên
đức Phật vì lòng từ bi đã khuyên chúng ta tránh sát sinh hại vật. Khi ta giết
bất cứ con vật nào chúng đều sợ hãi, kêu la, dẫy dụa.
Ăn chay không phải là đổi món ăn cho ngon miệng, cũng không phải
là cách ăn kiêng cữ do bác sĩ, thầy thuốc dặn bảo mà là một cách tu hành của
người có lòng từ bi.
Chúng ta thử tìm hiểu xem, ai làm người kể từ khi được sinh ra và
lớn lên cho đến bây giờ cũng muốn bảo tồn mạng sống nhưng cũng đã giết chết vô
số loài sinh vật. Lúc vừa mới chào đời tuy chưa biết ăn nhưng ta bú sữa mẹ, mà
sữa mẹ là do đã ăn cơm uống nước cùng các loài sinh vật. Khi biết ăn ta đã ăn
thịt cá từ bé đến giờ nên gây đau khổ cho biết bao loài vật.
Tại sao ta phải giết chết các loài vật để ăn trong khi ta không
cần giết chúng mà vẫn có sự sống nhờ các loài hoa màu bằng thảo mộc, chúng vẫn
có thể giúp ta giữ được sức khỏe và hạn chế tối đa việc làm tổn thương các loài
có tình thức? Nếu sự sống của con người vẫn được tồn tại mà không làm chết các
sinh vật khác thì cuộc đời an vui, hạnh phúc biết bao.
Tại sao con người giết sinh vật để ăn? Từ khi
loài người có mặt trên thế gian này họ chỉ ăn các loại cây trái và hoa màu
thiên nhiên. Lúc đầu, loài người chỉ ăn các loại nấm, hạt, hoa, lá, củ, quả,
cây, nghĩa là chỉ ăn thức ăn bằng thực vật mà thôi, nhưng dần dần con người ăn
thịt cá là do bắt chước các loài
dã thú ăn nuốt lẫn nhau.
Khi thấy một số súc sinh ăn nuốt lẫn nhau để bảo tồn mạng sống như
ăn thịt, cá, con người dần dà bắt chước ăn theo. Mới đầu ta cũng ăn sống, sau
này cuộc sống văn minh hơn nên biết nấu chín và chế biến theo nhiều hình thức
khác nhau để phục vụ sự khoái khẩu của bản thân.
Sự phát triển của loài người ngày càng đông nên các thức ăn bằng
thực vật ngày càng khan hiếm, không đủ cho con người tiêu dùng nên con người từ
đó đã ăn các loài động vật và tự gây giống chăn nuôi thêm. Họ đã nghĩ rằng ăn
thịt các loài động vật sẽ tăng sức khỏe đủ sức làm các công việc nặng nhọc, hơn
nữa lúc đó họ chưa ý thức rõ sự tác hại trong vấn đề nhân quả nghiệp báo.
Chính vì vậy, với đà văn minh tiến bộ của con người ngày nay,
chúng ta đã thấu hiểu mọi khía cạnh trong cuộc sống đều dựa trên nền tảng nhân
quả. Giết hại hay ăn các loài động vật sẽ thọ quả báo bị giết hại trở lại hay bệnh
tật nhiều và chết yểu.
Nếu người Phật tử không có lòng thương xót trước cảnh giết chóc,
ăn nuốt lẫn nhau thì hạt giống từ bi của chúng ta bị sự tham lam, bỏn sẻn lấn
chiếm, từ đó trở nên vô cảm và độc ác. Nếu chúng ta vì muốn ăn ngon để thỏa mãn
sự tham đắm của mình mà nhẫn tâm giết hại các loài vật thì sao có thể là người
Phật tử chân chính?
Ăn chay thể hiện lòng bình đẳng của
tất cả muôn loài, vì tất cả chúng hữu tình đều có tính Phật như nhau. Con người
khi gieo tạo nghiệp xấu ác thì sẽ bị đọa vào loài súc sinh để trả quả ngu si
giết hại. Đó là sự bình đẳng trên vấn đề nhân quả, làm lành được hưởng phước,
làm ác chịu khổ đau.
Một số người cho rằng: “Trời sinh ra vạn vật là để phục vụ cho
thần linh thượng đế và con người, con người được toàn quyền hành hạ, giết hại
các loài vật để sinh sống”. Ai theo truyền thống này là tự mình đánh mất lòng
từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Quan niệm “vật dưỡng nhân” làm cho
con người trở nên thù ghét, giết hại lẫn nhau để bảo vệ quyền lợi riêng tư của
mình.
Chúng ta ăn chay để tránh
nghiệp báo bệnh tật và chết yểu, nhưng cũng có người cho rằng “cỏ cây
cũng có sự sống”. Đúng! Cây cỏ cũng có sự sống, nhưng cây cỏ không có cảm giác,
không có ý thức tham sống sợ chết, lo lắng sợ hãi, vui buồn khổ đau như các
loài vật. Con người là một sinh vật có hiểu biết cao nhờ biết suy nghĩ và
nghiệm xét, con người là vật tối linh trong các loài sinh vật.
Chính vì vậy, khi con người gây nghiệp sát sinh thì tội nặng hơn
do cố ý, còn các loài súc vật giết hại là do bản năng sinh tồn mà không có sự
toan tính. Cỏ cây không có cảm giác rõ ràng, do đó Phật nói ăn hoa lá, củ quả
của cây không gây nghiệp báo, nếu có cũng chỉ ảnh hưởng chút ít.
Trong trường hợp khi một người bệnh do vi trùng gây ra, nếu dùng
thuốc do bác sĩ cho toa để diệt vi trùng thì người thầy thuốc có gây nghiệp sát
sinh hại vật hay không? Vấn đề này quyết định là có sát sinh đối với vi trùng
đó, nhưng phước tạo được của bác sĩ lớn hơn. Phước ở đây là cứu được người qua
cơn bệnh tật, bên cạnh đó là có tiền để nuôi sống bản thân, gia đình và được
tiếng khen. Về mặt nhân quả đương nhiên phải chịu quả báo đối với các loài vi
trùng đó, nhưng chỉ nhẹ thôi, không đáng kể.
Ăn chay đúng cách sẽ tránh được nhiều
bệnh tật, các nhà khoa học chuyên nghiên cứu chất dinh dưỡng đều xác
định rằng: “Không chỉ trong thịt cá mới có chất dinh dưỡng mà trong các loại
rau đậu, củ quả cũng có rất nhiều”. Con người cần phải có ăn uống mới bảo tồn
mạng sống, nếu ăn không đúng cách dễ sinh ra nhiều bệnh tật.
Ăn rau đậu, hoa quả thì trong người cảm thấy nhẹ nhàng, còn ăn
thịt cá thấy hôi tanh và cơ thể nặng nề. Chính vì thế, khi nấu nướng người ta
thường cho gia vị thật nhiều để làm át mùi tanh hôi của thịt cá và tạo nên sự
hấp dẫn nhằm kích thích khẩu vị của mọi người.
Một bằng chứng cho thấy một số động vật chỉ ăn cỏ cây, hoa lá có
thân hình thật to lớn, lại khoẻ như voi, trâu, bò, ngựa, dê,… Chúng chẳng bao
giờ ăn thịt cá nhưng lại to lớn, khoẻ mạnh và có thể giúp nhiều cho con người.
Ăn chay là thể hiện lòng từ bi đối với các loài vật nên người Phật
tử phải tập ăn chay từ một hai ngày mỗi tháng, đến khi đủ nhân duyên thì ăn
chay hoàn toàn. Khi ăn chay chúng ta nên thay đổi thức ăn cho đỡ ngán, tất cả
có thể cùng ăn với cơm, bánh mì, bún, hủ tiếu… Nếu không biết nấu sẽ mất chất
bổ, làm hại bộ máy tiêu hóa, lại không ngon miệng. Khi nấu luộc nên đậy nắp,
không nấu luộc quá chín hoặc chỉ luộc sơ qua, chúng ta nấu luộc vừa chín tới để
đảm bảo đầy đủ chất bổ dưỡng.
Trong những ngày ăn mặn chúng ta nên giảm bớt số lượng thịt cá,
tăng nhiều rau quả để tập quen dần ăn chay, nhờ vậy giảm bớt nghiệp sát sinh
hại vật. Khi ăn chay chúng ta hạn chế tối đa thức ăn giả mặn, nếu cần thì dứt
khoát không ăn bởi đồ giả mặn mất tiền mà không bảo đảm sức khỏe do phải dùng
hóa chất giữ cho lâu hư.
Hiện tại, các thứ rau củ rẻ hơn thịt cá, nấu nướng mau chóng,
không cầu kỳ, trong nhà không có mùi hôi tanh của thịt cá nên ăn chay hợp với
cơ thể con người và thể hiện lòng từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng
sinh. Ăn chay đúng cách làm cho thân thể nhẹ nhàng lại khỏe mạnh, sáng suốt, ít
bệnh tật, dễ tu thiền quán, nhờ vậy dễ dàng buông xả tập khí, thói quen xấu, do
đó đời sau ít bị nghiệp báo xấu.
Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều người ăn chay, có những
người ăn chay riêng rẽ, có những nhóm, những hội ăn chay. Đặc biệt, những người
theo Ấn Độ giáo ngày nay đều ăn chay nhờ biết tiếp thu lời Phật dạy mà từ bỏ
việc ăn mặn.
Trong cuộc sống hằng ngày, nếu con người
không cần phải ăn uống mà vẫn sống bình thường thì chắc là không một ai đấu
tranh, giành giựt vì quyền lợi riêng của mình và dân tộc mình, như thế mọi
người sẽ sống an vui và hạnh phúc. Đó là chúng ta nói về phạm vi chung của nhân
loại.
Riêng trong đạo Phật quan niệm về việc ăn
uống có một vấn đề thường gây thắc mắc, tranh luận đúng sai từ xưa đến nay là
ăn chay và ăn mặn. Theo lời Phật dạy, muốn
có một cuộc sống đầy đủ sức khỏe và đủ năng lực để làm việc thì chúng ta cần ăn
uống điều độ, vừa đủ để nuôi thân. Chúng ta nên theo một chế độ ăn uống thích
hợp với bao nhiêu phân lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất ngọt,
chất khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước và các loại sinh tố trong một ngày
để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động và làm việc. Quá dư chất cũng sinh bệnh và
thiếu chất cũng sinh bệnh.
Trong đạo Phật, vấn đề ăn uống không
phải là chuyện quan trọng hàng đầu. Dù ăn mặn hay ăn chay chúng ta cũng nên ăn
uống đơn giản, đạm bạc để dành nhiều thời gian cho những việc làm lợi ích.
Chuyện ăn uống thuộc về phạm vi thể chất, bồi bổ cho tấm thân tứ đại giả tạm
này để làm phương tiện tu tâm dưỡng tánh cho đến ngày giác ngộ và giải thoát
hoàn toàn. Con người muốn sống một cuộc đời an nhàn, tự tại không nên lệ thuộc
quá nhiều vào việc ăn uống.
Một
thực tế khác về vấn đề ăn mặn và ăn chay chúng ta cần nên hiểu biết là ăn chay thể
hiện lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Thời Phật còn tại thế, do đi khất
thực và ai cúng gì ăn đó, vả lại lúc đó con người chưa ý thức được việc ăn
chay. Sau này, Phật tử kiến tạo chùa chiền, chư tăng có chỗ an cư nên mới bắt
đầu ăn chay vì phải tự nấu nướng. Ngày nay, các am thất, tịnh xá, chùa chiền
đều được Phật tử bố thí cúng dường tiền bạc, vật thực đầy đủ nên chư tăng không
cần thiết đến chợ mua thịt cá, tôm cua, sò ốc…
Trong Phật giáo có
hai truyền thống. Phật giáo Nam tông, tức là Phật giáo nguyên thủy, họ ăn mặn
theo quan niệm Tam Tịnh Nhục như Phật giáo Ấn Độ hiện tại vẫn ăn mặn. Thứ nhất là
không trực tiếp giết hại con vật để ăn, thứ hai là không xúi bảo người khác
giết, thứ ba là không thấy không nghe con vật bị giết. Ngược lại, Bà La Môn
giáo ngày xưa, nay là Ấn Độ giáo, họ nghe lời Phật dạy nên biết được nghiệp sát
sinh để bồi bổ thân này là tội lỗi, sẽ bị trả quả báo giết hại trở lại nên họ
đã ăn chay.
Phật giáo thế giới
chiếm số đông đa số ăn mặn vì họ quan niệm theo Phật giáo lịch sử ở Ấn độ. Hiện
nay, chỉ có 4 nước Phật giáo ăn chay là Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Tây
Tạng. Vậy việc ăn chay, ăn mặn trong Phật giáo có làm ảnh hưởng đến sự tu tập
hay không?
Đạo Phật là đạo của
từ bi và trí tuệ. Khi đức Phật ra đời vì phải đi khất thực, không ở một chỗ quá
ba ngày nên ai cho gì ăn đó mà không phải nấu nướng. Ngày nay, Phật giáo phát
triển bắt buộc tu học tại chùa, không được đi khất thực và phải nấu ăn tại chỗ,
nếu mua thịt cá về thì coi sao được.
Quan niệm của Phật
giáo Bắc tông hiện nay cho ăn chay tu theo hạnh Bồ tát để thành Phật vì cho
rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính bình đẳng như nhau và thể hiện lòng từ
bi không muốn làm tổn hại muôn loài vật. Chính vì vậy, Phật giáo Bắc tông bắt
buộc mỗi tu sĩ khi thọ giới Tỳ kheo phải thọ Bồ tát giới, cư sĩ tại gia nếu
phát tâm cũng được thọ Bồ tát giới.
Riêng Phật giáo Nam
tông không có thọ Bồ tát giới và ăn mặn theo Tam Tịnh Nhục. Thật ra, ăn chay
hay ăn mặn cũng đều tu hành được cả, ai đủ duyên thì ăn chay hoàn toàn, ai chưa
đủ duyên thì ăn mặn và tập sự ăn chay mỗi tháng từ 1 ngày cho đến 10 ngày và
cuối cùng là ăn chay trọn vẹn.
Tóm lại, vấn đề ăn mặn và ăn chay còn
khá nhiều khía cạnh tế nhị khác, trong phạm vi hạn hẹp và có giới hạn chúng tôi
không dám luận bàn nhiều, chỉ nhắc lại lời cổ nhân dạy: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà
ăn”. Nghĩa là, con người sanh ra trên trái đất này ngoài chuyện ăn
uống để bảo tồn mạng sống thì chúng ta còn phải làm tròn trách nhiệm đối với
gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.
chỗ này mỗi khi thọ thực. Chúng ta cần phát tâm từ bi rộng lớn thương xót những
người chưa thể ăn chay vì một lý do gì đó bằng cách tự đọc lời cầu nguyện trước
khi ăn để hồi hướng phước báu ăn chay đến với tất cả mọi người. Hoặc chúng ta
chắp tay cầu nguyện cho tất cả chúng sinh ít ra cũng đều có những bữa cơm đạm
bạc như mình vậy, vì sự ăn của mình không làm tổn hại đến các loài vật.
Discussion about this post