TƯỞNG NHỚ MỘT NGƯỜI THẦY TRONG ĐẠO:
TỲ KHEO THÍCH MINH CHÂU
Giáo Sư Trần Ngọc Ninh
LGT:
Giáo sư Trần Ngọc Ninh, Thạc-sĩ* Y-khoa Đại-học Pháp, nguyên Giáo-sư Văn-minh
Đại-cương và Văn-hoá Việt-Nam tại Đại-học
Vạn-Hạnh (Sài Gòn), nguyên Tổng-trưởng Văn-hoá Xã-hội và Đặc-trách Giáo-dục
trong Chính-phủ VNCH; nguyên Viện Trưởng Viện
Việt-Học (California), 3/2003-2/2008.
Tôi được
biết tin Tì Kheo Thích Minh Châu đã viên tịch ở Việt Nam ngày 1 tháng 9 năm
2012, thọ 93 tuổi.
Tin báo
đến không trực tiếp hay qua dây nói, mà từ hai người báo tin mà tôi coi như em
trong lòng, đã không muốn làm rộn tôi những tháng năm mai danh ẩn tích cuối
đời. Nhưng trong thực tế, cái nghiệp dạy học của tôi không dứt được. Tôi ngưng
sự giảng dạy y khoa và bỏ nước, bỏ tất cả cái sự nghiệp nghiên cứu và truyền
thụ y học vô tận khi được lệnh phải hạ thấp cái học và cái biết của các y sĩ
tương lai xuống mức độ bệnh kiết-lị, bệnh sán lãi (mà người ta gọi là y tế nhân
dân). Tôi rũ bỏ hết, chỉ đội một cái nón lá trên đầu mà xuống thuyền vì tôi
nghĩ rằng nếu tôi đi tu thì phải tới được Chánh Đẳng Chánh Giác dầu có phải qua
vạn kiếp khổ, nhưng bảo rằng ngừng thì không, không và không. Sự biết lỏng là
đầu mối của rất nhiều khổ đau.
Lúc ấy,
tôi chỉ mới tu được có mười năm.
Mười năm
trước là cái duyên gặp gỡ của tôi với Thượng Tọa Minh Châu.
Trước đó
nữa, tôi chỉ được nghe nói rằng Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam ở chùa Ấn
Quang, đường Sư Vạn Hạnh, Sài Gòn nơi mà anh tôi Trần Ngọc Lập, bút danh Trần
Việt Sơn, có được mời tới giảng dạy, về pháp gì trong Đạo Phật tôi cũng không
biết; rằng ở trường có hai vị Thượng Tọa đã đậu Tiến Sĩ Phật Học ở tu viện
Nalanda Ấn Độ, lúc ấy đang là giáo sư. Một trong hai vị này và là người đầu
tiên trong thời nay đã đi chiêm bái, tu học và thỉnh kinh từ Thiên-Trúc về Việt
Nam, là Thượng Tọa Minh Châu.
Đạo Phật
đã sinh ra ở Ấn Độ, chính thức là do Đức Cồ Đàm (Gotama) mà ta tôn thờ là Phật
Tổ Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) nhưng ngài chỉ xưng danh là Tathagatha Đức Như
Lai, là “Đã Đến“. Ngài là
Đã Đến, là Như Lai, trước hết là vì trước Ngài, đã có hằng ha sa số Phật, mỗi
Phật đã chỉ xuất hiện trong một chớp mắt ở một hạt bụi của vũ trụ (như trái
đất), ở đó sự sống đã làm thành những sinh vật gọi chung là “Con Người” đã đạt được những khả
năng đi vào đường Đạo mà thoát khỏi cái khổ phải bám vào những cơ cấu của vật
chất để tưởng rằng mình có một cái “Tôi“,
một bản thể, một Être, một Sein, một Being, một không-tưởng vô thường. Đức Phật
gọi “Cõi người ta” là cõi
Ta-Bà (Samsara) nó chỉ chứa sự sống cho tới khi nào mặt trời hết nguyên liệu để
cho nổ liên tục những trái bom nhiệt hạch (Therma-nuclear bombs). Ở những
Thế-giới khác, những Lokadhatu mà Ni I.B.Horner dịch là hệ thiên hà (galactic
system) chứ không phải là hệ định tinh như hệ mặt trời (solar system), có thể
trong một kiếp (kappa), một a tăng kì kiếp (asankheyya) một đại kiếp (Mahakaffa), tính bằng triệu, tỉ
hay nghìn tỉ năm mặt trời của cõi Ta-bà, may mắn lắm thì có một Đấng Toàn Giác
xuất hiện thành Phật và dạy người đời để bước vào Chánh-Đạo. Kinh Buddavamsa
(Phật-Phả) nói rằng trong khoảng bảy vô lượng kiếp này đã có Đức Difankara
(Nhiên Đăng) là Đức Phật thứ bốn; ngài đã thụ kí cho một thầy tu kín tên đời là
Sumedha (Thiên Huệ) đã rời lều cỏ bay đến xỏa tóc và nằm phục dưới chân Phật để
cầu có thể đốt cháy được hết các chấp kiến không cho mình ngộ được Bồ đề
Toàn-giác.
Qua đi
một trăm ngàn kiếp và vô lượng kiếp với hai mươi ba đời Phật, Đức Sumedha đã
thành một Bồ-Tát (Bodhisatta) có tên đời là Narada và đã từ cõi trời Đâu-Xuất
Tusita xuống cõi trần đầu thai làm người với cái tên là Gotama, thành đạo, đạt
được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Anuttara Samyaksambodhi, A-nậu-đa-la
Tam-miệu (muội) Tam bồ đề). Nhưng Bồ Tát vẫn giữ nguyên cái thân phận con
người, bố thí tất cả cuộc đời còn lại của mình để dạy những ai muốn theo; hằng
năm đi chân không từ Bắc Ấn xuống Nam Ấn rồi lại ngược lên trước mùa mưa gió,
vào sâu trong các làng để khuyến giáo và khất thực trước khi ngồi thiền và
giảng giáo lí cho các Tì Kheo và Tì Kheo Ni (nữ đệ tử) của Sangha (Tăng-già,
Giáo Hội) mà ngài đã cho phép lập nên.
Đức Phật
còn tự xưng là Như Lai; đã đến với các môn đồ vì một lí do nữa; là vì có những
người đưa ra những nghi vấn về gốc nguồn, về thập thế, về sự tử sinh của Ngài,
Phật là người hay là Pháp và có còn hay là mất khi thân hình đã tịch diệt? Như
Lai đã đến thực và ngồi đó, nói đó, không phải hỏi đến cái đã qua và cái chưa
tới trong cái Thời vô thủy vô chung không bao giờ hết Giáo Pháp. Thời của Phật
Giáo là cái vô hình tướng do các sát-na (Ksama) nối tiếp nhau, có từ trước vụ Nổ
Bùng lớn “Big Bang”, nên không gọi được là “thời gian” vì
không có giới hạn như “không gian” (space) của vũ trụ hay “thế
gian” (world) của người đời.
Tôi được
gặp Thượng Tọa Thích Minh Châu lần đầu là trong một buổi lễ rất ngắn tại Bộ
Quốc Gia Giáo Dục, đường Lê Thánh Tôn vào năm 1967. Tôi ghi lại theo cái trí
nhớ đã đứt khúc trong tuổi già của tôi. Thượng Toạ, mặt tròn như trăng rằm,
mình mặc một tấm áo cà sa vải vàng, đại diện cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Tôi đại diện cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa trong tư cách Tổng-Ủy-Viên Văn Hóa
Xã Hội kiêm Ủy Viên Giáo Dục, cùng với Ông Ngô Trọng Anh, Ủy Viên Công Chánh
của Chính Phủ. Chúng tôi kí cái hợp đồng cho Giáo Hội thuê cái cơ sở mới xây
bởi Bộ Công Chánh trong một thời hạn là 99 năm có thể tiếp diễn, với cái giá
tượng trưng là một đồng bạc. Cái Hợp đồng hôm ấy là bản khai sinh của viện và
trường Đại Học Vạn Hạnh.
Thượng
Tọa cho tôi biết là trường Vạn Hạnh đầu tiên sẽ chỉ có hai phân khoa, là Phật
Học mà Khoa-Trưởng là do chính Thượng Tọa giữ trọng trách, và khoa kinh tế xã
hội hay khoa học nhân văn, sẽ nhờ Giáo-sư Tôn Thất Thiện làm khoa trưởng. Những
bước đầu sẽ rất là khó khăn, tôi đồng ý nhưng không dám có một lời đóng góp.
Tuy đã có học về các Đại Học Âu-Châu từ thời Phục Hưng qua cách mệnh Pháp về những
biến động của thời nay, lại đã trải qua công cuộc canh cải nền Giáo Dục Đại Học
Y Khoa VN từ 1954 đến 1965. Khi chuyển từ ảnh hưởng Pháp trước Thế Chiến II
sang Pháp luân của Hoa Kì sau Thế Chiến. Về tinh thần, triết lí, giáo pháp của
Phật-giáo thì thực sự là khi ấy tôi mù tịt. Vả lại, lúc đó, tôi cũng còn đang
điên đầu về sự xây dựng lại cái hạ tầng cơ sở của nền Giáo dục Quốc Gia và việc
nâng cao sự học trong nước để có thể cộng tác và cạnh tranh (hai mặt song song)
với Quốc tế. Công việc ở bệnh viện và ở trường Y Khoa Sài Gòn tôi cũng không
thể rời bỏ được nhưng nhờ có sự giúp đỡ của các Bác sĩ cộng tác viên lại có
thêm GS. P. Petit, một thầy cũ của tôi, từ Paris sang dạy đỡ, nên tôi chỉ về
bệnh viện những ngày chủ nhật khi Bộ Giáo Dục đóng cửa.
Nhưng ba
tháng sau khi rút ra khỏi được Bộ Giáo Dục và Tổng Bộ Văn Hóa Xã Hội, thì một
buổi sáng nọ có người cầm một bức thư của Thượng Tọa Viện Trưởng Đại Học Vạn
Hạnh đến, mời tôi lại viện, có việc muốn tham khảo. Ông muốn tôi làm một giáo
sư của viện. Môn gì, ông bảo để tùy tôi chọn. Nhưng tôi chưa từng đọc một câu
kinh, nghe một câu kệ và cũng không bao
giờ tự mình vào trong cái chùa nào để lạy (lễ) Phật. Mà từ chối mãi không tiện,
tôi đành phải nhận một giờ mỗi tuần với một đề tài mà tôi nghĩ rằng sẽ nói tự
tâm vì không có sách, là “Khoa học với tôn giáo”, nhưng tôi sẽ chỉ
nói về “Tôn giáo trước khoa học”. Nói cách khác, đây là vấn đề
“Đạo Lí của khoa học”.
Chuyện
dạy học của tôi ở Đại Học Vạn Hạnh là một Đại Học Phật Giáo còn có lắm chuyện
éo le hay là oái ăm nữa. Tôi không sợ sự tùy tâm và không có sách, là vì từ
tuổi nhỏ cho đến khi lớn, cha mẹ và các thầy không dạy mình cái gì thất đức;
lúc đã thành người học y-khoa, lại thấy tận mắt sự tàn ác của những con người
học lầm hay hiểu lầm những học thuyết và những khoa học văn minh, thì đã biết,
tự biết. Mà “biết” là /bodh/ diễn thuật từ Sanskrit (Phạm Ngữ), căn của danh từ
Buddha. Sự biết này không ở trong sách, không ở ngoài tâm. Khoa học của loài
người đã lên cao lắm nhưng khoa học mà không có tâm là sự tàn phá của tinh
thần.
Sau một
năm dạy về khoa học và tôn giáo, tôi dạy về tôn giáo sơ khai và tôn giáo tiền
sử, tức là một chương lớn của khoa học tôn giáo. Rồi tôi bị bệnh nặng, liệt
giường gần hai tháng. Lúc hồi phục, phải dùng sách và viết bài, tôi dạy lịch sử
Văn Minh (của loài người) rồi dạy Lịch Sử Văn Hóa Việt Nam khi tôi học về
Ngữ-lí Việt-Ngữ (Linguistique
Vietnamienne). Chẳng có một mảy may là Đạo Phật. Vì khi ấy tôi đã bước vào
Đường mà Đức Phật đã chỉ để tới Mặt Trăng. Và vượt Mặt Trăng.
Tì Kheo
Thích Minh Châu là người đã đẩy tôi lên con đường mà từ đó tôi không ra khỏi.
Hai
tháng trước ngày Phật Đản, thượng tọa Viện Trưởng tìm tôi và thỉnh tôi diễn
giảng về cốt tủy của Đạo Phật tại Đại Giảng Đường của Viện. Tôi được giải thích
rằng đây là lễ Vesak, không phải là ngày Phật Đản sinh, mà là gồm ba ngày một
gần nhau là ngày đản sinh, ngày thành đạo và ngày nhập Bát-Niết-Bàn ngày quan
trọng nhất của Đạo.
Càng
quan trọng thì lại càng không đến cái thứ tôi. Bao nhiêu người giỏi trong viện
cũng như ngoài viện, tại sao không thỉnh lại gọi đến một anh mù kinh. Tôi không
biết gì cả, cái vỏ không có, biết gì đến cái lõi mà nói. Thượng tọa bảo tôi vào
thư viện của trường, có khi Phật độ,
thấy được chăng.
Nói đến
thư viện thì tôi động lòng hiếu kì, muốn thấy tận mắt xem thư viện có được bao
nhiêu quyển, so với tứ thư, ngũ kinh của khổng mạnh và Nho-gia thì được mấy
phần, còn đọ với thư viện Vatican thì chẳng cần nói cũng biết rằng chỉ là lửa đom đóm bên cạnh mặt trời. Tôi
tìm đường vào thư viện, cửa mở không khóa. Ở trong, là một cái phòng lớn, đèn
thắp sáng ngày đêm ở góc có một cái bàn nhỏ, có một cô dáng người mảnh mai,
mình bận áo ni cô xám, đang ngồi đọc hay dịch kinh. Tôi bước lại, tự giới
thiệu, và cô nói “Dạ, thưa tôi biết.
Giáo sư cần gì, tôi là Trí Hải, thủ thư của thư viện.”
Tôi học
ở Pháp và đã đến những thư viện lớn nhất của nhiều nước, ở nhiều tỉnh và biết
rằng thủ thư của một thư viện thường là một học giả am tường rất nhiều điều
trong các sách của thư viện. Tôi hỏi cô Trí Hải ở đâu tôi có thể tìm được những
lời dạy quan trọng nhất trong Giáo pháp của Đức Phật mà không bị người đời sau
trích dẫn hay dịch thuật sai đi. Cô Trí Hải cho tôi biết rằng Thượng Tọa Viện
Trưởng đang dịch Kinh-tạng Pali, đã xong hai quyển đầu là Trường bộ kinh (Majjihima-Nikaya), và thư viện còn có những bản
dịch Anh-văn, Đức-văn, Pháp-văn và nhiều ngôn ngữ khác (Hoa, Nhật, Hàn, Nga…)
tôi là giáo sư thì có thể mượn sách về nhà để nghiên cứu, cô nói là “tụng
niệm”. Đột nhiên tôi nghĩ rằng trong một Giáo-lí thì không có một điểm nhỏ
nào không hệ trọng, nhưng có một điểm nhỏ trọng đại nhất là điều cuối cùng mà
Đức Phật nói ra với các môn đồ trước lúc Người rời cõi trần. Tôi hỏi cô Trí Hải
có biết Kinh hay Sách nào nói về những ngày tận cùng của Đức Phật không, thì cô
nói ngay “Kinh Đại Bát-Niết-Bàn viết
rất rõ“, và cô lấy ra cho tôi cuối Trường Bộ Kinh đầu với bản dịch
Anh-văn và bản dịch Pháp-văn, để tôi đem về và đối chiếu.
Tôi tìm
thấy rằng Đức Phật đã bảo các học trò “Hãy
tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương
tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một gì khác.” Và Ngài còn nói thêm “Trong năm trăm Tỷ-kheo này, Tỷ-kheo thấp
nhứt cũng đã chứng minh được quả Dự lưu, không còn đọa lạc, chắc chắn sẽ hướng
đến Chánh giác (Sambodhi)”.
Thực là
những lời khuyến khích và an ủi mạnh mẽ và tươi mát nhất của Đấng Đại Từ Đại Bi
cho tất cả các môn đồ đang buồn rầu và lo lắng vì bậc Đạo-sư tối cao sắp vĩnh
viễn lìa trần mà bản thân mỗi người thì còn đang ngụp lặn trong bể khổ không
bờ. Tôi lúc đó, nhìn khắp nước Việt Nam, chỉ thấy những người quê mùa vô tội
đang bị lột trần để quay trên lửa đỏ, nhìn ra ngoài thế giới cũng chỉ thấy
những người lo lắng và bất lực trước sự đe dọa của một cuộc chiến tận thế. Còn
chính mình thì mới chỉ được một giọt nước rớt xuống từ một cành dương liễu mảnh
mai. Những câu nói trên mà tôi thấy trong kinh Đại Bát Niết Bàn của Trường Bộ
Kinh, tôi mới chỉ hiểu một cách mập mờ và dịch ra tiếng ta đời nay, đại khái là
“Tâm Trí của mỗi người, một khi đã được mở ra với Chánh Pháp, thì đã là
một với Chánh Pháp, và là ngọn đèn chỉ con đường sáng, cứ vững lòng, tất cả mọi
người đề sẽ tới nơi.”
Thượng
Tọa Viện Trưởng ngồi nghe tôi nói không thốt một câu. Nhưng rồi năm sau đến
ngày Phật Đản, tôi lại có một lời yêu cầu nữa. Tôi đăng đàn và nói về Bát Chánh
Đạo, con đường tu tám lằn song song mà tôi ví với cỗ xe tám ngựa, nhưng cả tám
con ngựa ấy đề chỉ là ta: Nhìn thế nào, phóng thế nào, chạy thế nào, cân bằng
thế nào, thở thế nào, thu thân thế nào, chú tâm thế nào, quyết chí thế nào,
phải theo đúng lời dạy. Thượng Tọa tiễn chân tôi chỉ nói rằng ít ai dám giảng
Bát Chánh Đạo. Tôi nói rằng rôi chỉ mới học mà thôi.
Nhưng
năm sau, cái đầu đề còn khó hơn nữa. Thượng Tọa muốn tôi nói về triết lí Cổ Ấn
trong thời Đức Phật.
Buổi đầu
tôi nói chuyện ở Viện Đại Học Vạn Hạnh, có chừng ba bốn chục người đến nghe,
tất cả đều lễ phép, không ai bỏ ngang về. Buổi thứ nhì, được năm sáu mươi, với
vài vị sư áo vàng. Buổi thứ ba, nói về triết học Cố Ấn tôi rợn tóc gáy vì Đại
Giảng Đường chật ních vào khoảng bảy trăm người, với một đề tài rất khô khan
khắc khổ mà tôi làm thành một giáo trình cẩn trọng để cho chính tôi.
Thượng
Tọa Viện Trưởng kiên nhẫn ngồi nghe với các thính giả và phê bình rằng bải
giảng của tôi giống như một bài giảng của một vị thầy của Đại Học Nalanda, nơi
Thượng Tọa học. Điều này không có gì lạ cả, là vì tuy các sách triết Ấn của GS.
Dan Guita và của triết gia Rhadakrisnan chỉ nói rất sơ sài về tư tưởng Ấn thời
Đức Phật, nhưng kinh Brahmajala, dịch là Phạm Võng, là cái lưới trời mà chính
Đức Phật nói cho Tăng già, đã nói hết cả. Triết học trói buộc con người vào sự
khổ đau vĩnh cữu.
Bài diễn
giảng cuối cùng cho ngày Vesak của tôi tại Đại Học Vạn Hạnh là về “Tư Tưởng Xã Hội của Đức Phật“. Khi
nhận đề tài này, tôi ngơ ngẩn vì chưa hề nghe thấy một người nào hay đọc được
trong một cuốn sách nào của Anh, Pháp, Đức, Ý, Nga về Đức Phật xã hội. Nhưng
tôi được biết rằng sau khi đã bị tất các Đạo lớn từ chối, Tiến Sĩ Ambedkar đã
được Phật-giáo, mới trở lại Ấn-độ, cho phép làm một buổi lễ lớn nhận một triệu
người cùng đinh bị ruồng bỏ được quy y Phật, và chính ông cũng bỏ đạo cũ để thờ
Đức Phật. Rằng Phó-thủ-tướng Anh và Chủ tịch Đảng Xã hội là Atla, sau khi đi dự
Đại Hội của Đảng Xã Hội Miến (Myanmar, tức Burma), đã tuyên bố rằng có một đảng
xã hội Á Châu đặt chủ thuyết trên lòng từ bi của Đức Phật và bỏ thuyết tranh
đấu giai cấp, rằng chính sách kinh tế của Canada nói rằng chủ trương trung-đạo
theo Giáo-pháp (Dharma) của Đức Thích Ca Mâu Ni. Thế nhưng để diễn giảng về tư
tưởng Xã Hội của Đức Phật thì là một chuyện khác. Tôi lại về nhà và mỗi tối đọc
cho hết năm bộ của Kinh-tạng để nhặt ra những lời dạy của Phật Tổ về những chế
độ và tập quán trong xã hội Bà La Môn Giáo. Và tôi sáng mắt lên những ý tưởng
tân tiến của Đấng Chánh Đẳng Chánh Giác hơn hai ngàn sáu trăm năm trước.
Bài
giảng của tôi năm ấy đã được GS. Trần Văn Từ dịch ra Anh văn, rồi lại được Bà
Celia Barclay, một nữ sĩ Anh dịch lại rồi lưu truyền trong Đạo Quaker là một
Giáo phái Thiên Chúa Giáo rất uy tín ở Anh Quốc. Tôi cũng dùng bài này làm nền
móng cho một cuốn sách nhỏ của tôi, tựa đề là “Đức Phật Giữa Chúng Ta.” Tôi nghĩ rằng thế giới hiện đại có
thể được sáng hơn (enlightened) nếu được nghe lại những lời Phật dạy.
Trong
những năm này, ngày đêm tôi học Phật và Đức Như Lai vẫn Như Lai với tôi ngoài
những lúc tôi phải hành cái nghiệp trong y học và y khoa của tôi. Tôi không
được học với Thầy Minh Châu một giờ một khắc nào, nhưng Thầy đã là người tiếp
dẫn tôi đến chân Đức Phật, chỉ có năm bước đường và theo đúng lời dạy tối hậu
của Người, “Tự mình là ngọn đèn cho
chính mình, dùng Chánh Pháp làm chỗ nương tựa.”
Nhưng
những ước mong của tôi chỉ là vọng ảo. Hiệp định Paris là kế hoạch chót để làm
vỡ Thế giới Đỏ và gây một chiến cuộc mới giữa răng và môi, đồng thời lại
thoát thân ra khỏi một vũng lầy chưa bao
giờ bị.
Tôi còn
gặp lại vị Thầy cũ trong Đạo khi phải ở lại vì những xiềng xích của định mệnh.
Năm 1977, Đại Học Vạn Hạnh đã bị giải thể, một buổi sáng chủ nhật tôi đang ngồi
đọc truyện giải buồn thì Thầy Minh Châu được chở đến nhà tôi trên một chiếc
Honda. Thầy kể rằng Thầy đã về ở Thiền Viện Vạn Hạnh tại Phú Nhuận, mỗi ngày
thức giấc từ 5 giờ sáng, xuống vườn đi vòng quanh chừng một tiếng đồng hồ rồi
trở về tắm gội, ngồi thiền, xong thì ngồi dịch Kinh cho đến tối. Việc dịch Kinh
đã thuần thục lắm, chữ nghĩa đã thông thuộc, nhiều khi đọc một câu tiếng Phạn
(Pali-ngữ) thì tay đã viết ngay câu tiếng Việt.
Thầy đã
dịch xong thêm một quyển Tiểu-Bộ-Kinh
(Samyutta Nikaya) và muốn tôi đến giới thiệu tập kinh mới với các Phật Tử. Lúc
ấy, hằng ngày tôi phải đối đầu với những người của chế độ mới để bảo vệ sự học
của các sinh viên y khoa và giữ gìn sự an ninh của các bệnh nhân của Bệnh Viện
nên từ chối và nhắc Thầy rằng Viện Đại Học còn có những giáo sư lớn như Cụ
Nguyễn Đăng Thục và GS Vũ Văn Mẫu, xin Thầy thỉnh các vị. Tuần sau, Thầy Minh
Châu lại đến cùng với Thầy Hộ-Giác, cho tôi biết rằng Ủy ban Nhân-dân Thành-phố
sẽ đến dự buổi ra mắt Bộ Kinh, và hai giáo sư Nguyễn và Vũ đều không đến, nên
nhất định tôi phải có mặt.
Tôi đã
đến và giảng về Trung Đạo, cái Đạo Giữa của Đức Phật, từ chối những Đường cực
đoan. Sau bài giảng, tôi về thẳng nhà và hai tháng sau, bỏ lại hết mọi phiền trọc,
cắt đứt mọi kiết sử, vượt biển tới Cù Lao (Pulau) Besar để chờ ngày đầu thai ở
một cõi sống khác. Thầy Minh Châu vẫn gửi các Kinh sách của Thầy viết và
Kinh-Tạng dịch từ Pali, bản luận án Tiến Sĩ vể Trung Bộ-Kinh, cuốn tóm lược
A-Tì-Đạt Ma (Abhidhamma), cuốn Tiểu sử
Huyền Trang, cuốn Đốt Đuốc Lên Mà Đi…
sách nào tôi cũng đọc hết, nhập tâm và quên đi.
Tôi tiếp
tục đi trên con Đường đã dài hơn hai ngàn sáu trăm năm của Phật Pháp. Không còn
Thầy, tôi vào Trung-Luận với Long Thọ
(Nagarjuna), vào Duy Thức với Vô Trước
(Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu), vào Thiền
Hoa-Nhật và Mật Tông, không quên
các vị ngoại đạo là Lão tử, Trang Tử, Patanjali, Sankara như Thượng Tọa Minh
Châu đã muốn tôi làm, và luôn luôn thắp sáng ngọn đuốc tâm mà Đức Phật đã nhóm
lên cho mỗi môn đồ khi ngài nhập Đại Bát Niết Bàn.
TRẦN NGỌC NINH, 9/2012
(Nguồn:
VB Online)
Ghi
chú (*): Trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam, học vị “Thạc sĩ” là một học vị chuyên môn trên Tiến sĩ, dành cho những Tiến sĩ muốn làm giáo sư đại học (tiếng
Pháp: professeurs agrégés des universités).
Discussion about this post