DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 52
TUỲ HỶ CÔNG
ĐỨC
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa
quý thính giả,
Tuần
qua, trong nội dung thư của quý thính giả gửi về, có mấy
câu hỏi như sau:
–
Những thùng đựng tiền để ở chánh điện chùa có đề
hàng chữ: “Tùy Hỉ Công Đức”. Vậy bốn chữ này nghĩa
là gì?
–
Theo dõi chương trình phát thanh về Phật pháp của Thư Viện
Hoa Sen, thấy con đường giác ngộ giải thoát của nhà Phật
hay quá, tôi rất muốn tu tập theo lời Phật dạy. Nhưng tôi
có gia đình rất êm ấm, có vợ và hai con, không muốn từ
bỏ để vào chùa tu, vậy tôi phải làm sao?
Thưa
quý thính giả,
Trước
hết, chúng tôi xin trình bày với quý vị về câu “Tùy
hỉ công đức”.
Chương
(mà thuật ngữ của nhà Phật gọi là phẩm), phẩm cuối của
kinh Hoa Nghiêm là Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Nơi phẩm này, phần
“mười điều hạnh nguyện rộng lớn” là quan trọng nhất.
Chúng tôi xin trích dẫn lời kinh, do hòa thượng Thích Trí
Tịnh phiên dịch:
“Nếu
ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu mười
điều hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười điều?
– Một
là kính lễ các đức Phật.
–
Hai là khen ngợi đức Như Lai.
–
Ba là rộng tu cúng dường.
–
Bốn là sám hối nghiệp chướng.
–
Năm
là tùy hỉ công đức.
–
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp.
–
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời.
–
Tám là thường học tập theo Phật.
–
Chín là hằng thuận lợi chúng sanh.
–
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
Tại
sao “Tùy hỉ công đức” lại được coi như là một trong
những “hạnh nguyện rộng lớn”?
Tại
vì đó là việc rất khó thực hành.
Tại
sao lại khó thực hành?
Tại
vì muốn thực hành được hạnh này, hành giả phải tu tập
đủ Tứ Vô Lượng Tâm là Từ Bi Hỉ Xả, để có thể xóa
được bờ mé ngăn cách giữa “cái Tôi”, và “cái không
phải Tôi”. Như thế, tâm tùy hỉ là tâm bồ tát, coi niềm
vui của chúng sinh là niềm vui của mình, coi nỗi thống khổ
của chúng sinh là nỗi thống khổ của mình.
Vậy
“tùy hỉ” nghĩa là gì?
Tùy
hỉ có nghĩa là vui mừng theo, thấy tâm mình bừng lên niềm
vui theo với niềm vui của người. Thí dụ, thấy ai gặp điều
may mắn, mình cũng mừng với người ta, ai được mọi người
ca ngợi, mình cũng thấy vui y như mình được ca ngợi vậy.
Muốn có được hạnh này, hành giả phải luyện tâm để
loại bỏ thói ghen ghét, đố kỵ, sân si, bới lông tìm vết,
moi móc điều xấu của người, hoặc tìm cách hạ người
khác xuống đề nâng cao mình lên, vân vân…
Thí
dụ như người có thói ganh tị, đố kỵ, không có tâm “tùy
hỉ”, thì khi thấy có người làm việc thiện, bèn bĩu môi
:” Ui da, hắn giầu quá mà, bỏ bấy nhiêu tiền ra thấm tháp
gì” vân vân …. Trong khi người có tâm “tùy hỉ”, thì
lại cảm thấy vui, vì dù mình không có khả năng làm việc
thiện đó, mà có người làm được thì cũng mừng rỡ như
chính mình làm được vậy.
Nhà
Phật dạy rằng, nếu có người nào, dù nghèo quá đến nỗi
không có tài vật để làm việc phước thiện, nhưng có tâm
tùy hỉ với những việc thiện của người khác, thì người
này cũng được hưởng thiện quả, bằng y như người có
tài vật, để thực hiện được điều thiện đó.
Chúng
ta đã biết rằng cốt tủy của đạo Phật là chuyển tâm,
từ tâm Mê thành tâm Giác. Cho nên, niệm tùy hỉ này
phải từ chính tâm mình nổi lên, chứ không phải là trong
lòng thì ghen tị, nhưng ngoài miệng thì giả bộ nói lời
“tùy hỉ”. Ý khởi lên là đã tạo ra ý nghiệp. Khởi tâm
ganh tị mà lại nói lời giả dối “tùy hỉ”, thì còn phạm
thêm nghiệp ác dối trá, chẳng có lợi ích gì trong việc
tu tâm.
Công
đức tùy hỉ cao thượng và quan trọng như thế, là một trong
mười Đại Nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, vậy mà người
ta chỉ coi như một bảng hiệu dán vào thùng đựng tiền để
thâu thập chút tiền bạc, thì quả là đã làm mất đi cái
ý nghĩa cao quý của Đại Nguyện. Cũng như Tâm Bồ Đề là
tâm nguyện tu tập để giác ngộ thành Phật, mà có người
lại đem dùng sai như: “Xin phát Tâm Bồ Đề cho tôi mượn
cái ghế”, vân vân. Lâu ngày chầy tháng, ý nghĩa đích thực
bị tam sao thất bản, mất dấu tích của nghĩa thực là tâm
nguyện tu tập để giác ngộ, thật là uổng quá.
Thùng
đựng tiền chỉ nên đề là “Tam Bảo phước điền”, hoặc
“Tùy tâm”. Tâm đây là tâm sinh diệt. Bố thí cúng dường
thì được phước đức trong đời sống tương đối, không
phải là công đức tu hành để thanh tịnh hóa Tâm, giác ngộ
giải thoát.
Trong
một kỳ phát thanh trước, chúng tôi đã kính gửi tới quý
vị lời Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma giảng cho Lương Võ Đế
về sự khác biệt giữa công đức và phước đức, như sau:
“Được
tin có ngài Bồ Đề Đạt Ma tới nước mình, Lương Võ Đế
sai sứ đi đón, rước vào kinh. Trong buổi tiếp kiến, nhà
vua hỏi:
– Từ khi lên ngôi, trẫm đã xây chùa, chép kinh, độ tăng nhiều
vô số kể, vậy có công đức gì không?
Ngài
Đạt Ma đáp:
–
Đều không có công đức.
Vua
hỏi lại :
–
Tại sao không có công đức?
Ngài
đáp:
–
Xây chùa, chép kinh, độ tăng là tạo nhân hữu lậu, chỉ
được hưởng thiện quả nơi cõi Trời, cõi người. Quả
theo nhân như bóng theo hình, là phước đức, không phải công
đức. Công đức là do tu hành, Trí rỗng rang, Tâm sáng suốt,
từ nơi bản tánh, không do nơi công nghiệp thế gian.”
Trí
rỗng rang, Tâm sáng suốt mà ngài Bồ Đề Đạt Ma nói
đó, chính là Tâm Thanh Tịnh, không còn chấp trước vào “cái
Tôi” và “cái không phải Tôi”. Khi Tâm không còn chấp
trước như thế, sẽ đạt được cảnh giới an lạc, không
còn hậm hực ấm ức với đời, là Tâm được Giải Thoát.
Cổ
đức đã ân cần dặn dò: ”Xin phân biệt rõ “ngón tay
chỉ mặt trăng” và “mặt trăng” là hai cái khác
nhau. Nếu nhận lầm ngón tay là mặt trăng thì đã làm mất
đi cả hai rồi”.
Câu
đó có nghĩa là “Kinh Phật là “ngón tay” để chỉ cho
chúng sinh biết “mặt trăng” là “mọi người đều có
Phật Tánh, thanh tịnh hóa Tâm thì sẽ thành Phật”. Nay nếu
nhận lầm, không coi kinh Phật là ngón tay, mà lại coi kinh
là mặt trăng, suốt đời nghiên cứu, săm soi chữ nghĩa trong
kinh, lấy sự biết nhiều hiểu rộng kinh điển làm sự nghiệp
tu hành, mà không Thanh Tịnh Hóa Tâm, thì tức là đã nhận
lầm, nhìn “ngón tay”, tưởng là “mặt trăng”, mất cơ
hội giác ngộ Phật Tánh.
“Tùy
hỉ công đức” là một Đại Nguyện để tu tập, nếu
không hiểu đúng nghĩa, lại cho là bảng hiệu của thùng đựng
tiền, là đã làm mất đi ý nghĩa cao siêu của một trong những
Đại Hạnh Nguyện mất rồi.
Thưa
quý thính giả,
Sau
đây là câu hòi thứ hai:
– Theo
dõi chương trình phát thanh về Phật pháp của Thư Viện Hoa
Sen, thấy con đường giác ngộ giải thoát của nhà Phật hay
quá, tôi rất muốn tu tập theo lời Phật dạy. Nhưng tôi có
gia đình rất êm ấm, có vợ và hai con, không muốn từ bỏ
để vào chùa tu, vậy tôi phải làm sao?
Đề
trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin kính gửi tới quý thính
giả một đoạn văn trích từ cuốn “Tin
Tức Từ Biển Tâm”, của nhà văn cư sĩ Phật giáo
Trung quốc Lâm Thanh Huyền, do dịch giả Minh Chi chuyển dịch
qua Việt ngữ, nói về sự khác nhau giữa xuất gia và tại
gia, như sau:
“Học
Phật có người là tại gia, có người là xuất gia. Người
cư sĩ tại gia khác với người xuất gia về thái độ tu hành
cơ bản và về phương pháp tu hành.
Điểm
khác biệt thứ nhất:
Người
xuất gia là người tu hành chuyên nghiệp, còn người tại
gia tu hành nghiệp dư (nghĩa là còn phải làm việc chính
trước, rồi mới tới việc gọi là nghiệp dư). Hiện nay,
tôi là một nhà văn chuyên nghiệp, ngày nào tôi cũng phải
viết văn. Nếu không làm như thế, tôi sẽ tự thẹn với
mình. Nhưng nếu nhà văn nghiệp dư thì khác, nhà văn nghiệp
dư có thể ba năm mới viết một cuốn sách cũng có thể ba
mươi năm mới viết một cuốn. Mỗi ngày chỉ cầu viết một
trăm chữ. Họ thực là thoải mái? Vì họ là nghiệp dư.
Người
xuất gia là chuyên nghiệp, cho nên nhiệm vụ chủ yếu là
tu hành, phải để rất nhiều thời gian niệm Phật, tọa
thiền, tu hành. Người tại gia thì không như vậy, vì chúng
tôi là nghiệp dư, nếu chúng tôi mỗi ngày bỏ ra tám tiếng
đồng hồ để tu hành, thì kết quả cuối cùng sẽ làm cảm
tình vợ chồng bị đổ vỡ, con cái sẽ không còn nhận chúng
tôi là cha, là mẹ nữa, họ hàng bạn bè đều cho chúng tôi
làm như vậy là không phải. Bởi vì chúng tôi đã biến thân
phận nghiệp dư thành chuyên nghiệp.
Nhưng
đừng có cho rằng nghiệp dư thì phải thua chuyên nghiệp.
Có một số nhà văn nghiệp dư trong cả một đời chỉ viết
được một cuốn sách, nhưng quyển đó viết rất hay. Trái
lại, nhà văn chuyên nghiệp có thể trong một năm viết đến
hàng chục cuốn sách, nhưng cả đời không viết được một
quyển nào hay cả.
Điểm
khác biệt thứ hai:
Người
tại gia có nếp sống của người tại gia, không giống với
nếp sống của người xuất gia. Người xuất gia ở trong cảnh
chùa rất yên tĩnh. Mỗi ngày, sáng sớm ba giờ rưỡi đã
thức dậy, lên khóa lễ sớm để lạy Phật. Chúng tôi người
tại gia không có cách nào sống như vậy được, chúng tôi
buổi tối có thể còn phải làm việc mãi tới 11 giờ, 12
giờ khuya mới về. Nếu chúng tôi lại nghĩ rằng sống như
người xuất gia mới là phải, nhưng lại không thể thay đổi
nếp sống hiện tại của mình được, thế là sinh ra mâu
thuẫn, xung đột lớn (với tự thân).
Tôi
cho rằng, người tại gia nên lấy “cuộc sống” làm
cơ sở cho sự tu hành, đem tu hành vào cuộc sống, chứ không
phải lấy ngôi chùa làm giới tuyến, phân biệt rành mạch
hai bên: Một bên ở trong chùa thì tọa thiền, niệm Phật,
lễ Phật sám hối, đọc kinh, như vậy mới là tu hành, còn
bên kia, ở ngoài chùa thì không phải là tu hành.
Đức
Phật Thích Ca dạy rằng: “Ba điều trọng yếu nhất của
tu hành là thân, miệng, ý nghĩ”, mà Ngài không nói ba
điểu là niệm Phật, lễ Phật, đọc kinh. Nếu tu hành là
ở nơi thân làm, miệng nói và đầu óc suy nghĩ, thì có thể
kết hợp được sự tu hành của chúng ta với cuộc sống.
Người
tu hành cần chú ý làm cho hành vi của mỗi người đều trở
nên trong sạch và siêu thoát, làm cho lời nói của mình mỗi
ngày đều tốt đẹp, hiền hòa, có ích đối với người
khác, làm cho mỗi ý nghĩ của mình đều thanh tịnh, thiện
lành.
Tu
hành chân chính thật ra rất là giản đơn. Chỉ cần khiến
cho mỗi hành vi lời nói và ý nghĩ của chúng ta, đều dần
dần trở thành chân chánh, biến hành động thô bạo dễ phẫn
nộ, thành hành động hết sức ôn hòa tốt đẹp, biến lời
nói khó nghe, thành lời nói dịu hiền dễ nghe, biến ý nghĩ
không tốt đẹp thành ý nghĩ từ bi và siêu thoát.
Qua
sự chuyển hóa đó, chúng ta sẽ không ngừng hướng thượng
và thăng hoa.
Ngoài
việc hướng thượng và thăng hoa, còn phải làm cho thân, miệng,
ý nghĩ không có vướng mắc (chấp trước) vào một sự việc
đặc biệt như là sinh hoạt, sinh mạng, thậm chí cả đến
Phật pháp cũng không được chấp trước.
Trong
kinh A Hàm, kể một lần có một đệ tử hỏi Phật Thích
Ca:
– “Bạch
Thế Tôn, giáo pháp của Thế Tôn có thể tóm tắt nói lên
bằng một câu rất đơn giản hay không?”
Phật
trả lời:
–
“Có thể”.
Đệ
tử lại hỏi:
– “Đó
là câu gì?”
Phật
nói:
–
“Đối với tất cả, đều không
chấp trước. Đó là lời nói quan trọng nhất trong tất cả
giáo pháp của ta”.
Tiếp
theo Phật lại nói:
– “Nếu
có người nào đó hiểu được câu ấy, thì sẽ tin theo toàn
bộ giáo pháp của Ta, nếu có một người nào đó thực hành
được câu ấy, thì tức là thực hành được toàn bộ giáo
pháp của Ta”.
Ôi!
Đối với tất cả đều không được chấp trước, đức
Phật Thích Ca giảng pháp thực là tuyệt vời!
Không
được chấp trước đối với pháp cũng như đối với sinh
hoạt. Pháp vị tất đã tôn quý hơn sinh hoạt. Ngồi quán
tưởng Bồ tát Quán Thế Âm cũng không phải là tôn quý hơn
bón cho trẻ con ăn. Cũng như vậy, bón cho trẻ con ăn, cũng
không phải là tôn quý hơn pháp. Cả hai đều là bình đẳng.
Suy nghĩ như vậy mới có thể không còn chấp trước pháp,
mới đoạn trừ được bệnh chấp trước.
Trên
thế giới này, không có một cái gì cố định gọi là Phật
pháp. Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, hay là niệm câu
chú Đại Minh sáu chữ cũng không phải là đại biểu cho Phật
pháp. Vì rằng, nhà Phật dạy:
– “Nếu
anh cho rằng, ở ngoài cuộc sống, có Phật pháp, thì tức
là trên đầu anh, anh lại đặt thêm một cái đầu nữa, mình
vốn có đầu rồi, lại đi tìm một cái đầu khác! Nếu anh
không chú ý tới cuộc sống của anh thì không thể có sự
canh tân, sáng tạo và siêu việt trong thân làm, miệng nói
và đầu óc suy nghĩ, và mọi tìm tòi, yêu cầu của anh đối
với Phật pháp đều là hư vọng”.
Ngài
Lục Tổ Huệ Năng cũng nói:
– “Phật
Pháp là ở trong thế gian, không tách rời thế gian mà giác
ngộ được, tách rời thế gian mà đi tìm sự giác ngộ, cũng
như tìm sừng trên đầu con thỏ vậy”.
Nếu
chúng ta muốn tách khỏi thế gian này để cầu tìm sự giác
ngộ (Bồ Đề) thì sẽ không khác gì đi tìm một con thỏ
có sừng. Đây là chuyện không thể có được. Trên thực
tế, Bồ Đề chính ở ngay trong cuộc sống, trong những việc
như khi anh cho con nhỏ của anh ăn cơm, như khi anh nấu canh,
canh ngọt mà tay không bị bỏng, ở trong tâm tình của anh,
trong tư thế của anh khi anh đi đường, ở quan điểm của
anh khi anh nhìn một vật gì đó. Thực ra không có một vật
gì cố định gọi là Phật pháp, mà trong cuộc sống toàn
là Phật pháp.
Có
người nghe nói như vậy, sinh ra lo sợ: “Như vậy thì ông
phủ định sự tồn tại của tám mươi bốn ngàn pháp môn
mà Phật đã từng giảng thuyết hay sao?”. Không phải,
đâu có phủ định sự tồn tại của tám mươi bốn ngàn
pháp môn, mà nên biết rõ tám mươi bốn ngàn pháp môn đều
là phương pháp giúp chúng ta cách tân, sáng tạo, đề cao hành
vi, lời nói và ý nghĩ của chúng ta. Nhưng chúng không phải
là mục tiêu.
Cũng
như hằng ngày, chúng ta niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát”. Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát, không phải là mục tiêu, mà là
phương pháp giúp cho tâm của chúng ta được thăng hoa, siêu
việt và sáng tạo.
Chúng
ta mỗi ngày đều lễ Phật. Lễ Phật cũng không phải là
mục tiêu mà là phương pháp giúp cho tâm chúng ta được hòa
dịu, nhờ đó mà mở mang được trí tuệ và lòng từ bi.
”
Thưa
quý thính giả,
Trên
đây là ý kiến của cư sĩ Lâm Thanh Huyền. Trong bài, ông
đã viết:
“Nhưng
đừng có cho rằng nghiệp dư thì phải thua chuyên nghiệp.
Có một số nhà văn nghiệp dư trong cả một đời chỉ viết
được một cuốn sách, nhưng quyển đó viết rất hay. Trái
lại, nhà văn chuyên nghiệp có thể trong một năm viết đến
hàng chục cuốn sách, nhưng cả đời không viết được một
quyển nào hay cả”.
Điều
này đúng cả trong đời tu hành và trong đời thường. Cốt
tủy của sự tu hành trong đạo Phật là đạt được trạng
thái Tâm vô sở trụ, không còn chấp trước, bám víu. Không
chấp trước, không bám víu, tức là xả bỏ. Cho nên, cửa
đầu tiên bước vào nhà Phật là cửa Bố Thí. Vào nhà mau
hay chậm tùy theo người tu hành chịu xả bỏ những chấp
trước, vướng mắc, mau hay chậm, mà thôi. Vì thế, có người
người tu cả đời mà nếu tâm vướng đủ mọi thứ, thì
không giác ngộ, không xong việc. Người nghe một lời khai
thị, mà xả bỏ được mọi chấp trước, thì giác ngộ mau.
Trong
cuộc sống đời thường, điển hình như trường hợp nhà
thơ Thôi Hiệu người Trung Hoa, thời nhà Đường, vốn không
sáng tác nhiều. Vậy mà chỉ một bài Hoàng Hạc Lâu là đủ
để danh tiếng của ông lẫy lừng cổ kim. Nhà biên khảo
Nguyễn Hiến Lê viết trong Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc
như sau: “Khi Lý Bạch (một đại thi hào đời Đường) tới
lầu Hoàng Hạc, đọc bài thơ này rồi, liệng bút than rằng:
“Nhãn
tiền hữu cảnh đạo bất đắc,
Thôi
Hiệu đề thi tại thượng đầu”
nghĩa
là: “Trước mắt có cảnh mà nói không được, vì có thơ
Thôi Hiệu ở trên đầu”.
Đến
như danh sĩ Lý Bạch mà còn phải liệng bút, không dám đề
thơ vịnh lầu Hoàng Hạc nữa, sau khi đọc bài thơ của Thôi
Hiệu, một người chỉ sáng tác rất ít, đủ thấy không
cứ phải viết nhiều mới có thơ hay.
Tóm
lại, tu hành không cứ ở thời gian nhiều hay ít, mà ở phẩm
chất, có chí tâm tu để giác ngộ giải thoát, hay là không.
Sáng tác văn thơ không cứ ít hay nhiều, mà ở tinh thần nội
dung, hay hoặc dở, mà thôi.
Ban
Biên Tập/TVHS
Bài
này đã được phát thanh trên làn sóng AM
1480 (KVNR) tại Nam California
ngày 25-3-2006 và ngày 26-3-2006 trên làn sóng AM1520
(KYND) &
AM 880 (KJOJ) tại
Texas. Live Webcasting at http://www.littlesaigonradio.com
8:00 PM Saturday (Pacific Time).
Discussion about this post