TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ
Thích Nguyên Hiệp dịch
Là
con người, chúng ta mong tạo nên một cõi đời được xây dựng trên sự tử tế và tình thương. Tuy vậy, mọi điều dường như đang đi chệch hướng, khi những gì tôi muốn, những gì bản thân tôi thích, lại trở nên quan trọng hơn lợi ích của toàn thể cộng đồng.
Trí tuệ và từ bi luôn có mặt ở
nơi xã hội loài người. Nhưng bởi vì khuynh hướng chung của chúng ta thường bị dính mắc với sự vị kỷ, điều ta thích và không thích, chúng ta tạo nên những tường thành và phân cách chúng ta với người khác.
Chúng
ta không cảm thông được với người khác vì hai lý do căn bản: hy vọng và
sợ hãi. Tất cả chúng ta muốn hạnh phúc và không ai muốn khổ đau, vì vậy
mọi hành động mà chúng ta thực hiện bị chi phối bởi động cơ là làm sao tôi có thể có được hạnh phúc, làm sao tôi có thể tránh được khổ đau. Trong một thế giới bị phân chia thành quá nhiều con đường, chúng ta tạo nên một thế giới của riêng mình. Và rồi một thái độ rất ích kỷ phát triển.
Các hệ thống triết học và tôn giáo thường cố gắng hướng đến việc phá bỏ tường thành tự cô lập này, để chúng ta có thể làm việc cùng nhau với sự quan tâm và lòng từ bi thật sự. Từ quan điểm Phật giáo,
chúng ta nên xem xét chính mình một cách cẩn thận – không phải là để tự
khiển trách mình vì đã tạo ra sự phân chia này, mà là để giải quyết căn
nguyên của vấn đề.
Vấn đề không phải vì cuộc đời, hay vì người khác, mà vì chính mình. Trí tuệ chính ở nơi chúng ta. Nó không phải là điều gì đó có thể mua được, nghe hay nhận lấy từ bên ngoài. Những tình trạng rắc rối của chúng ta với môi trường ngoại tại và sự rối loạn cảm xúc của bản thân chúng ta tạo nên một thứ màng che ngăn chận khả năng quán sát tường tận của chúng ta. Chúng ta không cho mình có đủ thời giờ để sử dụng trí tuệ vốn có của mình để quán sát chính mình trước khi chúng ta hành động.
Tuy nhiên, thông qua thiền định, chúng ta có thể phát triển trí tuệ bên trong chính mình. Thiền định là một tiến trình nhìn vào bên trong, tiến trình vượt ra khỏi khuynh hướng nhị nguyên quan tâm nhiều vào những vấn đề ngoại tại hơn là đối với những vấn đề nội tại mà chúng ta không muốn thực hiện.
Xã hội được đặt cơ sở trên hoà bình, hoà hợp, trí tuệ và từ bi sẽ không bao giờ xảy ra nếu mỗi người không bắt đầu từ chính mình. Bởi vì vô minh, chúng ta không sử dụng trí tuệ vốn có của mình, chúng ta viện nhiều lý do để không bắt đầu với chính mình. Lý do chính yếu nhất là rằng chúng ta đòi hỏi người khác thay đổi trước rồi mới đến chúng ta. Do đó, nếu buổi sáng
thức dậy và thấy mọi điều không xảy ra theo như chúng ta muốn, chúng ta
đổ lỗi mọi thứ cho thế giới ngoại tại.
Nếu chúng ta suy nghĩ về điều này, chúng ta nhận thấy rằng nhận thức của chúng ta về thế giới ngoại tại có liên hệ mật thiết đến thái độ nội tại của chúng ta. Thái độ
ưa đỗ lỗi của chúng ta mà nó được đặt cơ sở trên những tình cảnh bên ngoài thì phản ánh những gì chúng ta cảm nhận ở bên trong. Khi chúng ta thấy một người nào đó làm điều mà chúng ta thích, vậy anh ta là một người tốt. Nhưng nếu cũng người ấy nhưng làm điều mà chúng ta không thích, vậy là anh ta lập tức trở thành người xấu. Vì vậy chuyển đổi môi trường bên ngoài phải bắt đầu với chuyển đổi bản ngã bên trong, bởi vì chỉ khi cái ngã được chuyển hoá và giá trị nhận thức sáng tỏ có mặt bên trong chúng ta, chúng ta mới có khả năng hiểu đúng người khác.
Tâm
con người về cơ bản là rất tốt, rộng lượng và từ mẫn. Nhưng có thể nó đã không thường làm việc cùng với trí tuệ. Kết quả là rằng chúng ta có nhiều người sẵn lòng bước ra thay đổi cõi đời cho tốt hơn, nhưng họ vẫn xem triết học, tôn giáo và chính trị theo những gì họ thích, theo những gì họ muốn.
Ngay ở trong những vấn đề tâm linh – nơi chúng ta nỗ lực tìm tới sự vô ngã và thoát khỏi những thủ chấp, vô minh và vị ngã – thì ngay ở đó chúng ta khăng khăng rằng những gì chúng ta nghĩ là trí tuệ thì đó mới đích thực là trí tuệ. Chúng ta quả quyết rằng những gì chúng ta nghĩ là từ bi thì đó mới là lòng từ bi chân thực. Thậm chí ở mức độ rất cao của thiền, chúng ta có thể vẫn có những quan điểm như vậy, nhưng chúng ta viện lý do rằng đó là vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Nhận ra trí tuệ bản lai ở trong chính mỗi người phải bắt đầu bằng đào luyện bản thân. Để phá bỏ màng vô minh đòi hỏi phải phá bỏ vô minh trong mọi hình thức của nó.
Vô minh không phải đến từ người khác. Vô minh đến từ việc chấp chặt hay phóng chiếu bản ngã. Trong triết
học Phật giáo, chúng ta nói nhiều về ảo giác, mà nó liên hệ đến vô minh
của con người. Và mỗi khi ảo giác đó được tạo ra, chúng ta thấy nó thật
sự vô cùng kiên cố, khó dời bỏ.
Bằng thiền định, chúng ta phá bỏ
đi ảo giác về hiện tượng bên ngoài bằng cách phân tích tính không thực của nó. Bước đầu tiên là để hiểu cách chúng ta tạo ra ảo giác của chính mình như thế nào – để thấy tâm thức này tạo nên và chi phối cuộc đời như
thế nào. Khi chúng ta từ bỏ sự chấp thủ, chúng ta sẽ giải thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi những mong đợi, thoát khỏi những hy vọng và sợ hãi của chính mình.
Tuy nhiên, khi mức độ nhận thức đó vẫn chưa đạt được, thì mỗi khoảnh khắc của đời mình, mọi thứ mà chúng ta sử dụng hay tiêu thụ, đều tuỳ thuộc vào người khác. Chúng ta ngồi trền chiếc ghế do người khác làm ra, mặc áo quần do người khác may, ăn thức ăn do người khác nấu. Thậm chí cho dù chúng ta tin rằng chúng ta là con người của chính mình, và chúng ta thành tựu được điều này hay điều kia bằng những nỗ lực của chính mình, thì sự thật rằng bản thân chúng ta không thể tách
rời khỏi người khác.
Nhận thức về sự tuỳ thuộc này trực tiếp đưa
đến ý thức về tinh thần trách nhiệm, và từ bỏ đi sự chấp chặt bản ngã. Đến khi nào chúng ta đạt được sự vô ngã thật sự, hoàn toàn giải thoát khỏi vô minh, chúng ta có thể bắt đầu bằng việc trao lại cho người khác những gì chúng ta đã nhận để làm lợi ích tha nhân bằng cách tốt nhất mà chúng ta có thể.
Cho dù chúng ta gọi nó là từ bi, tình thương, sự
quan tâm hay bằng một thuật ngữ Phật học khác như bồ-đề tâm chẳng hạn, thì ý nghĩa của nó vẫn giống nhau: rằng ở nơi hành động, lời nói và suy nghĩ của mình, ta hãy đặt người khác trước bản thân mình. Một vài trong chúng ta thực hành thiền nhằm đạt được sự hiểu biết này; một số người khác có thể hiểu điều này mà không có sự thực hành thiền chính thức. Nhưng lòng từ bi không phải chỉ để đem ra đàm luận, nó cần phải được thực hành. Và không ai hiểu chúng ta bằng chính chúng ta. Chúng ta cần trí tuệ để quán chiếu xem chúng ta là người như thế nào.
Lòng từ bi có nghĩa là không chấp chặt vào bản thân, bỏ đi sự chứng tỏ bản thân.
Lòng từ bi có nghĩa là làm việc như cách ngọn gió làm việc, như mặt trời làm việc, như không khí làm việc. Ví dụ, hãy xem không khí chiếm giữ gian phòng này như thế nào. Không khí không nói “tôi sẽ trao cho bạn
không gian này để hít thở. Hãy hít thở theo những gì tôi muốn.” Mọi người đều hưởng lợi ích trong việc hít thở khí trời.
Nếu chúng ta
không xem mình là người quan trọng nhất trong cuộc đời, thì chúng ta có
nhiều khả năng hơn để làm việc cho người khác. Chúng ta sẽ tìm thấy thêm không gian, thời gian và năng lượng bên trong chính mình.
Ví
dụ, Vì có lòng từ bi nên chúng ta đến làm việc tại một bệnh viện hay tại một trại tế bần. Nhưng nếu chúng ta thấy rằng có những hạn chế và chúng ta không thể làm những điều mà mình muốn. Chúng ta thấy rằng mình cần đấu tranh chống lại hệ thống làm việc ở đó, và rồi chúng ta kiệt sức
bởi sự cố gắng của mình. Chúng ta kết luận rằng lòng từ bi của mình không được sử dụng theo một phương cách tốt nhất.
Những gì cần được hiểu ở điểm này là, chúng ta cần áp dụng trí tuệ cho lòng từ bi của
mình. Bởi vì chúng ta suy nghĩ các thứ phải nên như thế này hay như thế
kia, rồi khi nó không giống như vậy thì chúng ta thất vọng; và tâm trạng thất vọng đã che mờ óc sáng tạo mà chúng ta cần có cho tình huống.
Khi
chúng ta muốn phát khởi lòng từ bi, căn bản chúng ta phải chấm dứt kiểu
làm việc bằng cảm tính. Do đó nếu không có trí tuệ, lòng từ bi sẽ không
làm việc hiệu quả. Trí tuệ giúp chúng ta không đặt điều kiện và không thiên vị trong những việc làm của mình. Với trí tuệ, chúng ta không bị giới hạn nơi một nguyên nhân hay mục đích duy nhất; chúng ta nỗ lực hết mình trong mỗi tình huống được đưa ra, và rồi chúng ta tiến lên.
Không
có trí tuệ, cũng khiến chúng ta chấp chặt vào một vấn đề nào đó mà chúng ta nghĩ là điều quan trọng nhất. Nhưng chúng ta sống trong một thế
giới cộng tồn bởi nhiều người, và mỗi khi có hàng tỷ người đang làm việc, sẽ không có một điều duy nhất mà mọi người cùng chấp nhận. Sẽ có nhiều điều người ta làm ngoài sự mong muốn của chúng ta. Nếu chúng ta nhìn vào các hệ thống tôn giáo khác nhau – dù đó là Thiên chúa, Phật giáo, Hồi giáo hay Ấn giáo – chúng ta thấy rằng chúng đều khuyên người ta nên khởi lòng thương yêu. Nhưng trong khi tôi tin điều này là đúng, thì bạn tin điều kia là đúng, còn người khác tin điều nọ là đúng. Thậm chí ngay với điều được chấp nhận chung là tình thương, nhưng người Phật tử thấy cần gọi nó là tâm Bồ-đề, những người Hindu muốn gọi nó là karuna, những người Thiên chúa lại thích gọi nó là bác ái. Chúng ta bám chặt vào từ ngữ của riêng mình.
Trí tuệ dạy chúng ta rằng những khác biệt này không khiến chúng ta rút lui. Chúng không ngăn chặn chúng ta vận dụng lòng từ bi bằng sức mạnh và ý chí lớn hơn. Sau khi đạt được giác ngộ, đức Phật đã không thuyết giảng vì nghĩ không ai có thể hiểu được giáo pháp của Ngài. Nhưng sau đó Ngài đã quyết định giảng dạy.
Nếu
đức Phật từ chối thuyết giảng bởi vì không ai lắng nghe Ngài, ngày nay chúng ta không có Phật giáo. Tương tự, nếu tôi khăng khăng rằng lời lẽ và lòng từ bi của tôi phải được mọi người chấp nhận, thì đó thật sự là một sự hiểu biết kém cõi. Đó là trí tuệ dành cho tôi mà không dành cho người khác. Nhưng trí tuệ thật sự là không dính chặt vào những gì tôi nghĩ là đúng, là thấy rõ hơn những gì thật sự có ích. Trí tuệ là sự cởi mở giúp chúng ta thấy những gì là cốt tuỷ và hữu hiệu nhất, những gì là nhu cầu thật mà mọi người cần thực tập. Đây thật sự là cần thiết. Đây là
điều mà chúng ta cần thực hành.
Trí tuệ đòi hỏi rằng chúng ta làm việc với chính mình, để hành động thích hợp với điều tốt căn bản mà chúng ta có. Và khi chúng ta gặp những chướng ngại hay khó khăn, chúng ta có thể sử dụng chúng để phát triển thêm nguồn sức mạnh, vì nếu chúng ta chân thành quý trọng lòng từ bi, niềm tin đó sẽ trao cho chúng ta nghị lực để vượt qua tất cả những chướng ngại.
Chúng ta có thể cùng học hỏi lẫn nhau, nhưng sự chuyển đổi cuộc đời phải bắt đầu bên trong chính chúng ta. Lòng từ bi và trí tuệ cần hoạt động cùng với nhau,
kết hợp với nhau khéo léo, bao dung và nhẫn nhịn. Nếu chúng ta dành cho
mình thời gian để quan sát những suy nghĩ và hành động của mình, thì điều tốt có thể xảy ra. Và thay vì hành động một cách ích kỷ, chúng ta hành động một cách vô ngã.
Như vậy, sự thực hành phải bắt đầu với
chính chúng ta. Khi chúng ta nhìn vào một tấm gương, chúng ta luôn biết
những gì chúng ta muốn nhìn, và vì vậy chúng ta chỉ thấy những gì chúng
ta muốn. Để thấy những gì thật sự ở trong tấm gương, tốt hay xấu, và để
làm việc với những gì chúng ta thấy, là thật sự quan trọng và cần thiết. Nó cần có sự can đảm.
Vì vậy hãy suy nghĩ cẩn thận, bởi vì
thời gian trôi chảy không ngừng. Thời gian không đợi chờ một ai cả. Và bởi vì sự thay đổi xảy ra trong mỗi sát na, nếu chúng ta buông lung thì chúng ta đang làm hại chính mình. Nhưng nếu ở nơi đời sống làm người ngắn ngủi này, nếu có thể làm điều lợi ích cho người khác, thì chúng ta hãy cố gắng làm vì đó là việc làm của một người giác ngộ.
Khandro Rinpoche – Nguyên Hiệp dịch
Discussion about this post