đình tôi theo đạo Phật từ xưa, trong nhà có bàn thờ
Phật, mẹ tôi ăn chay mỗi tháng bốn ngày. Nhưng bản thân
tôi và các anh chị em, kể luôn cả cha tôi nữa, đều không
biết gì nhiều về đạo Phật, ngoại trừ bàn thờ Phật
và chiếc áo tràng màu khói hương của mẹ tôi. Hôm nay
anh chị em chúng tôi có mấy thắc mắc muốn hỏi quý Ban Biên
Tập vì chúng tôi không thỏa mãn với câu trả lời của mẹ
tôi, là người Phật tử hiểu đạo nhất trong nhà.
Thắc
mắc thứ nhất:
Chúng
tôi thường thấy những gia đình đạo Phật đến chùa làm
lễ cầu siêu cúng cơm cho thân nhân đã chết hoặc những
dịp đám giỗ, vân vân. Vậy xin hỏi rằng những vụ cầu
siêu cúng cơm như thế, thân nhân đã chết có được hưởng
gì không?
Thắc
mắc thứ hai:
Nếu
nhờ cầu xin mà được, vậy thì không cần siêng làm các
điều thiện, cứ thoải mái làm các việc ác, miễn sao có
nhiều tiền, khi chết nhờ quý tăng ni làm lễ cầu siêu là
sẽ được siêu độ, được không ạ. Mẹ chúng tôi thì tin
tuyệt đối vào khả năng “làm Phật sự độ chúng sinh”
của các thầy, nên không niệm Phật tụng kinh, chỉ đến
chùa làm công quả những ngày cuối tuần, cho là khi chết
sẽ có các thầy lo”
VẤN
ĐỀ
CẦU SIÊU CÚNG CƠM
THÂN
NHÂN
QUÁ VÃNG CÓ ĐƯỞNG HƯỞNG KHÔNG
Thưa
quý
thính giả,
Về
thắc mắc thứ nhất, chúng tôi xin nhắc lại phần trình bày
của chúng tôi trong một kỳ phát thanh trước đây, như sau:
“Theo
Phật giáo, cái chết là sự chấm dứt của đời sống tâm-vật
lý của cá nhân. Chết là sự diệt tắt của sinh lực, tức
là đời sống tâm linh và vật lý, cùng với hơi nóng và thức.
Chết
không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sanh,
mặc dầu kiếp sống chấm dứt. Cái tiềm lực làm sống chúng
sanh không bị tiêu diệt.
Cũng
như ánh sáng đèn điện là biểu hiện bề ngoài mà ta có
thể thấy của luồng điện vô hình, chúng ta là biểu hiện
bề ngoài của luồng nghiệp vô hình. Bóng đèn có thể vỡ
và ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn tồn tại,
và ánh sáng có thể phát hiện trở lại nếu ta đặt vào
đấy một bóng đèn khác. Cũng như thế, sự tan rã của thể
xác không làm xáo trộn luồng nghiệp lực, và sự chấm dứt
của thức hiện tại dẫn đến sự phát sanh mới. Tuy nhiên,
không có gì trường tồn bất biến, như một thực thể đơn
thuần, “chuyển” từ hiện tại sang tương lai.
Trong
trường hợp nêu trên, nếu người chết tái sanh trở lại
vào cảnh người, chập tư tưởng cuối cùng tất nhiên là
một loại tâm thiện. Thức-tái-sanh là từ tâm thiện ấy
phát sanh, tự nhiên chuyển đến cái trứng và tinh trùng tương
xứng trong cảnh người.
Như
thế có nghĩa là cho đến lúc chết, luồng nghiệp lực vẫn
luôn luôn trôi chảy, không có một điểm thời gian gián đoạn.
Ngay lúc chết những chập tư tưởng vẫn liên tục kế tiếp
như trong đời sống.
Hiện
tượng chết và tái sanh diễn ra tức khắc, dầu ở bất
cứ nơi nào, cũng như làn sóng điện phát ra trong không gian
được thâu nhận tức khắc vào bộ máy thâu thanh. Luồng
nghiệp lực trực tiếp chuyển từ cái chết ngay đến tái
sanh, không trải qua một trạng thái chuyển tiếp nào. Phật
giáo thuần túy không chủ trương có linh hồn người chết
tạm trú ở một nơi nào, chờ đến khi tìm được một nơi
thích hợp để đầu thai.”
Trên
đây là quan điểm của Phật giáo Nguyên Thủy, hay còn
gọi là Nam Tông, trích trong cuốn Đức Phật và Phật
Pháp do Hòa Thượng Narada biên soạn.
Về
phía Phật giáo Bắc Tông, hay còn gọi là Đại Thừa,
thì quan niệm rằng không hẳn là tất cả mọi người sau
khi chết đều tái sinh ngay lập tức. Trường phái này
cho là những người có nghiệp rất thiện thì ngay sau khi chết
sẽ sanh vào các cõi Tịnh, thí dụ cõi Tây Phương Tịnh Độ,
Đông Phương Tịnh Độ, vân vân, và những người có nghiệp
rất ác thì sau khi chết sẽ sanh ngay vào các cảnh giới ác,
như Địa Ngục, Ngạ Quỷ hoặc tái sinh thành các loài súc
sinh. Trường hợp đó gọi là “chết đây sinh kia”. Ngoài
các trường hợp đó, sau khi chết, người ta có thể còn lưu
tâm thức lại một thời gian trong trạng thái gọi là Thân
Trung Ấm, và mơ màng trong cảnh giới này từ 1 lần 7
ngày, cho tới 7 lần 7 ngày, là 49 ngày. Trong thời
gian đó, nhất là 21 ngày đầu, người đã qua đời vẫn còn
có ấn tượng mạnh mẽ về kiếp sống vừa qua. Và chính
từ niềm tin này, người ta coi trọng sự cầu nguyện để
giúp chuyển hóa tâm trạng người chết khiến cho thần thức
của họ hòa nhập được vào các cõi an lành.
Như
vậy thì cả hai truyền thống Phật giáo, Bắc Tông và Nam
Tông đều không nói đến những hình thức cúng kiếng cho
người đã chết từ lâu, hàng năm trời, mà chỉ có thể
giúp cho người mới chết, qua những lời khai thị, những
bài kinh, thốt lên từ tấm lòng chí thành thanh tịnh của
chư vị chân tu và thân nhân, hy vọng thần thức của Thân
Trung Ấm cảm được, mà tiêu dung được các tâm niệm xấu,
cởi mở được các nỗi oán hờn.
Nhà
Phật quan niệm rằng các loài hữu tình chúng sinh tiếp xúc
được với thế giới bên ngoài là nhờ ở ba thành phần,
gọi là “bộ ba Căn, Trần cảnh và Thức”.
Căn,
là bộ phận cơ thể,
Trần
cảnh, là đối tượng nhận thức của Căn
Thức,
là phần tâm thức vô hình, vốn từ Chân Tâm vọng khởi mà
chuyển thành, cũng tràn ngập khắp không gian như Chân Tâm,
là cầu nối giữa Căn và Trần cảnh, tức là cầu nối giữa
bộ phận cơ thể của chúng sinh và thế giới mà chúng sinh
nhận thức, “cảm” hoặc “thấy” được.
Đối
với một cơ thể đã chết, bộ phận cơ thể, là Căn, đã
ngưng hoạt động, có nghĩa là bộ ba đã mất một phần,
thế thì những sinh hoạt về vật chất như ăn uống, hiển
nhiên là không thể tiếp tục.
Có
người cho rằng sau khi đã qua đời, người chết vẫn còn
ăn, gọi là Thức thực. Như chúng ta đã biết, Thức
vốn vô hình, nếu có Thức thực thì cũng chỉ là “cảm”
được những tâm niệm thương ghét, an ủi, v.v… không
thể “ăn” được món ăn vật chất. Nếu quả thật
là còn có sự thèm ăn, thấy thân nhân bầy những món ngon,
mà thần thức lại không thể ăn được, thì chỉ thêm thèm
thuồng đau khổ mà thôi!
Sau
đây là câu hỏi thứ hai:
“
Nếu
nhờ cầu xin mà được, vậy thì không cần siêng làm các
điều thiện, cứ thoải mái làm các việc ác, miễn sao có
nhiều tiền, khi chết nhờ quý tăng ni làm lễ cầu siêu là
sẽ được siêu độ, phải không ạ. Mẹ chúng tôi thì
tin tuyệt đối vào khả năng “làm Phật sự độ chúng sinh”
của các thầy, nên không niệm Phật tụng kinh, chỉ đến
chùa làm công quả những ngày cuối tuần, cho là khi chết
sẽ có các thầy lo”.
Thưa
quý vị,
Để
hiểu rõ hơn về vấn đề “làm Phật sự độ chúng sinh”
và niềm tin “làm lễ cầu siêu là sẽ được siêu độ”,
chúng tôi xin gửi tới quý vị lời giải thích ghi trong bộ
Giáo Khoa Phật Học cấp 2, do Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp
Tạng Việt Nam ấn hành, như sau:
…”
… Về tập tục tụng kinh siêu độ
cho người chết, theo hòa thượng Đạo An, vốn không phải
là một tập tục truyền thống của Phật giáo. Tập tục
này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Đường.
Điều này có thể đúng vì theo sử chép, thì năm 738, vua Đường
Huyền Tông đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận
đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa Khai Nguyên
(Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của vua Huyền Tông). Đó
là chùa công, do các quan lại địa phương trông coi, dùng làm
nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc thái dân an.
Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban đến
quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền
trung ương. Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm
kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào Tứ Xuyên lánh
nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn.
Trong một năm chiến tranh này, số người chết — chiến sĩ
của cả hai bên và thường dân –, nhiều vô kể. Triều đình
bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn quốc,
thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu
độ cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến
vừa qua, đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân.
Dân
chúng thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm
theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư
tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho
người chết trở thành một tập tục trong dân gian.”
Nhân
đây, chúng tôi cũng xin kính gửi tới quý thính giả quan điểm
của lão pháp sư Tịnh Không về vấn đề “làm
Phật sự độ chúng sinh” và niềm tin “làm lễ
cầu siêu là sẽ được siêu độ” này.
Lão
hòa thượng Tịnh Không là một vị cao tăng Trung Hoa đương thời, rất có uy tín, với một quá trình giảng kinh thuyết
pháp gần năm chục năm. Ngài là người đi tiền phong trong
việc sử dụng hệ thống truyền thanh, truyền hình vệ tinh,
mạng lưới thông tin toàn cầu và những phương tiện truyền
thông hiện đại khác trong việc truyền bá Phật pháp trên
khắp thế giới. Trong giới tu hành, nhiều người suy tôn ngài
như một vị Tổ của tông Tịnh Độ. Ngài nói:
“Trong
Phật pháp, nói Phật sự là giúp đỡ tất cả chúng sinh phá
mê khai ngộ, lìa khổ được vui, những sự việc này đều
gọi là Phật sự.
Vậy
còn hiện nay thì sao?
Hiện
nay thì thời gian tiếp xúc với kinh điển cơ hồ ít hơn,
nhìn thấy trong cửa Phật phần nhiều đều là lấy kinh sám
“Phật sự siêu độ người chết”, cho rằng đây
là Phật sự. Cho nên vừa nghe nói đến tiếng “Phật sự”
là rất dễ sinh ra hiểu lầm. Những việc siêu độ vong
linh này ở trong Phật giáo xuất hiện rất trễ …, rất trễ.
Thời xưa ở Ấn Độ chẳng có. Khi Phật giáo được
truyền đến Trung quốc, lúc ban đầu cũng chẳng có. Vậy
sự việc này xảy ra như thế nào?
Năm
trước, trong buổi Phật học giảng tọa tại trường Đại
Học ở Đài Loan do lão pháp sư Đạo An chủ trì, đã có một
sinh viên nêu vấn đề này ra để hỏi lão pháp sư. Hôm đó
tôi cũng có mặt nên cũng đã có nghe. Lão pháp sư nói rằng
sự việc này có thể là bắt nguồn từ giữa niên hiệu
Khai Nguyên triều đại nhà Đường. Vào thời gian đó,
có loạn An Lộc Sơn tạo phản, giặc giã nổi lên khắp nơi.
Nhờ có danh tướng Quách Tử Nghi tài giỏi mới bình định
được nội loạn.
Khi
an ninh đã được vãn hồi, nghĩ tới những linh hồn chết
thảm còn vất vưởng lang thang nơi đồng hoang cỏ cháy không
ai thờ cúng, triều đình cho xây tại mỗi bãi chiến trường
một ngôi chùa đều lấy tên niên hiệu Khai Nguyên để đặt
làm tên, rồi thỉnh quý vị cao tăng từ khắp các nơi về
các chùa Khai Nguyên này để tụng kinh cầu siêu độ cho các
vong hồn. Từ đó, tại mỗi bãi chiến trường lớn đều
có một chùa Khai Nguyên. Nguồn gốc Khai Nguyên Tự như lão
pháp sư Đạo An đã nói, là do triều đình đề xướng, mở
hội truy điệu, thỉnh những vị cao tăng đại đức tụng
kinh cầu siêu độ.
Từ
đó về sau, trong dân gian, khi gia đình có người qua đời,
thì cũng thỉnh mời tăng ni đến tụng kinh cầu siêu. Như
vậy là đối với Phật pháp, đây chính là việc phụ thêm,
chẳng phải là công việc chủ yếu của Phật môn, chẳng
phải !
Nhưng
hiện nay thì nó lại đã trở thành chủ yếu mất rồi ! Hiện
nay tại rất nhiều đạo tràng, người ta lấy việc này làm
công tác chủ yếu. Cho dù có giảng kinh thì thời gian làm
Phật sự chính yếu này cũng rất ngắn, rất ít. Có những
chùa một năm giảng kinh bốn lần, trong bốn mùa Xuân Hạ
Thu Đông, mỗi mùa giảng một tuần, một năm giảng bốn tuần,
chia cho bốn mùa. Cho nên Phật sự chính thức là giảng kinh
thuyết pháp để chuyển mê khai ngộ cho dân chúng thì
lại đã biến thành việc phụ, còn việc bái sám, cầu siêu
đã biến thành “Phật sự” chủ yếu mất rồi.
Điều
này
chúng ta phải có nhận thức rõ ràng, vào thời trước,
Phật
sự là giảng kinh thuyết pháp”
Thưa
quý thính giả,
Đối
với việc cúng bái cầu siêu, chúng tôi xin nhắc lại ý kiến
mà chúng tôi đã đề ra trong một kỳ trước, rằng người
Đông Phương chúng ta, từ thời xa xưa, vốn đã có truyền
thống cúng bái người đã qua đời, nhất là cúng bái tổ
tiên, ông bà, cha mẹ, coi như một hình thức báo hiếu,
trước là nói lên lòng thành kính tưởng nhớ chư vị đã
khuất, sau là nhắc nhở con cháu nên tiếp nối mỹ tục biết
cảm ơn các bậc sinh thành, cũng như mỗi quốc gia đều có
những ngày kỷ niệm Chiến Sĩ Trận Vong, để nói lên lòng
nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ có công với đất nước vậy.
Chúng ta có từ ngữ “Đạo Ông Bà”, nghĩa là theo truyền
thống từ thời xa xưa, khi ông bà, cha mẹ, thân nhân qua đời,
gia đình đem hình ảnh và bát hương bày lên bàn thờ, quanh
năm hương khói, đến ngày giỗ thì làm cơm cúng, đó là tập
tục của hầu hết những dân tộc Đông Phương, nhất là
tại những quốc gia ảnh hưởng đạo Khổng.
Như
vậy, theo phong tục cổ truyền, việc cúng giỗ cũng là
điều tốt, coi như là ngày kỷ niệm, tưởng nhớ người
đã khuất. Chúng ta có thể tổ chức cúng giỗ tại nhà,
hoặc tại chùa. Nếu đủ phương tiện để có thể làm lễ
trên chùa thì rất tốt. Trước nhất, đây là một duyên lành
giữa thân nhân người chết đối với nhà Phật, có dịp
cho họ tiếp cận với các vị Sư, nhân đó, có thể hiểu
thêm về Phật pháp. Thứ nữa là thân nhân người chết có
thể tạo chút phước qua việc cúng dường Tam Bảo, để nhà
chùa có thêm khả năng ấn tống kinh sách, phổ biến Phật
pháp rộng rãi, thêm phương tiện để hoàn thành các Phật
sự. Các vị Sư là những Trưởng Tử Như Lai, là những Đạo
Sư, có nhiệm vụ hoằng dương Chánh Pháp song song với việc
tu tập bản thân. Phật tử cũng vậy, cũng cần tu tập bản
thân và giúp phương tiện cho các Đạo Sư trong công cuộc
hoằng truyền và bảo vệ sự trong sáng của đạo Phật.
Về
trách nhiệm của Đạo Sư, có một câu chuyện ẩn dụ vui
vui, để nhắc nhở tầm quan trọng của sự dậy đạo, như
sau:
Có
ông lang băm kia trong thời gian còn sống tại thế, do tài coi
mạch bói không ra bệnh, ổng giết nhiều người quá. Khi chết
xuống âm phủ, chiếu theo tội trạng, Diêm Vương ra bản án
cho ông được định cư ở Địa Ngục tầng thứ 18. Vừa
nghe Diêm Vương nói xong là ông ta đã thấy mình đứng ngay
nơi Địa Ngục tầng thứ 18 rồi, đó là thần thông của
Diêm Vương, khỏi tốn tiền mua xe chở tù, giảm việc sổ
sách.
Thấy
mình chưa kịp cãi cọ, luật sư chưa kịp thu tiền, mà đã
lọt vào tận đây, ông lang băm giậm chân đùng đùng để
phản đối. Bỗng nhiên, ông ta nghe văng vẳng từ phía dưới
vọng lên:
—
Đứa nào ở trên đó mà ầm ĩ quá vậy, cho ta ngủ một chút
chớ !
Ông
lang băm ngạc nhiên hỏi vọng xuống:
—
Ủa, sao còn có ai dưới đó ? Ta đã ở Địa Ngục tầng thứ
18 rồi mà, bộ còn có tầng thứ 19 nữa hay sao?
Thì
có tiếng phía dưới vọng lên:
—
Đúng chóc rồi đó, cha nội ! Ta đang ở tầng thứ 19 đây
nè.
Ông
lang băm ngạc nhiên thấy có kẻ dám qua mặt mình, bèn lại
hỏi vọng xuống:
—
Nhà ngươi lúc sống làm nghề gì mà nay phải vào tầng thứ
19 ?
Có
tiếng nghẹn ngào tức tủi vọng lên:
—
Hu …hu, khi xưa ta làm đạo sư, dạy sai Chánh Pháp. Diêm
Vương bảo tội ta nặng hơn tội lang băm giết người, vì
lang băm chỉ giết một số người, rồi chết là hết gây
họa. Còn ta thì vì dạy bậy, số học trò học bậy của
ta lại tiếp tục dạy bậy, học trò chúng nó lại tiếp tục
dạy bậy, liên miên chẳng biết bao giờ mới chấm dứt, cho
nên chẳng biết bao giờ ta mới hết tội, mới được tháo
cũi xổ lồng, ra khỏi đáy địa ngục thứ 19, …hu hu hu …
Ban
Biên Tập TVHS
Bài
Đọc
Thêm:
BƠ
VÀ
NHỮNG VIÊN ĐÁ CUỘI
Một
ngày
nọ có chàng trẻ tuổi vừa buồn vừa khóc, tìm đến
Đức Phật. Đức Phật hỏi, “Cái gì sai trái đã làm nhà
ngươi khóc?”
“Thưa
ngài,
cha con chết ngày hôm qua.”
“Thì
nhà ngươi làm gì được? Ông ấy đã chết rồi, buồn khóc
chẳng thể làm ông ấy sống lại.”
“Vâng,
thưa ngài, con hiểu điều đó; buồn khóc chẳng thể làm cho
cha con trở về với con. Nhưng con đến đây cầu xin ngài một
điều: xin ngài hoan hỷ làm một điều gì đó cho người cha
quá vãng của con!”
“Vậy
ta có thể làm gì giúp cho cha con?”
“Thưa
ngài, xin ngài làm một cái gì đó. Ngài là đấng toàn năng,
chắc chắn ngài có thể làm được. Ngài hãy xem, các vị
tu sĩ cúng tế, các thầy phát giấy xá tội, đã cử hành
những nghi thức cúng lễ cầu siêu giúp người quá cố.
Và nghi thức cúng tế cầu siêu nếu được tổ chức sớm
ở đây, thì cánh cửa trên thiên giới sẽ được mở ra sớm
và người quá cố sẽ được siêu thăng về nơi đó. Họ
sẽ nhận được giấy nhập cảnh. Thưa ngài, ngài là đấng
toàn năng, ngài có đầy đủ quyền lực! Nếu ngài chủ tế
nghi thức cầu siêu cho cha con, cha con không những nhận được
giấy nhập cảnh nơi thiên quốc mà ông ấy sẽ được ở
thường trú luôn. Thưa ngài, xin ngài hoan hỷ giúp cha con!”
Biết
rằng chàng trai trẻ tràn ngập nỗi đau khổ chắc khó có
thể hiểu được những lý lẽ phải trái trong lúc này, nên
Đức Phật đã phải dùng một phương tiện khác giúp cho chàng
ta hiểu. Vì thế Phật nói: “Nhà ngươi hãy đi mua hai cái chậu
đất nung.” Chàng trẻ tuổi lấy làm sung sướng, nghĩ rằng
Đức Phật đã nhận lời làm lễ cầu siêu cho cha hắn và
đã tức tốc đi chợ mua hai cái chậu bằng đất nung.
“Được
rồi,” Phật nói, “đổ vào chậu thứ nhất đầy đá cuội,
chậu thứ hai đầy bơ.” Chàng trẻ tuổi làm y như lời Phật
dạy.
“Bây
giờ bịt miệng cả hai chậu lại, xong bỏ xuống hồ nước.
Chàng trai trẻ làm xong, hai chậu chìm xuống dưới đáy hồ.
“Bây giờ” Phật nói, “đem cái gậy ra đây, chọc bể cả hai
chậu.” Chàng trẻ tuổi rất lấy làm sung sướng, nghĩ rằng
đức Phật đã cử hành nghi lễ cầu siêu cho cha hắn.
Theo
tập quán cổ truyền cổ Ấn Độ, khi người cha chết, người
con làm lễ hỏa táng. Vào khoảng giữa thời gian thiêu, người
con dùng cây gậy thọc và làm vỡ sọ đầu. Cũng theo niềm
tin cổ truyền của họ, cho đến khi sọ đầu được mở
ra nơi trần gian này thì cánh cửa thiên giới cũng được
mở ra. Vì thế chàng trẻ tuổi tự nghĩ là, “Cha ta đã được
thiêu đốt ngày hôm qua. Như là một biểu tượng, đức Phật
muốn mình làm vỡ các chậu ngày hôm nay!” Chàng cảm thấy
sung sướng nhiều với nghi thức này của Đức Phật.
Chàng
trẻ tuổi đã dùng cây gậy làm bể hai chậu. Lập tức, chậu
đựng bơ bị vỡ, bơ nổi lênh láng trên mặt hồ nước.
Chậu kia đựng những hòn đá cuội vẫn nằm yên dưới đáy
hồ. Rồi Đức Phật nói, “Chàng trẻ tuổi, đó là những
gì ta đã làm. Bây giờ hãy mời các thầy cúng tế và nói
với họ hãy tụng kinh và cầu nguyện: “Hỡi các viên đá
cuội, hãy nổi lên, hãy nổi lên! Hỡi bơ ơi, hãy chìm xuống,
chìm xuống!” Hãy cho chúng ta xem sự kiện xảy ra.”
“thưa
ngài, ngài nói đùa với con! Không thể nào như thế được,
những viên đá cuội nặng hơn nước, chúng chìm xuống đáy.
Chúng chẳng thể bao giờ nổi lên được. Đây là định luật
tự nhiên! Và thưa ngài, bơ nhẹ hơn nước, chúng nổi lên
mặt nước, chẳng bao giờ có thể chìm xuống được. Đây
là định luật tự nhiên.”
“Chàng
trẻ tuổi, nhà ngươi biết nhiều về định luật tự nhiên,
nhưng nhà ngươi đã không hiểu về định luật tự nhiên
này. Nếu trong suốt cuộc đời của cha nhà ngươi mà ông
ấy đã làm những điều nặng như những viên đá cuội, (3)
cha nhà ngươi sẽ bị đọa, ai có thể giúp cha nhà ngươi
siêu thoát lên trên được? Và nếu tất cả việc làm của
cha ngươi nhẹ như bơ, (4) ông ấy sẽ được siêu thoát; ai
có thể đè ông ta xuống được?”
Nếu
chúng ta hiểu định luật tự nhiên (5) và sống theo luật
tự nhiên này, chúng ta sẽ vượt thoát khỏi những khổ đau
và bất hạnh của cuộc đời.
Tâm
Diệu
http://www.thuvienhoasen.org/tamdieu-bovanhungviendacuoi.htm
Cước
Chú:
(1)
Bản viết này được trích dịch từ quyển “The Art Of Living,
Vipassana Meditation, As Taught By S.N. Goenka” của William Hart do nhà
xuất bản Harper San Francisco phát hành năm 1987 trang 55-56. Cuối
bản viết tác giả có ghi chú là “Based on S. XLII. viii. 6, Asibandhakaputta
Sutta.
(2)
Asibandhakaputta Sutta là một phẩm trong Tương Ưng Bộ Kinh, Tập
IV hệ Pali (Samyutta Nikaya, IV). Chúng tôi không có bản Việt
dịch của HT Minh Châu, nhưng có tham chiếu bản dịch Anh ngữ
của Bhikkhu Bodhi do Dr. Bình Anson (Uc Châu)gửi tặng.
(3)
Những điều nặng như viên đá, được hiểu là trong cuộc
đời đã tạo những nghiệp xấu, nghiệp ác. Theo bản dịch
tiếng Anh của Bhikkhu Bodhi là, “a person here who destroys life,
takes what is not given, engages in sexual misconduct, speaks falsely,
speaks divisively, speaks harshly, chatters idly, one who is covetous,
full of ill will, and holds wrong view”.
(4)
Những điều nhẹ như bơ, được hiểu là trong cuộc đời
đã tạo những nghiệp tốt lành. Theo bản dịch Anh ngữ của
Bhikkhu Bodhi là, “there is a person here who abstains from the destruction
of life, from taking what is not given, from sexual misconduct, from false
speech, from divisive speech, from harsh speech, from idle chatter, one
who is not covetous, without ill will, who holds right view.”
(5)
Định luật tự nhiên (the law of nature). Luật nhân quả (kamma)
là một trong năm định luật tự nhiên của vũ trụ vạn vật.
Bốn định luật kia là: utu, bija, dhamma và citta. “Định luật
nhân quả cho rằng nhơn gieo thì quả trổ. Nhơn lành đem lại
quả tốt. Nhơn ác đem lại quả xấu. Đó là định luật
tự nhiên, phải trổ sanh như vậy chớ không phải là một
hình thức thưởng hay phạt…” (Đức Phật và Phật Pháp,
trang 313, HT. Narada Thera, Phạm Kim Khánh Việt dịch)
Discussion about this post