TỪ VỤ BUDDHA BAR & GRILL, BUDDHA SPA VÀ FUNKY BUDDHA:
Xây Dựng Một Dòng Chính Văn Hóa
Đào Văn Bình
Mấy lúc gần đây trong nước đã nổ ra ba vụ xúc phạm nặng nề tới hình
ảnh của Đức Phật và Phật Giáo nói chung, khiến gây phẫn nộ nơi hàng Phật tử. Đó
là việc lợi dụng lòng Từ Bi, Hỉ Xả của Phật Giáo và trào lưu đang hướng về Phật
Giáo trên toàn thế giới, nhất là Thiền, một vài người làm ăn đã dùng tên Phật
và hình ảnh Phật (Buddha) cho cơ sở thương mại không đứng đắn của họ: Đó là Buddha
Bar & Grill ở Sài Gòn và tệ hại hơn nữa Buddha Spa và Funky
Buddha ở Hà Nội. (1)
Đóng góp ý kiến của chư tăng và
Phật tử khắp nơi – trong lẫn ngoài nước thật nhiệt tình. Cuối cùng hai trong ba
chủ quán nói trên đã ý thức được việc làm không thích hợp của mình ra thông báo
xin đổi tên. Đây là điều đáng mừng. Thấy sai mà biết sửa chữa là tốt. Tuy nhiên
còn chủ quán rượu Funky Buddha thì chưa thấy nói gì. Ngay từ lúc đầu, trên tinh
thần Từ Bi, Hỉ Xả, tôi đã không nghĩ rằng chủ nhân hai quán nói trên là những
người xấu, cố tình nhục mạ Phật Giáo, nhưng họ đã hành động một cách thiếu suy
nghĩ, lợi dụng tên tuổi của Phật và uy danh của Phật Giáo cho mục tiêu câu
khách mà không cần lý tới hậu quả và tác hại của nó. Cộng thêm với rất nhiều
chuyện chướng tai gai mắt, lai căng khác đang diễn ra hằng ngày, cho thấy xã
hội truyền thống đang bị thách thức bởi chủ nghĩa cá nhân phóng túng, buông
thả, ích kỷ, tự do quá trớn nhập cảng từ Âu-Mỹ. Đó là trào lưu của thế
hệ mới chỉ nghĩ đến việc làm sao cho nổi tiếng, sao cho kiếm được nhiều tiền,
không cần biết tới giá trị đạo đức, truyền thống dân tộc, không nghĩ tới người
khác…mà tôi nghĩ rằng khuynh hướng này đang bùng phát trong xã hội.
Do nhu cầu Đổi Mới Kinh Tế và gia
nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), Việt Nam hiện nay đang là cửa ngõ giao
lưu, tiếp nhận ảnh hưởng “ngoại lai”
giống như một đợt Sóng Thần, không những do ngoại nhân, Internet, phim ảnh, báo
chí đem tới mà còn do ngay chính hằng triệu con dân Việt Nam ở ngoại quốc đem
về: Đó là hằng chục ngàn cô gái lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn, hằng trăm ngàn
công nhân trong chương trình Hợp Tác Lao Động ở các quốc gia Đông Âu, Liên Xô
cũ, thậm chí ở cả các quốc gia Ả Rập, ấy là chưa kể số lượng du học sinh từ các
quốc gia Tây Âu, Nhật Bản, Úc Châu, Ấn Độ, Trung Quốc v.v…Nhưng đông đảo nhất
và có thể tạo nên một cuộc đổi thay văn hóa có tính cách lịch sử đó là những gì
mà 1,600,000 người Việt ở Hoa Kỳ đem về Việt Nam.
Những cô gái quê nghèo, thiếu học
lấy chồng Đại Hàn đã bỏ đạo của tổ tiên để theo Tin Lành và khi trở về thăm
nhà, đã không quỳ lạy bàn thờ ông bà và làm nhiệm vụ cải đạo ngay cha mẹ và anh
em ruột thịt của mình, gây đau đớn cho cả gia đình và ngỡ ngàng bà con lối xóm.
Ngay cả công nhân làm việc ở Nga, một số cũng cải đạo theo Tin Lành và khi về
nước đã tham dự cuộc tụ họp ở Mỹ Đình với Tuyên Ngôn Thuộc Linh “ đầy khiêu khích và ngạo mạn” mà một số
website Phật Giáo trong nước có đề cập tới. Còn đối với số công nhân làm việc
tại các quốc gia Ả Rập có ai cải đạo sang Hồi Giáo hay không thì tôi không rõ.
Tuy nhiên tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất, lớn nhất – không phải chỉ nằm trong phạm
vi tôn giáo (cải đạo) mà còn tác động tới muôn mặt của xã hội như: tập quán, nếp
sống gia đình, cách thức suy nghĩ, làm ăn, quan niệm sống, vui chơi giải trí, y
phục, ngôn ngữ. Nó đang tấn công vào nền văn hóa cổ truyền của một đất nước
trước đây đã “bế quan tỏa cảng” một
thời gian rất dài. Đó là những gì mà 1,600,000 người Việt ở Hoa Kỳ và khoảng
250,000 người Việt ở Úc đem về Việt Nam.
Có
thể nói Hoa Kỳ ngày nay đang là một “siêu đế
quốc” thống trị nhân loại về nhiều mặt. Đồng đô-la Mỹ là đơn vị tiền tệ
được lưu hành và dự trữ khắp thế giới. Vũ khí của họ thì khỏi nói. Hoa Kỳ là
nước có nhiều căn cứ quân sự và binh sĩ đóng ở ngoại quốc nhất. Hoa Kỳ là nước
phóng nhiều vệ tinh, trạm không gian vào vũ trụ mà chúng ta không biết trên đó
họ chứa, cất dấu những gì. Hoa Kỳ có nền kỹ nghệ điện ảnh áp đảo. Những phim mà
họ đóng ra được cả thế giới xem hoặc mua về xem. Còn kỹ nghệ ca nhạc thì họ
hoàn toàn vô địch. Ca sĩ nổi tiếng của Hoa Kỳ được cả thế giới ngưỡng mộ. Điệu
nhạc, bài hát nào gọi là “top hit” lập tức được cả thế giới nhái theo và hát đi
hát lại. Chỉ nội kỹ nghệ điện ảnh và ca nhạc không thôi Hoa Kỳ đã tác động tới
đầu óc cả tỷ thanh niên, thiếu nữ trên hành tinh này. Về thời trang, quần áo
thì khỏi chê. Các tài tử điện ảnh, ca sĩ nhạc Pop, nhạc Rap, cầu thủ đánh bóng
rổ… ăn mặc như thế nào, kiểu cọ đầu tóc, quần áo hở bụng, hở ngực, hở vú ra sao,
xâm trổ, vẽ mặt, đeo khoen ở môi ở mũi ở lưỡi như thế nào…lập tức cả trăm triệu
trai gái kể cả các bà đã luống tuổi cũng bắt chước theo. Về thể thao họ cũng
thống trị nhân loại. Còn về lãnh vực truyền thông thì Hoa Kỳ bá chủ thiên hạ.
Các hãng thông tấn AP, UPI, Yahoo News đều của Hoa Kỳ. Từ Nam Cực cho tới Bắc
Cực. Từ đỉnh Hy Mã Lạp Sơn cho tới các quốc gia nhỏ bé ở Phi Châu, hải đảo. Từ
Trung Đông cho tới Á Châu… đâu đâu cũng có thông tín viên của họ. Những tin tức
nóng bỏng hàng đầu về những vấn đề trọng đại của thế giới đều do các hãng này
loan đi. Dĩ nhiên khi nắm đầu được truyền thông như thế họ
có thể uốn nắn tin tức và từ đó xoay chuyển lề thói suy nghĩ, tác động đến cách
quyết định, hành xử, cách nhận định đúng-sai, bạn-thù của chúng ta. Còn Đài
Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) thì có cả trăm thổ ngữ được tiếp vận đi toàn thế giới,
đủ sức để tuyên truyền cho Hoa Kỳ và nhào nặn đầu óc của nhân loại.
Thế nhưng bên cạnh những cái nhất
và vĩ đại đó Hoa Kỳ là nơi có nhiều thứ nhố nhăng, dâm ô, đồi trụy, khùng điên
và xấu xa nhất. Mới đây, một bà mẹ 48 tuổi ở Tiểu Bang South Carolina đã giết hai con trai, người chồng cũ và bà mẹ
kế để lấy tiền bảo hiểm nhân thọ. Nói thế có người sẽ vặn hỏi: Nếu vậy tại sao
Hoa Kỳ vẫn là siêu cường thống ngự nhân loại? Xin thưa sở dĩ Hoa Kỳ chưa xụp đổ
là vì – dù có những thứ nhố nhăng, đồi trụy và xấu xa đó nhưng Dòng
Chính (Mainstream) vẫn đủ mạnh để cuốn đi những mặt tiêu cực. Một ngày
nào đó nếu Dòng Chính suy yếu thì chính là lúc “người khổng lồ” ngã quỵ. Nó giống như một con sông nhiều rác rưởi,
nếu dòng nước mạnh thì vẫn đủ sức cuốn trôi đi. Nhưng một lúc nào đó rác rưởi
quá nhiều, dòng sông bị nghẹt cứng và trở thành nước tù hãm, hôi thối và dòng
sông chết. Có thể nói không một thế lực nào có thể đánh gục nước Mỹ, mà nước Mỹ
chỉ tự hủy diệt mình mà thôi. Tiến trình hủy diệt giống như sự xụp đổ của Đế
Quốc La Mã năm xưa. Khi cách biệt giàu nghèo gia tăng, công nhân thất nghiệp,
sinh viên ra trường không kiếm được việc làm, sưu cao thuế nặng, chi phí quốc
phòng tốn kém, trợ cấp xã hội quá cao, đem quân đi đánh khắp nơi, công khố
trống rỗng, nợ nần không trả được, các đại công ty làm ăn bất chính như: thổi
phồng lợi tức để bán cổ phiếu sau đó cổ phiếu tụt dốc khiến người mua trắng
tay, nhận tiền bail out cứu nguy của
chính phủ chia nhau xài qua hình thức phần thưởng công ty gọi là “bonus” rồi khai phá sản, khuynh hướng
đồi trụy, tội phạm gia tăng, chủ nghĩa cá nhân phóng túng khiến đất nước suy
yếu, chính quyền bất lực, một số tiểu bang vì muốn sinh tồn có thể tách ra. Đó
là lúc Hoa Kỳ xụp đổ.
Như đã nói ở trên, từ một thuộc địa
của Anh, Hoa Kỳ trở thành một siêu cường, dĩ nhiên là đất nước họ có rất nhiều
cái hay cái đẹp. Nhưng những cái tốt đẹp này nó tiềm ẩn mà phải là người có
trình độ giáo dục, phải theo dõi và hòa nhập và dòng sinh hoạt chính của Hoa
Kỳ, phải đọc lịch sử Hoa Kỳ, văn hóa Hoa Kỳ mới thấy. Có thể nói, hầu hết những
gì mà người dân ở các quốc gia khác bắt chước đều là cái xấu của Hoa Kỳ. Giả dụ
một cô gái không có học ở Việt Nam với đôi chút nhan sắc, sang đây, chỉ cần tới
tiệm bán giày dép, quần áo như Macy’s, rồi vào tiệm uốn tóc nhuộm xanh nhuộm đỏ,
thì cô ta đã “lột xác”. Và chỉ trong
một tuần lễ, cô ta có thể học được cách vẽ môi, vẽ mắt, vẽ mặt, những gì đang
diễn ra trên đường phố và những điệu nhún nhảy của Mỹ. Nhưng để có bằng AA
Degree (Cán Sự) thì ít ra phải học Anh Văn 6 tháng rồi vào Đại Học Cộng Đồng 2
năm. Còn cử nhân (BA, BS) thì tối thiểu 5 năm. Nhưng để hiếu biết về truyền
thống văn hóa, nhân cách Hoa Kỳ thì có khi phải mất 20, 30, 40 năm, mở mắt cho
to và chịu khó học hỏi mới thấy. Đó là tinh thần làm việc siêng năng, đầu óc
sáng tạo, tinh thần trọng pháp, sự đóng góp thiện nguyện, tham gia cộng đồng,
thái độ khiêm tốn lịch sự và biết chia xẻ của người Hoa Kỳ.
Dĩ nhiên khi người Việt đem văn hóa
Mỹ về Việt Nam
thì sản phẩm tùy theo trình độ mỗi người. Đối với những người lớn tuổi trước
đây ở Việt Nam đã có văn hóa cao, dù ở Mỹ, Úc, Pháp, Đức bao lâu, khi về Việt
Nam họ không bao giờ đem những cái nhố nhăng, lai căng ra khoe. Họ không phải
là thành phần “áo gấm về làng”. Điều
mà họ mong muốn là đóng góp vào nền văn hóa, giáo dục, kinh tế, khoa học, y
khoa của đất nước. Còn đời sống thì họ vẫn mộc mạc, khiêm tốn như xưa bởi vì
trước đây họ đã “sống trên nhung lụa”.
Thế nhưng những gì mà họ đóng góp cho đất nước lại chỉ gói gọn trong khuôn viên
đại học, tầng lớp trí thức, chứ không tràn lan ra ngoài xã hội. Những gì mà họ
mong muốn chuyển hóa đất nước ít ra phải mất năm, mười năm chứ không chỉ một
sớm một chiều. Còn đối với thế hệ trẻ trưởng thành ở Mỹ đã tốt nghiệp đại học,
đã đi làm, thì không cần phải nói, người trong nước cũng đã thấy con người và
cung cách làm việc của họ như thế nào. Cái nguy hại nhất là những gì mà thành
phần ít học và “áo gấm về làng” đem
về.
Có thể nói phần lớn những gì mà
thành phần này du nhập vào Việt Nam đều là những thứ a dua, bắt chước, nhố
nhăng, bèo bọt của xã hội Hoa Kỳ chứ không phải là những gì làm nền tảng để xây
dựng một xã hội tốt lành. Đây cũng là điều dễ hiểu vì họ ngay tình không biết
và thâm tâm họ nghĩ đây là “cái hay, cái
đẹp, cái văn minh, cái nhất thế giới của Mỹ ”. Và tất cả những thứ này đã
tác động ngay và mạnh mẽ đến người trong nước. Nguyên do dễ hiểu bởi vì người
dân đa số nghèo quá và thiếu hiểu biết. Khi thấy người Việt từ ngoại quốc về
thì nhìn với ánh mắt thán phục và thèm
khát. Xin nhớ cho một nền văn hóa tồi tệ nhưng kinh tế mạnh vẫn có thể áp đảo
một nền văn hóa tốt nhưng nghèo. Tôi có người em gái mới định cư vào Mỹ cách
đây vài tháng cho biết ở Việt Nam
bây giờ cũng có nguời tổ chức Lễ Halloween (Lễ Con Ma) và Valentine (Ngày Tình
Yêu). Đúng là chuyện rởm đời! Ở đâu thì có lễ hội đó. Lễ hội phát xuất từ cuộc
sống của dân gian mà đi lên. Chẳng hạn ngày xưa chưa có đèn điện, đất nước lại
sống về nông nghiệp cho nên con người mới trân quý Chị Hằng cho ánh sáng về đêm
cho nên mới có Tết Trung Thu, mới có Hát Hội Trăng Rằm, mới có Gạo Trắng Trăng
Thanh. Vì đất nước ta nhỏ luôn luôn bị giặc Phương Bắc xâm chiếm, đô hộ cho nên
toàn dân mới quý trọng các vị anh hùng đánh đuổi ngoại xâm, từ đó mới có đền
thờ Bà Trưng, Bà Triệu, Thánh Gióng, Đức Trần Hưng Đạo, Quang Trung Nguyễn Huệ
v.v…và các anh hùng liệt sĩ. Ở Mỹ làm gì có chuyện đó. Rồi thì đất nước triền
miên khói lửa, giặc giã, đói kém, tù tội, binh sĩ hy sinh ngoài mặt trận, dân
lành oan thác.. cho nên vì lòng từ bi, lân mẫn mà có Tháng Bảy Ngày Rằm Xá Tội Vong Nhân và Cúng Cô Hồn. Vì dân Việt coi trọng nguồn gốc “Cây có cội, nước có nguồn” cho nên mới có tục lệ thờ cúng tổ tiên, Vu
Lan Báo Hiếu, chảy Hội Đền Hùng. Còn ngày Tết gia đình tụ hội để tưởng nhớ về
ông bà nội ngoại, sau đó vui chơi, thăm bè bạn, đi chùa lễ Phật cầu phước cho
con cháu, chứ không phải chỉ tụ tập ở Times Square, New York rồi la ó để “Count-down chào đón New Year”. Xin nhớ cho tôn giáo thế nào thì văn hóa thế
đó. Văn hóa thế nào thì lễ hội như thế. Cái đẹp ở chỗ này chưa hẳn đã đẹp ở chỗ
khác. Cái được chấp nhận ở chỗ này chưa chắc được ưa chuộng ở chỗ kia. Xin đừng
lai căng, bắt chước. Xin đừng đem về những rác rưởi xã hội của người ta. Hiện
nay tại Mỹ người ta đang khổ vì Lễ Halloween và ngày lễ này cũng từ từ phai
nhạt. Nguyên do là vì trong Lễ Halloween trẻ em, người lớn thường hóa trang
thành những tên cướp biển, con ma, quỷ Dracula đeo mặt nạ, miệng đầy máu, cầm
dao giả, súng giả đi xin kẹo ban đêm hay đi lang thang ngoài đường hoặc vào các
quán rượu (Bar) đã khiến gây ngộ nhận là ăn cướp giả trang, năm nào cũng có
người bị bắn chết. Vả lại trong tình hình nước Mỹ đang điên đầu với kế hoạch
chống khủng bố, ăn mặc giả trang như thế khác nào giúp cho bọn xấu lợi dụng để
giết người, cho nên người Mỹ bắt đầu “sợ” Lễ Halloween trong khi một số “Việt kiều rởm” lại rước về đất nước của
mình.
Tuy nhiên
những gì đề cập trên đây chỉ là những
thứ “lẻ tẻ” không đáng sợ. Điều đáng
lo nhất là cái đầu óc bị nhiễm “vi khuẩn
xấu ”. Đó là tinh thần vọng ngoại, cá nhân chủ nghĩa phóng túng, quên cội
quên nguồn, khinh chê văn hóa dân tộc, chạy theo “kinh tế thị trường”, tìm đủ mọi cách làm giàu mau chóng mà không
cần biết tới Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Khi có chút của cải rồi thì “ trưởng giả học làm sang” sống sa hoa
phung phí, chỉ biết có mình, không hề biết chia xẻ hoặc dửng dưng trước khổ đau
của người khác. Tôi nghĩ rằng cái bảng hiệu Buddha Bar & Grill ở Sài Gòn, Buddha
Spa và Funky Buddha ở Hà Nội kia, cùng với rất nhiều những thứ nhố nhăng khác, chính
là sản phẩm ngoại lai du nhập vào từ những bèo bọt của văn hóa xứ người và đầu óc “kinh tế thị
trường”chạy theo lợi nhuận.
Khi cánh
cửa bị khép kín lâu ngày bỗng dưng mở toang, khiến cái xấu lẫn cái tốt ùa vào.
Do thiếu chuẩn bị, thiếu gạn lọc, thiếu một dòng chính văn hóa đủ mạnh
để “cuốn đi rác rưởi” hai bên bờ,
chúng ta phải trả một giá rất đắt ngày hôm nay. Dù nói trời nói đất gì đi nữa,
một quốc gia không có một nền văn hóa dòng chính mà để xã hội phô bày ra
một kiểu cách “bát nháo” trong cuộc sống
thì không được thế giới kính nể. Nếu những cái xấu cứ tiếp tục được nuôi dưỡng
và lan tràn thì đến một lúc nào đó sẽ tạo ra một xã hội vô tổ chức, hư đốn, rồi
dẫn tới bạo động, dù luật pháp có nghiêm khắc thế nào cũng bất lực. Bởi vì khi
đó, chính luật pháp cũng bị hư đốn theo. Năm xưa Lê Ngọa Triều đã dùng vạc dầu,
hổ báo ăn thịt người, róc mía lên đầu nhà sư, mà đất nước vẫn cứ loạn triền
miên và phải đợi tới Lý Công Uẩn thay thế, dùng đức để trị dân, đất nước
mới thái bình thịnh trị.
Nói như thế
không có nghĩa là phiền trách. Hai chữ “phiền trách” không có trong kinh
điển nhà Phật. Đạo Phật không bao giờ chủ trương than thân trách phận hay chấp
nhận định mệnh cay đắng, mà Đạo Phật chủ trương trực diện với khổ đau, sắn tay
áo lên, lao vào để giải quyết. Đức Phật không ngồi trên Cung Trời rồi sai phái
một đứa con hay một sứ giả xuống Cõi Ta Bà này tuyên phán rằng nhân loại hãy cứ
cầu nguyện và tôn thờ Ngài rồi sẽ có tất cả. Mà Đức Phật đã đích thân thị hiện
(sinh vào) vào cõi trần lao này, tự tu, tự chứng rồi phát nguyện độ tận chúng
sinh. Trên tinh thần đó thì câu hỏi đặt ra là ai sẽ làm công việc lao
vào chốn trần lao, bụi đời này để cứu độ chúng sinh, nói khác đi trong mặt trận
bảo tồn và xây dựng văn hóa?
Có ba trụ
cột vừa là nhân tố xây dựng và là điểm tựa cho nền văn hóa, đó là: Chính
quyền, tôn giáo và trí thức.
1) Vì nắm quyền lực trong tay, ấn định chính sách giáo dục,
chính quyền có đầy đủ phương tiện để định hướng, xây dựng và hỗ trợ cho việc
hình thành, phát huy một dòng chính văn hóa cho dân tộc. Trường học chính là
môi trường giáo dục văn hóa bậc nhất của bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên vai trò
quan trọng nhất của nhà cầm quyền là phải tự biến mình thành gương mẫu cho toàn
dân. Kỳ vọng của quần chúng đối với chính quyền không gì hơn Cần, Kiệm, Liêm,
Chính và Thượng Tôn Luật Pháp. Chỉ cần giữ gìn được những tiêu chuẩn đạo
đức công quyền đó thôi thì chính quyền đã trở thành “phụ mẫu chi dân”, nói gì dân cũng nghe
và làm theo.
2) Về vai trò của tôn giáo thì Phật Giáo chính là tiêu biểu
cho dòng chính văn hóa dân tộc, nhưng trước
thực tại này Phật Giáo phải làm gì? Trước hết quý sư, ni phải là mẫu mực về
phẩm hạnh và tu chứng bản thân. Mà muốn trở thành gương mẫu, theo Hòa Thương
Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ thì không ngoài Giới-Định-Huệ. Giữ gìn được Giới-Định-Huệ
thì trở thành thánh tăng, nói gì đại chúng cũng nghe và khi đó chư tăng, ni trở
thành trụ cột đạo đức của đất nước. Xa lìa Giới-Định-Huệ thì sa đọa, uy tín
không có và gốc Phật Giáo lung lay, nói chi việc giáo hóa chúng sinh, xây dựng
văn hóa. Là người con Phật, dùng con mắt Tuệ quán chiếu vào cuộc sống
và thế giới ngày hôm nay, chúng ta phải thương xót chúng sinh mới phải. Chưa
bao giờ loài người phải đối phó với những thử thách nghiêm trọng như vậy. Dân
số thì gia tăng, tài nguyên thì lần hồi khô kiệt, lương thực thiếu kém, động
đất, sóng thần, lụt lội, bão tố triền miên khiến tốn kém và tổn thất sinh mạng,
kinh tế đình trệ trong khi đó thì nhu cầu của con người mỗi lúc mỗi gia tăng-
nhu cầu thiết thực thì không nói gì – mà trong đó còn có cả nhu cầu phù phiếm
nữa. Buổi sáng thức dậy là cả những căng thẳng, toan tính, lo âu về cuộc sống
khiến không còn chủ định được nữa. Trong khí đó những “cơn bão cám dỗ ngoại lai” ào ào thổi tới như muốn xô ngã, như muốn
lôi kéo đất nước và chúng sinh vào con đường vô định. Nhìn ra ngoài xã hội,
những người giàu thì giàu quá khiến tạo nên sự thèm khát, từ đó tìm đủ mọi cách
để ngoi lên. Thử hỏi trong bối cảnh đó văn hóa, đạo đức còn duy trì được không?
Có phân tích được như thế thì mới thấy chúng ta không thể oán trách hoặc kết
tội chúng sinh. Ngày hôm nay, chư tăng ni không thể chỉ ngồi Thiền, tụng kinh
niệm Phật, lên non Nhập Thất để tìm sự giải thoát cho bản thân mình mà phải sắn
tay áo lao vào xã hội để giúp đời. “Phật
Giáo đồng hành cùng dân tộc” ngoài việc giữ nước, nổi trôi theo vận nước,
còn có nghĩa là cùng chia xẻ và giúp giải quyết những khó khăn của đất nước, của
cộng đồng dân tộc. Ngoài những việc tốt lành mà chư tăng ni đã làm trong nhiều
năm qua, các ngài phải làm sao, nói sao cho người giàu có dám bỏ tiền bạc ra
làm phước thiện, xây bệnh viện, trường học và cấp học bổng cho học sinh nghèo.
Phải làm sao cho đất nước có nhiều ông Cấp Cô Độc như thời Đức Phật tại thế.
Tinh thần đóng góp thiện nguyện “Dù xây
chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người” là dòng chính của
văn hóa dân tộc. Phải nói làm sao cho các bà, các cô ăn không hết của, bớt tiền
son phấn, quần nọ áo kia, giày dép đắt tiền, chơi bời hoang phí để giúp đỡ
những cô nhi, quả phụ, trẻ em khuyết tật: Đó là dòng chính của văn hóa dân tộc.
Phải nói làm sao để những người đang hãnh tiến vì của cải, coi người như cỏ rác
hãy biết khiêm tốn và biết câu “lá lành
đùm lá rách”: Đó là dòng chính của văn hóa dân tộc. Hãy nói làm sao để
những kẻ ở trong thương trường đang “ăn
gian làm dối” biết xấu hổ: Biết xấu hổ là dòng chính của văn hóa dân tộc.
Hãy nói làm sao để những người đang chạy theo thói đời trưởng giả, nếp sống
ngoại lai biết nhìn lại xem mình là ai – là Việt là Tây là Tàu hay là Mỹ? Biết
nhìn lại mình, nhận biết được nguồn gốc của mình là dòng chính của văn hóa dân
tộc. Phải nói làm sao để những người nghèo đừng tự ti mặc cảm mà phải tự tin,
hy vọng rồi theo con đường đạo đức để vươn lên: Tự tin và tuân thủ đạo đức xã
hội là dòng chính của văn hóa dân tộc. Phải nói làm sao để những người đang
hành nghề bán buôn tại những khu du lịch đừng có lối “chặt chém” cướp tiền du khách. Giá cả minh bạch, thuận mua vừa bán
là dòng chính văn hóa của bất cứ quốc gia nào. Hãy nói làm sao để những kẻ đang
dùng tên tuổi và hình ảnh của những bậc tôn kính cho dịch vụ làm ăn không đứng
đắn biết đó là sai trái để sửa chữa. Có lỗi mà biết sửa chữa là dòng chính của
văn hóa dân tộc. Hãy nói làm sao để quý thầy cô, các bậc cha mẹ dạy dỗ con cái
đừng nói năng thô bỉ, tục tĩu và biết kính trọng mọi người. Biết kính trên
nhường dưới là dòng chính của văn hóa dân tộc. Hãy nói làm sao để người lớn,
trẻ em đừng phóng uế bừa bãi. Biết giữ gìn vệ sinh đường phố, bảo vệ thú vật
cây cỏ, bầu trời, biển hồ sông suối. Bảo vệ thiên nhiên, tôn trọng của công đó
là dòng chính của văn hóa dân tộc.
3) Còn đối với hàng ngũ trí thức, trách nhiệm cũng vô cùng
nặng nề. Cái quý trọng nhất của trí thức là đóng góp sự hiểu biết của mình cho
sự phát triển của đất nước, làm đẹp, làm sáng, làm cao thượng thêm cuộc đời như
Cụ Nguyễn Công Trứ nói “Phù thế giáo một
vài câu thanh nghị”. Dĩ nhiên trí thức cần có cuộc sống đầy đủ nhưng lý
tưởng của trí thức không phải là quyền lực, của cải mà Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm
chính là một gương sáng tuyệt vời khiến các Vua Mạc, Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh
phải vấn hỏi về những vấn đề trọng đại của đất nước. Vì có phương pháp khoa
học, có đầu óc quan sát tinh tế và nhìn xa trông rộng (viễn kiến) cho nên trí
thức cần mạnh dạn đóng góp vào mọi vấn đề của đất nước như: đạo đức, văn hóa,
xã hội, kinh tế, quốc phòng. Phương thức làm việc của trí thức là nghiên cứu
rồi đưa ra giải pháp giống như một ông bác sĩ chẩn bệnh rồi cho thuốc. Người
trí thức chân chính không kết tội ai. Thật khôi hài nếu ông bác sĩ la mắng bệnh
nhân “tại sao thế này, tại sao thế kia”
khi bệnh nhân tới xin trị liệu. Ngoài ra trí thức không phải là chính trị gia.
Chính trị gia hoạt động nhằm mục đích tranh đoạt chính quyền để lãnh đạo đất
nước. Trí thức chân chính không lệ thuộc vào đảng phái nào. Tại Hoa Kỳ, nếu trí
thức thuộc Đảng Cộng Hòa sẽ chỉ trích bất cứ chính sách nào của Đảng Dân Chủ,
dù chính sách đó tốt đẹp và ngược lại. Trí thức chân chính chỉ vì lợi ích chung
mà nói. Trí thức là khối óc (Think Tank) của dân tộc. Đất nước không có trí
thức giống như cá sống trong ao tù. Đất nước có trí thức giống như rồng gặp mưa
bay lên trời. Ở Hoa Kỳ trước những vấn đề đối nội, đối ngoại gay go, người ta
thường phỏng vấn những chuyên viên thượng thặng, tức những nhà thức giả về vấn
đề này. Ở đâu cũng vậy, khi trí thức
lên tiếng thì quần chúng lắng nghe. Việt Nam hiện nay, do nhu cầu Đổi Mới, gia
nhập Cộng Đồng Thế Giới và vì tốc độ phát triển quá nhanh, yếu tố ngoại lai đủ
loại lùa vào như một cơn bão, truyền thống văn hóa Việt đang bị thách thức
nghiêm trọng. Xây dựng và củng cố một dòng chính văn hóa để đất nước
tiến lên mà không mất gốc không hỗn loạn, đẹp mà dễ thương đó cũng là trách
nhiệm của trí thức đương thời.
Kết luận:
Văn hóa chính là sự gạn lọc của của trí tuệ, kinh qua lịch sử, cùng
với tôn giáo như bóng với hình. Hồi Giáo có văn hóa Hồi Giáo. Thiên
Chúa Giáo có văn hóa Thiên Chúa Giáo. Phật-Lão-Khổng có văn hóa Tam Giáo đi kèm
không thể nhầm lẫn và cho thấy nét đặc thù của mỗi dân tộc. (2) Khi đất nước
loạn ly, văn hóa suy đồi. Khi đất nước bị nô lệ, văn hóa bản địa tiêu vong, nếu
sống sót thì cũng “lai căng, hổ lốn”.
Khi đất nước tự chủ, thái bình, thịnh trị và có “minh quân” thì mọi thứ đều hưng thịnh, văn hóa dân tộc sán lạn và
là dòng chính cho mọi hình thái cư xử, sinh sống của xã hội. Có thể nói
văn hóa chính là “bộ óc” quyết định mọi sinh hoạt của con người. Ví dụ: Một
người “có văn hóa” thì ăn nói lễ độ, biết giữ gìn vệ sinh chung, biết
bảo bọc truyền thống dân tộc, kính trọng các nơi tôn nghiêm, biết giá trị lịch
sử, biết thế nào là giới hạn của mọi vấn đề, cao hơn nữa là biết thương yêu,
chia xẻ và khiêm tốn. Còn người “thiếu văn hóa” thì ăn nói thô bỉ,
cộc lốc, phóng uế bừa bãi, không biết giữ vệ sinh chung, nhố nhăng, lai căng,
không biết tôn kính các nơi chốn trang nghiêm, không biết giá trị lịch sử, không
biết quý trọng truyền thống dân tộc, không biết thế nào là giới hạn, không biết
yêu thương, không biết chia xẻ và thường kiêu ngạo.
Trong bài viết “Sự
Cường Thịnh Của Một Quốc Gia Theo Đức Phật” phổ biến vào Tháng 6, 2010
tôi đã viết “Khi mà những kẻ côn đồ, dao
búa, những kẻ sống thác lọan, trụy lạc, những kẻ trọc phú, những kẻ vô phẩm
hạnh mà được TV, báo chí tới phỏng vấn, bốc lên như một thứ “role model” khuôn mẫu cho mọi người vươn tới – thì đó là
một xã hội hư đốn đồi trụy, một xã hội không còn coi học vấn và phẩm hạnh là
những gì tôn quý.” Vậy muốn xây dựng
một đất nước hùng cường và toàn dân trên dưới một lòng thì phải xây dựng một
dòng chính văn hóa. Cao nhất của văn hóa là Tinh Thần Dân Tộc, Sự Hiểu
Biết, Lễ Độ và Lòng Nhân Đạo. Một đất nước sẽ vô cùng hùng mạnh nếu
mọi người có ý thức, lễ độ, có tinh thần trách nhiệm, biết chia xẻ và đùm bọc
lấy nhau. Một đất nước – dù là siêu cường – cũng sẽ bị hủy diệt nếu mọi người
sống trong tinh thần ích kỷ. Thế nhưng muốn xây dựng được một dòng chính văn
hóa như thế chúng ta phải có một cái gì, tức phải có Vốn. Người Do Thái thông
minh và có tinh thần đoàn kết tuyệt vời. Tân Gia Ba phát triển nhờ tinh thần kỷ
luật. Nhật Bản vừa có kỷ luật vừa có tinh thần tự sỉ (biết xấu hổ và tự sát khi
phạm lỗi lầm nghiêm trọng). Hoa Kỳ có tinh thần, sáng tạo, trách nhiệm và trọng
pháp. Lào, Miến Điện, Kampuchia, Thái Lan, Tích Lan có lòng kính ngưỡng Tam Bảo
không nơi nào bằng. Còn Việt Nam
chúng ta có gì ?
Đào Văn Bình
(California Tháng 11, 2011)
Discussion about this post