CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH PHẬT GIÁO
DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 13
THẾ
NÀO LÀ MỘT PHẬT TỬ ĐÚNG NGHĨA
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa quý thính giả,
Trong
nhiều trường hợp, một người tự xưng là Phật tử chỉ
khác người không phải là Phật tử ở chỗ khi nào trong nhà
có người chết thì rước một vị Sư áo vàng tới làm lễ
tang. Ngoài ra, suốt đời không hề tìm hiểu đạo Phật
nghĩa là gì, không hề tìm hiểu coi đạo Phật có điều gì
khác với các đạo khác, không hề biết đến giáo lý nhà
Phật, không hề biết đến chùa chiền, ngoại trừ mỗi khi
có công việc gì cần cầu xin, thí dụ cầu an, cầu tài lộc,
cầu cho con thi đậu, cầu buôn may bán đắt.. vân vân, thì
đem nải chuối đến chùa năn nỉ với Phật. Hoặc ngày Tết
thì mới lên chùa, nhưng không phải là lên chùa với mục
tiêu cúng dường Tam Bảo để tự huấn luyện cho bản thân
mở được cánh của Bố Thí buông xả trong tâm bằng cách
cúng dường vào chùa chút tịnh tài để nhà chùa có phương
tiện in ấn kinh sách, duy trì Phật đường, hoằng dương Chánh
Pháp, mà là lên chùa chỉ để xin xăm và hái lộc, hai việc
đó thì cũng rất vui, tuy nhiên, hái lộc chỉ cần một chồi
nhỏ, nhưng có người lại bưng cả một “chậu hoa lộc” về,
như thế là phạm vào một trong ba tật độc hại mà Phật
tử cần trừ là tật Tham.
Vậy
thì thế nào là một Phật tử đúng nghĩa?
Trước
nhất, chúng tôi xin trình bày vài khái niệm mặt lý thuyết.
Đạo
Phật là đạo Giác Ngộ. Từ vô thủy, chúng ta vì một
niệm mê mờ bất giác mà trôi lăn vào biển sanh tử, trồi
lên ngụp xuống, tới nay đã bao nhiêu đời kiếp rồi mà
không biết đường ra.
Nhờ
có đức Phật tu hành, Giác Ngộ được Bản Tánh Chân Thật,
lại mở lòng từ bi, dạy chúng ta đường lối tu hành chuyển
mê khai ngộ, biết đường trở về nguồn Tâm, để có thể
trở lại được Bản Tánh Chân Thật sẵn có của chính
mình, nên Ngài mới sáng lập ra đạo Phật.
Trên
con đường tu hành để Chuyển Mê Khai Ngộ, trở về Bản
Thể Chân Tâm, người Phật tử phải từng bước chuyển
hóa vọng tâm, chuyển hóa từ Tham Sân Si trở thành Giới Định
Huệ.
Vì
thế, Phật chế ra Giới để người Phật tử nương theo,
từ sự giữ Giới, giảm bớt mê say dục lạc, tâm hồn dần
dần trở nên trong sáng, ứng xử trong đời sống có sự từ
tốn, cảm thông với người, với vật, có sự bình tĩnh,
có Định lực, tâm trí nhờ thế mà sáng suốt để tiến
bước trên con đường Giác Ngộ.
Vì
đạo Phật chủ yếu là tự nguyện chuyển tâm nên không
có sự áp đặt, lôi cuốn. Người từ đạo khác chuyển qua
đạo Phật thường là do nghiên cứu kinh điển, hiểu được
cái tinh hoa thâm thúy của đạo Phật mà quay về đường Giác.
Người
Phật tử đúng nghĩa là người có tham dự một lễ truyền
thọ Tam Quy là Quy y Phật, Quy Y Pháp và Quy Y Tăng, gọi
là Quy Y Tam Bảo, nhận Tam Bảo là Thầy. Sau lễ quy y, người
Phật tử được thầy truyền thọ Tam Quy đặt cho một pháp
danh. Pháp danh này là biểu tượng chính thức của người
Phật tử, nói lên sự chấp nhận nương tựa vào Tam Bảo
về mặt tinh thần.
Chỉ
khi nào đã quy y Tam Bảo thì mới có pháp danh, là tên trong
đạo Phật, thí dụ Diệu Tâm, Tuệ Minh, Thiện Đạo, vân
vân… Không quy y mà tự mình đặt pháp danh hoặc có ông thầy
nào cao hứng tự ý tặng cho người quen biết cái pháp danh
dù người đó không hề quy y Tam bảo thì hành động đó là
sai trái, là không đúng giới luật của đạo Phật.
Quy
y như thế có nghĩa là chấp nhận sự hướng dẫn của Phật
Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Phật Bảo là chư Phật, Pháp
Bảo là giáo pháp, cụ thể là Tam Tạng Kinh Điển, Tăng Bảo
là chư Tăng Ni tu hành thanh tịnh, hiện đang đại diện Chư
Hiền Thánh Tăng để hướng dẫn Phật tử trên con đường
đến bờ Giác.
Khi
quy y Tam Bảo là chúng ta quy y Chư Phật, Chư Pháp và Chư
Tăng. Chư Tăng là “tất cả các Tăng”. Cho nên đã
quy y Thầy A rồi, khi thấy Thầy B danh tiếng lừng lẫy hơn,
bằng cấp cao hơn, ta lại quy y thêm Thầy B là dư thừa, vì
khi quy y Thầy A, ta đã đồng thời quy y Thầy B.
Có
người nói rằng :” Tôi chỉ quy y “Nhị Bảo” là Phật
và Pháp thôi, còn Tăng thì cũng như tôi, không cần quy y”.
Nghĩ như thế là sai lầm. Tăng hiện đang sống, đứng trước
mặt chúng ta là phàm tăng. Nhưng các vị ấy đại diện tất
cả Tăng Bảo của ba thời là quá khứ, hiện tại và vị
lai. Chúng ta quy y như thế là quy y tất cả Chư Hiền Thánh
Tăng của ba thời do các phàm tăng đại diện.
Ngoài
ra, Quy Y Tam Bảo còn có một nghĩa cốt tủy, rốt ráo, mà
Lục Tổ Huệ Năng đã giảng trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh,
chúng tôi xin lược trích sau đây:
Lục
Tổ nói:
“Nay
ta vì thiện tri thức truyền Vô tướng Tam Quy Y Giới. Khuyên các thiện tri thức, nên Quy Y Tự Tánh Tam Bảo: Phật
tức là Giác, Pháp tức là Chánh, Tăng tức là Tịnh.
Tự
tâm quy y Giác thì tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay
lià tài sắc, gọi là Lưỡng Túc Tôn.
Tự
tâm quy y Chánh, niệm niệm chẳng tà kiến, vì chẳng tà kiến
nên chẳng có nhơn ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi
là Ly Dục Tôn.
Tự
tâm quy y Tịnh, tự tánh đối với tất cả cảnh giới trần
lao ái dục đều chẳng nhiễm trước, gọi là Chúng Trung Tôn.
Nếu
tu hạnh này là Tự Quy Y.
Nay
đã tự ngộ, mỗi mỗi đều phải quy y Tự Tánh Tam Bảo,
bên trong tự sửa tâm tánh, bên ngoài kính mến mọi người,
tức là Tự Quy Y vậy.
Thiện
tri thức, xưa nay tam thân Phật ở trong Tự Tánh mọi người
đều sẵn có, tại tâm mê nên chẳng thấy Tánh bên trong,
chỉ hướng ra ngoài tìm tam thân Phật mà chẳng thấy tự
thân có tam thân Phật.”
Thưa
quý thính giả,
Ngoài
Quy Y Tam Bảo, mỗi người Phật tử cũng cần phải biết và
cố gắng tiến tới thọ từ một tới cả Năm Giới của
nhà Phật, đó là:
—
Không sát sinh,
—
Không trộm cắp
—
Không tà dâm
—
Không uống rượu và các chất say sưa
—
Không nói dối, nói vu cáo, nói thêm bớt thêu dệt, nói lời
xấu ác.
Để
quý thính giả thấy được tầm quan trọng của sự giữ giới
trong đạo Phật, chúng tôi xin lược trích bài Luận Về
Thọ Giới trong cuốn Khóa Hư Lục của vua Trần Thái Tôn,
như sau:
“Tịnh
giới tiếng Phạn gọi là Ba La Đề Mộc Xoa. Sở dĩ chư Phật
ba đời được thành đạo không vượt ngoài giới. Cho nên
hiện tại Bồ tát lấy Giới mà độ sanh; vị lai người tu
hành do Giới mà giải thoát.
Kinh
nói: “Giới như đất bằng, muôn điều lành từ đó sanh. Giới
như thuốc hay, chữa lành các bệnh. Giới như hòn ngọc sáng,
hay phá mờ tăm tối. Giới như chiếc thuyền, hay đưa người
qua biển. Giới như chuỗi anh lạc, trang nghiêm pháp thân”.
Người
có tội phải sám hối, nếu không sám hối thì tội càng sâu.
Một phen mất thân này, muôn kiếp chẳng được lại. Ngày
nay tuy an, sáng mai khó bảo đảm. Nên giữ Giới pháp này,
chóng qua sanh tử. Thờ Phật làm thầy, trước phải y theo
Giới luật. Cổ Đức nói: “Qua sông phải dùng bè, đến bờ
chẳng cần thuyền”. Đây là cổ nhân dùng Giới luật làm
thuyền bè. Song người nay chẳng dùng thuyền bè qua sông, mà
được đến bờ kia, thật ít thay! ”
Thưa
quý thính giả,
Vì
đạo Phật là đạo chuyển tâm, hứa thọ giới thì phải
giữ lời hứa, cho nên nhà Phật không áp đặt vào các em
còn nhỏ tuổi, chưa đủ trí khôn để nhận thức được
tầm quan trọng của lời hứa, mà người thọ Giới phải
đủ trưởng thành, đã biết suy nghĩ chín chắn, thì mới
có thể giữ Giới mà không vi phạm.
Trong
Năm Giới kể trên, Giới Vọng Ngữ là dễ phạm nhất.
Chúng tôi xin lược trích lời dạy của vua Trần Thái Tôn
về Giới này như sau:
“Tâm
là gốc thiện ác, miệng là cửa họa phúc. Nghĩ một niệm
thì hưởng ứng chẳng sai; nói một lời thì bóng theo chẳng
lệch. Quân tử trọng lời; cổ nhân ngừa nói. Nói ra thì
ngay thẳng công bằng; mở lời không cong queo tà vạy. Không
nói đây kia hay dở, chẳng bàn mình phải người sai. Đâu
dám khua môi múa lưỡi, cần phải giữ miệng gìn lời. Vả
nghiệp của thân là nặng, song họa của miệng là trước.
Chẳng những kẻ nói là vọng ngôn, còn khiến người nghe
làm bậy. Đời này bị người khinh rẻ, sau khi chết bị nghiệp
kéo lôi. Hoặc kềm sắt, kéo lưỡi cam chịu chua cay. Hoặc
nước đồng sôi rót vào miệng ôm lòng đau đớn.”
Thưa
quý thính giả,
Cư
sĩ Hoàng Liên Tâm bàn về vấn đề Họa Tòng Khẩu Xuất (tai
họa từ miệng mà ra), đăng trong Thư Viện Hoa Sen khoảng mấy
năm trước, như sau:
“Do
một bản tin ngắn dựa trên các tin đồn được báo chí Cambodia
loan tải đã làm cho một đám đông khoảng 500 người Căm
Bốt nổi giận đốt cháy toà đại sứ Thái Lan tại Thủ
đô Phnom Penth, gây thiệt mạng cho một người Thái Lan, bảy
người khác bị thương, ông Đại Sứ phải leo rào thoát chạy
ngả sau và làm căng thẳng mối bang giao giữa hai quốc gia
Thái Lan và Cambodia.
Trước
đây không lâu, cũng do một bài báo loan tải trên nhật báo
Ngày Nay (Thisday) ở Nigeria đã châm ngòi cho cuộc bạo động
giữa người Hồi giáo và người Thiên Chúa giáo, làm 215 người
thiệt mạng và hơn 1000 người bị thương. Phía người
Hồi giáo cho rằng bài báo đã xúc phạm đến họ khi nói
rằng ngài Mohammad sẽ chọn được vợ trong số các người
đẹp tới tham dự cuộc thi hoa hậu thế giới Miss World tại
nơi đây. Cuộc thi hoa hậu phải di chuyển sang Anh Quốc,
ban biên tập tờ báo đã phải xin lỗi, tờ báo bị đóng
cửa, và ký giả bài báo đã bị kết án tử hình để rồi
phải lẩn trốn ra nước ngoài tránh bị thọ án.
Chỉ
một bản tin viết không đúng sự thật làm cháy nhà, chết
người và ảnh hưởng đến bang giao giữa hai xứ. Chỉ
một câu nói, đáng lẽ không nên nói đã gây bao tang tóc,
làm hàng trăm người chết và hàng ngàn người bị thương. Quả thật là bút máu, là hoạ tùng khẩu xuất như người
xưa thường nói.
Tâm
ý của con người được diễn tả bằng lời nói hay bằng
cách viết trên giấy hoặc gõ trên key board máy vi tính, tuy
không phải là lưỡi kiếm, lưỡi dao, tên bắn, hay viên đạn,
nhưng nó nguy hiểm vô cùng vì nếu không biết lựa lời mà
nói, lựa chữ mà dùng thì nó có thể gây tang tóc cho nhiều
gia đình, làm bại hoại xã hội và đồng thời tác hại lại
chính người nói như hai sự kiện đã nêu trên.
Ngày
xưa, ở bên Tầu, có một nhà thơ nổi tiếng được một
vị quan Tổng Đốc tham ô khen ngợi nên nhà thơ đã dùng ngòi
bút của mình làm thơ ca ngợi đức độ của ông ấy. Những
bài thơ đã được khắc vào bia đá trong làng. Nhờ vậy,
vị quan đã tránh được cuộc thanh tra của viên Khâm sai triều
đình, do đơn tố cáo của dân.
Sau
khi viên thanh tra trở về kinh đô, quan Tổng Đốc ra lệnh
bắt giết tất cả những người đã tố cáo ông tham nhũng,
hà hiếp dân lành. Do vì lời khen ngợi, tán thán không
chân thật về quan Tổng đốc, nên đã mang tang tóc đến nhiều
gia đình và tự mang nghiệp vào mình.
Ngày
nay cũng vậy, nhiều người cũng vì danh lợi, cũng vì muốn
được người ta khen nên thường ca ngợi lẫn nhau, đâu có
biết rằng nếu không có trí tuệ sáng suốt thì ngòi bút
của mình sẽ gieo rắc sai lầm cho nhiều người và có thể
cho cả những thế hệ mai sau.
Đối
với tôn giáo, ảnh hưởng có thể còn nhiều hơn nữa. Thí dụ một người tự cho mình là Thánh, là Phật rồi được
những người khác thiếu hiểu biết tâng bốc, xưng tán, khen
ngợi, và cứ như thế lộng giả thành chân và người đó
tưởng mình là Thánh nhân thật, nên dù nói ra những lời
sai với chân lý, người nghe vẫn tin theo. Thế là cùng
nhau lạc vào con đường tà mà không hay biết. Cho nên người
khen và người được khen đều cùng nhau tác nghiệp và chắc
chắn không nhân nào mà không sanh ra quả. Chỉ còn chờ
duyên với thời gian thôi. Trường hợp của ký giả tờ
báo xứ Cambodia và tờ Ngày Nay (Thisday) ở Nigeria chỉ tác
hại đến việc giết hại một số người, đem tang tóc đến
cho một số gia đình, nhưng ở những trường hợp khác, ngòi
bút, nếu không dùng những lời chân thật, có thể dẫn dắt
con người đi ngược lại chân lý của từ bi trí tuệ, gieo
rắc ác tâm cho bao nhiêu người qua nhiều thế hệ mới là
những nguy hiểm gấp trăm ngàn lần.
Trong
kho tàng chuyện cổ Phật Giáo có câu chuyện ngắn về một
con rùa và hai con cò trắng. Chuyện kể rằng: Thưở
xưa, ở trong một cái hồ kia có một con rùa và hai con cò
trắng thường lui tới làm bạn với nhau. Năm nọ trời bị
hạn hán, không có một cơn mưa nào cả. Nước trong hồ
cạn dần và nhiều loài cá bị chết. Chàng rùa rất
sợ chết, muốn đi nơi khác nhưng không biết nơi đâu có
ao hồ, bèn hội ý với hai bạn cò trắng. Hai vợ chồng
cò trắng cho chàng rùa biết cách khoảng hơn trăm dặm có
một hồ sen lớn không bao giờ cạn nước, có thể di tản
đến đó được nhưng phải can đảm và bình tĩnh. Vợ
chồng cò trắng nói: “Chúng tôi mỗi người ngậm một đầu
cây còn bác phải ngậm chặng giữa cây, chúng tôi sẽ tha
bác đến hồ kia, nhưng lúc ngậm cây, bác cẩn thận chớ
nói chuyện” . Chàng rùa vâng lời, ngậm chặt khúc cây,
hai con cò tha chú rùa bay ngang qua xóm làng. Lũ trẻ con trông
thấy reo hò: “Hai con cò tha một con rùa” . Rồi có
đứa la lớn lên: “A ha thật giống hai thằng câm dắt
một thằng thầy bói mù!” Chàng rùa tức giận, không
kềm giữ miệng được, muốn nói: “Có mắc mớ gì bay, mặc
kệ chúng tao, đồ nhãi con.” Tội nghiệp thay, vửa
mở miệng, chàng rùa đã bị rơi xuống đất chết.
Đức
Phật nhân đây nói bài kệ:
Con
người ở thế gian
Búa
bén nằm trong miệng
Sở
dĩ chém thân mình
Là
do lời nói ác.
Điều
đáng chê lại khen
Điều
đáng khen lại chê
Là
tự chuốc tai hoạ
Không
có chút gì vui.
(Ngũ
phần luật quyển 25)
Đạo
Phật là đạo tôn trọng sự thật, vì thế mà một trong năm
giới của Phật tử là “Không Được Nói Sai Sự Thật”.
Nói dối, nói lời thêu dệt, nói hai lưỡi và nói những
lời hung ác; ngay cả nói những lời khen không đúng sự thật,
những lời để mưu cầu tài lợi, danh vọng và sự kính phục,
những lời gây chia rẽ căm thù cho đến những văn chương
bóng bảy làm cho người đọc phải loạn tâm, sinh phiền não,
người được khen sinh tự mãn, đều thuộc phạm vi giới
cấm này.
Xét
kỹ mọi việc rắc rối lôi thôi ở đời chỉ từ cửa miệng
mà ra. Ngàn tai ương, muôn tội lỗi xảy ra cho người
và cho mình đều do lời nói sai sự thật. Còn nếu dùng
lời chân thật, lời hiền lành, lời hoà ái sẽ mang lại
an lạc hạnh phúc cho mình, cho người. Cả hai đều lợi
lạc và an vui. Nhà Phật rất coi trọng sự chân thành, nói
năng thành thật là một trong Bát Chánh Đạo.”
Ban
Biên Tập
Discussion about this post