TÌNH NGƯỜI TRONG CUỘC SỐNG
Thích Đạt Ma Phổ Giác
ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Con
người là loài có hai chân, đầu đội trời chân đạp đất, có văn hóa, có văn minh,
có hiểu biết, có yêu thương, nhờ biết suy nghĩ nhận thức tốt và biết cách thăng
hoa trong cuộc sống nên gọi là có tình
người. Nhờ có suy nghĩ và biết vận dụng đi theo chiều hướng tốt đẹp thì con
người mở rộng tấm lòng nhân ái, biết san
sẻ và giúp đỡ nhân loại. Ngược lại, vận dụng đi theo chiều hướng xấu làm tổn
hại cho tất cả chúng sinh, nên loài người khi thấy biết sai lầm thì vô cùng cực
ác, có thể tàn sát giết hại một cách dã man và hủy diệt môi trường sự sống
không thương tiếc, vì lợi ích cho riêng mình nhất là những ông vua thời phong
kiến.
Thế gian này theo lời Phật dạy có năm loài
cùng chung ở, từ loài người nhìn lên trên thì có thần A tu la và chư Thiên, là
loài có phước báu hơn người. Từ loài người nhìn trở xuống thì có súc sinh, ngạ
quỷ và địa ngục, là loài kém phước báu hơn người. Con người và các loài súc
sinh chúng ta thấy biết rõ ràng, thần A tu la và chư Thiên, ngạ quỷ và địa ngục
chúng ta không thể nhìn thấy trực tiếp. Năm loài cùng chung ở hay sáu đường
sinh tử luân hồi, có đầy đủ trong loài người. Nhưng loài người có ưu điểm hơn
năm loài kia, vì biết suy nghĩ nhận thức được mọi sự việc tốt xấu đúng sai, vui
buồn lẫn lộn và thường xuyên nếm trải hương vị ngọt ngào hay đắng cay của cuộc
sống. Chính vì vậy đức Phật mới xuất hiện nơi loài người, vì loài người có đủ
điều kiện để tu thành bậc Chánh đẳng giác, năm loài còn lại không đủ khả năng
tu hành thành Phật.
Đạo
Phật ra đời trên dưới 2600 năm trải qua các cuộc thịnh suy thăng trầm của thời
đại, nhưng không bao giờ có đổ máu, hận thù, tàn phá, giết hại, mà đạo Phật chỉ
giúp cho con người sống có hiểu biết và yêu thương hơn, bằng tất cả tấm lòng từ
bi và trí tuệ, với tinh thần vô ngã vị tha. Đó là ưu điểm của nhân loại biết
vận dụng lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày, nên biết cách làm chủ bản
thân, không lệ thuộc vào đấng thần linh hay thượng đế. Do đó sống có tình
người, tình nhân loại, tình chúng sinh, nên không làm tổn hại cho nhau.
Trong sáu đường sinh tử luân hồi, mỗi loài
đều có hoàn cảnh và sự sống khác nhau. Loài súc sinh chúng ta thấy rất rõ loại
có cánh bay lượn trên không, chúng sống thành từng đàn từng nhóm và tồn tại nhờ
thức ăn của thiên nhiên đồi núi rừng cây bao la theo kiểu hoang dã. Nhóm thứ
hai có cánh sống nhờ sự trồng trọt của loài người, hầu như mạng sống của chúng
ảnh hưởng theo sự phát triển của nhân loại. Nếu con người tồn tại và phát triển
ngày càng đông, thì có nguy cơ tiêu diệt các chủng loại khác và phá hủy thiên
nhiên để phục vụ cho nhân sinh. Loài sống trên mặt đất cũng vậy, có loài sống
nhờ rừng núi thiên nhiên và chúng có thể ăn nuốt lẫn nhau theo kiểu, lớn hiếp
nhỏ, mạnh hiếp yếu. Ngoài ra các loài súc sinh sống gần con người, chịu sự nuôi
dưỡng của con người và tùy theo khả năng mà chịu sự sai khiến làm việc phục vụ
cho con người và có những loài được nuôi để cung cấp thức ăn cho nhân loại. Các
loài sinh vật dưới nước cũng thế đều bị con người bắt và nuôi dưỡng, cũng để làm
thức ăn phục vụ cho nhân loại.
Chư
thiên là loài có phước báu hơn loài người, nhờ biết tu thập thiện, tu tập các
tầng bậc thiền định, do đó được hưởng phước báu mọi nhu cầu cần thiết theo ý
muốn của mình nên rất khó tu. Cụ thể hóa như những người quá giàu ở thế gian
này, rất là khó tu vì họ phải bận bịu đa đoan các thứ quyền lực danh vọng tiền
bạc nên không có thời gian để tu hành. Đến khi phước hết vẫn bị đọa lạc trở lại
như thường. Thần A tu la có phước hơn người nhưng vì nóng giận quá mức, nên hay
tranh đấu dẫn đến sự hiềm khích, để gây ra chiến tranh tạo sự oan gia ân oán
hận thù cho nhau. Chính vì thế, hai loài này tuy có phước hơn người, nhưng một
bên hưởng thụ quá đầy đủ, một bên nóng giận quá độ nên rất khó tu tập. Địa ngục
quá khổ đau cùng cực không có chút tự do, chúng sinh rơi vào cảnh giới này chịu
khổ triền miên không có ngày thôi dứt, chính vì vậy nên không có thời gian suy
xét và quán chiếu do đó cũng không tu được.
Nhìn từ
góc độ thực tế chúng ta thấy có địa ngục trần gian, ai phạm tội giết người thì
bị xích lại nhốt vào ngục tối, nặng nhất là án tử hình, tội nhân bị án này sẽ
ăn không ngon, ngủ không yên, ngày đêm cứ phập phòng lo sợ, không biết thần
chết đến lúc nào để rước mình đi, khi nghe tiếng mở cửa là họ sợ điếng cả hồn,
vì ai cũng tham sống sợ chết. Một ngày trôi qua là họ mừng một ngày, vì họ vẫn
hy vọng được sống còn để làm lại cuộc đời. Cho đến án chung thân, án khổ sai từ
một tháng cho đến hai chục năm và nhẹ nhất là hưởng án treo. Nhìn từ góc độ triết
lý học Phật giáo chúng ta thấy vô vàn vô số địa ngục khác, từ các bệnh viện
phòng cấp cứu, các nhà bếp của mỗi gia đình, các quán nhậu, các lò sát sanh,
các chợ bán thịt cá heo bò gà vịt, các loài hải sản và cuối cùng là các nhà
lưới bẫy đánh bắt. Mỗi một ngày vô số các loài bị phanh da xẻ thịt để cung cấp
phục vụ cho loài người, nhìn ở góc độ địa ngục trần gian chúng ta có thể hình
dung địa ngục trong tâm thức mỗi người. Tâm toan tính hại người, hại vật hoặc
bị phiền não chi phối đó là địa ngục tâm thức. Người tu nếu đạt đến giác ngộ
giải thoát thì tâm vẫn an nhiên tự tại, mặc dù thân có bị hành hạ đau nhức chi
phối.
Loài
ngạ quỷ là loài quỷ đói thấy thức ăn mà ăn không được bởi nghiệp tham lam, ích
kỷ, bỏn sẻn chiêu cảm. Nhìn từ góc độ cuộc đời ta thấy ngạ quỷ cũng có trong
loài người, thiếu ăn nghèo đói thèm khát ham muốn quá đáng mà không được nên
khổ đau bức bách. Quỷ đói không phải có trong người nghèo khổ, mà cả người giàu
có vì tham vọng quá đáng, không được như ý muốn, cũng vẫn phải chịu khổ như
thường.
Loài
súc sinh của thời kỳ cổ đại được sống tự do thoải mái hơn, ít bị loài người sát
hại. Chúng sinh loài thú đông đảo bao la với những núi đồi thiên nhiên bạt ngàn
xanh tươi màu mỡ. Còn một số loài súc sinh thì ảnh hưởng phước báu của loài
người, con vật nào được người thương thì cuộc sống có phần thoải mái và ngược
lại thì bị người giết hại. Con người khi phát triển càng đông thì nhu cầu ăn để
sống càng lớn, việc thuần hóa các loài vật để phục vụ cho con người như lạc đà,
lừa, ngựa, trâu, bò, để chuyên chở và cày bừa cho con người. Việc săn bắn đánh
bắt giăng bẫy các loài thú tuy có nhưng không đáng kể và việc nuôi thú để làm
thực phẩm cho con người cũng không có nhiều. Ngày nay thế giới con người quá
đông, nên nhu cầu đánh bắt loài vật không đủ sức cung phụng cho loài người, do
đó nhân loại phải tự nuôi thêm theo công nghệ hiện đại. Ngoài ra các loài vật
chịu sự ăn nuốt lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ chúng luôn sống trong khổ
đau lầm lạc. Năm loài cùng nêu, hai loài trên có phước hơn người quá sung mãn
nên không có điều kiện để tu tập, ba loài dưới thuộc đẳng cấp thấp hèn, nên
không có văn hóa, không có tình người. Loài người do biết suy nghĩ cảm nhận
được sự khổ đau và hạnh phúc, nên có điều kiện tư duy quán chiếu soi sáng mọi
việc bằng nhận thức sáng suốt, có học hỏi, có tu tập, có văn minh, có hiểu
biết, có yêu thương, có cảm thông, có bao dung, có độ lượng, có tha thứ và cùng
san sẻ cho nhau, nên loài người có đủ khả năng tu hành thành Phật. Đó là ưu
điểm của loài người, năm loài kia không thể thành tựu Phật đạo, chính vì vậy
đức Phật mới giáng sinh nơi loài người. Theo lời Phật dạy thế gian này có năm
loài cùng chung ở, hay là sáu đường sống chết luân hồi, có hai loài chúng ta
thấy biết dễ dàng nhất, đó là thế giới của loài người và súc sinh. Bốn loài còn
lại chúng ta có thể nhìn bằng trực giác hay tuệ giác của Phật mới biết rõ, nó
hiện hữu ngay nơi mọi người chúng ta.
Loài
người từ khi còn sống hoang dã cho đến ngày hôm nay đạt được tiện nghi văn minh
vật chất, nhưng vẫn phải đau đầu vì cái ác luôn chiếm ưu thế bởi các học thuyết
vu vơ huyền hoặc. Cùng với sự tác động của nhiều phim ảnh đã gieo rắc vào tâm
tư con người những tư tưởng, bạo động hận thù, tàn sát giết hại lẫn nhau. Khi
xưa con người chưa văn minh tiến bộ, nên đa số chịu ảnh hưởng sự cai quản của
thần linh thượng đế, phải chấp nhận số phận đã an bài và hạnh phúc hay khổ đau
đều do đấng tối cao ấy sắp đặt. Một số người có thế lực và quyền cao chức
trọng, họ lạm dụng quyền năng ấy để bóc lột và hưởng thụ cho riêng mình. Con
người khi sinh ra ai cũng khát khao được tự do và hạnh phúc, nhưng đa số không
biết làm cách nào để được hạnh phúc chân thật. Nhiều người cho rằng hạnh phúc
là có cơm ăn, áo mặc, nhà ở tiện nghi. Một số người cho rằng hạnh phúc là có
quyền cao chức trọng. Nhiều người cho rằng hạnh phúc là có nhiều tài sản và vợ
đẹp con ngoan. Một số người cho rằng hạnh phúc là nội tâm thanh tịnh, không còn
ham muốn dục vọng và các khoái lạc trần gian. Các vị Bồ tát thì lấy hạnh phúc
của nhiều người làm niềm vui chính mình, nên dấn thân đi vào đời làm việc không
biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, để phụng sự nhân loại.
Làm người trong thế gian ai cũng muốn hưởng
được hương vị ngọt ngào của cuộc sống, vì thế chúng ta cần phải có một hướng đi
rõ ràng và trong sáng. Nếu không, dòng đời nghiệt ngã sẽ cuốn trôi tất cả dù đó
là nhân nghĩa của một con người. Này các bạn, cuộc sống vốn nhiều bất hạnh khổ
đau, nếu chúng ta hay thất chí nản lòng. Đừng tự mình hạ thấp giá trị khi so
sánh với mọi người. Mỗi chúng ta là một viên gạch xây nên căn nhà tình thương,
tuy rằng giá trị của mỗi viên gạch lớn nhỏ khác nhau. Chúng ta hãy nên không
ngừng trau giồi học hỏi, quán chiếu cuộc đời để chuyển hóa kiến thức từ sự học
hỏi của thế gian, thông qua lời Phật dạy, chúng ta tu tập để phát sinh trí tuệ
thấy biết đúng như thật, nên không bị phiền não khổ đau chi phối và luôn sống
trong an lạc hạnh phúc.
Người nhiều kiến thức dễ chấp trước thấy mình
là trung tâm của vũ trụ, nên sinh tâm tham muốn quá đáng, có thể làm tổn hại
nhiều cho nhân loại. Trí tuệ thấy biết đúng như thật chân lý cuộc đời, nên dấn
thân phục vụ và làm việc không biết mệt mỏi vì lợi ích chúng sinh, mà không
tham đắm mê mờ. Trí tuệ là tài sản vô giá giúp chúng ta vượt qua cạm bẫy cuộc
đời, để có cơ hội nối kết yêu thương đồng hành cùng nhân loại. Mỗi một con
người là quà tặng cho cuộc sống, khi nhân loại đến với nhau có hiểu biết và
thương yêu, thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.
Chúng
ta muốn có một nhân cách sống đạo đức tốt đẹp, thì phải học theo gương hạnh của
các bậc thoát trần thượng sĩ ngày xưa. Thời Phật còn tại thế, một hôm ngài đến
thăm ba vị đệ tử của mình đang tu tập tại một làng quê xa xôi hẽo lánh. Được Phật
thân hành đến, ba vị đệ tử cùng nhau cung kính đảnh lễ và ngồi sang một bên chờ
sự chỉ dạy của ngài. Phật ân cần thăm hỏi, này các đệ tử tụi con sống ở đây có
được an lạc và hòa hợp hay không ? Ba tôn giả đồng thưa, chúng con sống với
nhau rất hòa hợp và hạnh phúc. Phật hỏi: Các con sống như thế nào mà được an
lạc và hạnh phúc. Kính bạch đức thế tôn, chúng con sở dĩ sống hòa hợp an lạc là
nhờ biết gìn giữ thọ trì giới cấm miên mật, mở rộng tấm lòng từ bi hỷ xả, biết
khiêm cung tôn trọng lễ phép với nhau, luôn vui vẻ hòa nhã, biết cảm thông và
độ lượng, luôn nhẫn nhịn nhường và nhiệt tình giúp đỡ lẫn nhau trong mọi trường
hợp. Lành thay, các con về sau rất xứng đáng làm hương thơm cho đời.
Đôi lời tâm sự chân thành với lòng biết ơn vô
hạn, kính mong các bạn lữ gần xa hãy nhín chút thời gian để cùng chúng tôi kết
nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống, trên tinh thần đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau.
NGƯỜI VÀ VẬT
Một
con người sống có đạo đức nhân cách được mọi người tôn quý và kính trọng, chưa
hẳn người đó xuất thân từ một gia đình có uy quyền thế lực, giai cấp quý tộc.
Cũng không hẳn là người có nhiều học vị bằng cấp hoặc người có nhiều tiền của.
Nếu người đó, đạt được những tiêu chuẩn trên mà lại không có giới hạnh đạo đức,
sống thiếu tình thương, tình người trong cuộc sống, thì giá trị của nó cũng
không thiết thực.
Ngày
xưa có một con sư tử và chín con chó sói cùng đi săn chung với nhau. Chúng bắt
được mười con nai, sau đó đến lượt chia mồi, sư tử hỏi ý kiến đồng bọn, nên
chia như thế nào cho công bằng?
Một
con sói lanh lợi liền nói, chúng ta có mười tên, săn được mười con, vậy thì
chia đều thế là bình đẳng và hợp lý nhất, không có gì phải bàn cãi nữa.
Sói
vừa dứt lời, đã bị sư tử tát cho một cái lòi cả mắt ra. Rồi sư tử quay sang hỏi
cả bầy sói, vậy chúng ta nên chia như thế nào cho công bằng đây?
Sói
nâu thấy bạn mình mới bị lòi mắt, nên hoảng quá, dạ bẩm ngài: để hết mười con Ngài
xơi từ từ ạ!
Sư
tử gầm lên thật lớn, xong liền đạp cho sói một đạp lăn cù mèo, rồi nói: đồ cái
thứ gian dối dua nịnh.
Xong, mọi việc đâu vào đấy. Sư tử từ tốn nói: Này các bạn, chúng ta phải
chia như thế nào cho đều vậy?
Cả
bầy sói bây giờ sợ xanh cả mặt, chẳng con nào dám nhúc nhích, hó hé gì cả! Sư
tử bực quá, chỉ ngay con sói đen trong bầy, chú mày ý kiến thế nào?
Sói
đen run rẩy thưa: Dạ bẩm ngài…cả đoàn chúng ta cả thảy có mười, săn được mười
chú nai. Phần ngài chín nai thì bằng mười, chúng con một nai chín sói cũng bằng
mười. Đó là cách chia đều và công bình số một, dạ bẩm thưa Ngài.
Sư
tử nhà ta ra chiều đắc ý lắm, được, chú sói đen thông minh lắm đấy, ta sẽ ban
thưởng sau. Ta từ trước tới nay không muốn làm người mạnh hiếp kẻ thế cô, ta
căm thù sự bất công và gian dối dua nịnh.
Sói
đen cung kính thưa:
Dạ,
kính bẩm ngài, con từ xưa nay dốt đặc, nhờ chứng nghiệm thực tế của hai bạn con
vừa rồi, nên mới có chút sáng kiến đấy thôi.
Sư
tử nhà ta hảnh diện lắm lớn tiếng nói, này lũ sói nhà ngươi hãy ngoái lỗ tai
lớn ra mà nghe và bắt chước khôn ngoan như chú sói đen kia đấy nhé.
Cả
bầy sói đồng thanh, dạ, dạ, xin nghe.
Câu
chuyện ngụ ngôn trên đã cho chúng ta thấy, sự tinh khôn xảo quyệt của sư tử là
đại diện cho con người không đạo đức. Bầy sói là tượng trưng cho loài vật hay
kẻ dưới quyền.
Người và vật cũng đồng nghĩa là một chúng sinh, nhưng con vật mặc dầu có
thú tính ăn nuốt lẫn nhau, nhưng chúng chỉ sát hại con mồi khi đói khát, khi no
đủ chúng không cần quan tâm đến miếng mồi ngon nữa. Loài người là một chúng
sinh cao cấp nhờ có nhận thức suy nghĩ, biết phân biệt phải quấy tốt xấu, nếu
biết đi theo chiều hướng thượng thì xả bỏ sự vị kỷ của cá nhân, để đóng góp lợi
ích thiết thực cho nhân loại. Ngược lại thì tinh ranh ma mãnh, mưu mô xảo
quyệt, cướp của lường gạt công khai, lại còn ngông nghênh ăn trên ngồi trước,
nói rằng công bằng, liêm chính chí công vô tư.
Đó
là bài học đau thương buồn tủi cho kiếp con người chúng ta, khi ai đó nhân danh
thượng đế có quyền ban phước giáng họa. Đôi khi chính ta cũng muốn như vậy, khi
bản ngã đã phình to. Con người thường tham muốn quá đáng, nên đã dùng đủ mọi
hình thức để mưu cầu lợi ích về cho riêng mình. Khi có quyền cao chức trọng,
thì chẳng từ bỏ một mưu sâu kế độc nào, miễn làm sao lợi cho mình là được rồi,
chẳng cần quan tâm điếm xỉa đến ai. Trong khi đó loài vật, không gian hùng như
vậy, chúng vì bất đắc dĩ bảo vệ mạng sống nên phải sát hại địch thủ. Khi đã đầy
đủ rồi chúng không màng đến miếng mồi nữa. Con người thì quá tàn nhẫn, một khi
đã ác rồi thì cùng hung cực ác. Man rợ, dã man đến tận cùng.
Một
ông vua ngày xưa vì mệnh danh là con trời, nên đã đặt ra những luật pháp khắc
nghiệt để bảo vệ giòng dõi của mình. Nên có những luật chu di ba họ, bẩy họ,
chín họ, theo kiểu diệt cỏ phải diệt tận gốc. Gã sư tử kia là đại diện cho con
người vị kỷ đó, mồm mép ba hoa lúc nào cũng muốn chứng tỏ rằng mình là con
người đạo đức cao thượng. Thường thì con người có những cái thấy lầm hiểu bậy,
mặc dầu biết như vậy nhưng ta vẫn một bề cố chấp để bảo vệ sĩ diện bản ngã cho
mình. Miệng thì tuyên truyền hô hào dân chủ, kêu gọi mọi người bình đẳng đóng
góp ý kiến để xây dựng phát triển mở mang. Nhưng, chú sói đầu tiên vừa mở miệng
bình đẳng công bằng, thì đã nhận chiếu chỉ án khổ sai chung thân. Kế đến chú
sói nâu, vừa mở miệng, chúng em nhường hết để cho anh xơi, thì được lệnh lưu
đày biệt xứ. Thế thì còn chú sói nào dám can đảm góp ý nữa đâu? Cả bọn đều ngậm
bù hòn làm thinh, trước sự bất công áp bức của sư tử. Đến lượt, con sói đen
được chỉ định ý kiến, tất cả bọn sói đều lo sợ quay mặt về nó, để chờ đợi… kết
quả đau thương như hai chú sói trên. Dạ bẩm Ngài, theo con nghĩ chia hai là đều
nhất, Ngài là một cộng với chín nai thì bằng mười. Chúng con, chín sói cộng với
một nai cũng bằng mười. Như thế là quá công bằng, bình đẳng, dạ kính bẩm Ngài.
Một tràng pháo tay vang dội, hoan hô hay quá chú sói đen thông minh đáo để. Lúc
này sư tử nhà ta càng vênh vang tự đắc, phải như sói đen mới đáng mặt là kẻ
thông minh sành sỏi. Được rồi ta sẽ ban thưởng hậu hỷ cho ngươi sau. Chú mầy
học phương thức chia chát này ở đâu vậy, sau từ xưa đến giờ trong sách vở chưa
từng ghi lại. Dạ, bẩm ngài con vừa học được từ hai bạn sói trước mắt đó. Sư tử
nghe nói vậy liền cười ha hả, ra chiều thích thú lắm, rồi dõng dạc tuyên bố này
lũ sói nhà ngươi hãy học cách khôn ngoan như sói đen đấy nhá! Cả bọn đồng thanh
dạ.
Chúng sinh vì một niệm bất giác nên bị gió nghiệp cuốn trôi, từ một bản
tâm bình thường trong sáng vô ngã vị tha, chúng ta kết thành ngã si, ngã ái,
ngã chấp rồi khoát lên nó quan niệm sống lý tưởng và cố chấp thành kiến để phục
vụ cho cái tôi này, mà con người trở nên tàn nhẫn độc ác. Con người là một
chúng sinh cao cấp có nhận thức và hiểu biết, do biết quán chiếu tìm tòi, nên
có thể dời núi lấp sông, vá trời lấp biển. Con người có thể tạo nên các tiện
nghi vật chất để mưu cầu hưởng thụ cho riêng mình, nên bằng mọi cách vơ vét gồm
thâu bành trướng thiên hạ để nắm quyền cai trị, nhằm hưởng lộc tối cao. Cái gã
sư tử đó ra vẻ dân chủ, bình đẳng lắm, nhưng thực chất chỉ là hạng lừa đội lốt
sư tử. Nào là văn minh dân chủ công bằng tự do, nào là…. vì lợi ích của nhân
loại, hứa hẹn đủ thứ, để rồi trở thành con ma nhà họ hứa. Ai biết cách tâng bốc
chạy lòn phía sau thì công danh sự nghiệp lên như diều gặp gió. Ai thành tâm
nói lên sự thật thì lảnh án khổ sai biệt xứ. Cuộc đời lúc nào cũng bị phủ lên
lớp áo màu xanh, hy vọng đổi mới, phát triển mở mang, nhưng chỉ trên danh nghĩa
suông, chỉ lợi ích cho một số người. Chúng ta phải làm thế nào để trở thành
người có đức hạnh? Muốn trở thành người có đức hạnh không phải đơn giản và dễ
dàng, nó đòi hỏi người ấy đối với bản thân, phải luôn biết xét nét nhìn kỹ lại
chính mình để thấy được những lỗi nhỏ nhặt nhất mà tìm cách khắc phục, chuyển
hóa chúng. Người có đức hạnh phải biết làm chủ bản thân qua các cảm thọ xúc
chạm, để thấy biết rõ ràng sự thật nơi thân này. Biết cảm thông bao dung và độ
lượng tha thứ, cho những ai đã từng làm cho mình đau khổ tột cùng. Luôn sống vì
lợi ích chung lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui chính mình, ai sống được như
vậy là người đức hạnh, đạo đức và đang đi trên con đường giác ngộ. Và chúng ta
nên học hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui sớt khổ vì lợi
ích tha nhân, ai sống được như vậy là người có đức hạnh.
QUYỀN LỰC VÀ ĐỊA VỊ
Ngày
xưa con người cảm thấy bé nhỏ với bầu vũ trụ bao la này, nên đa số đặt niềm tin
vào một đấng tối cao có khả năng ban phước giáng họa. Từ đó, các ông vua phong
kiến lợi dụng quyền năng trên chế tác ra luật pháp độc tôn bắt buộc mọi người
phải noi theo, dưới danh nghĩa là thiên tử con trời do thượng đế an bài sắp
đặt, đất nước và con người đều thuộc quyền sở hữu của vua. Tất cả mọi người đều
phải trung thành tuyệt đối theo sự sắp xếp của nhà vua. Vua muốn phong quan
tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết kẻ dưới không có quyền khiếu
nại, nếu vua bảo chết mà không chịu nghe gọi là bất trung, với một quyền lực
như vậy ông vua được hưởng tất cả mọi nhu cầu cần thiết theo sự kính trọng tột
cùng của mọi người. Làm vua quả thật không đơn giản tí nào, vì người đó nhiều
đời đã từng phục vụ và đóng góp cho nhân loại quá nhiều, nên ngày nay mới được
hưởng phước làm vua. Luật pháp thời này mang tính cách độc tôn theo thể chế cha
truyền con nối nên thế gian có câu: “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa
thì quét lá đa” nếu gặp ông vua hôn quân mê muội thì dân chúng khổ sở lầm than.
Quyền lực thời phong kiến, ông vua được xem là con trời đại diện cho thượng đế
an bài sắp đặt và cả đất nước con người thuộc quyền sở hữu của vua. Ở thời đại
cổ xưa con người rất tin tưởng vào đấng thần linh thượng đế mà không dám chống
trái sợ thần linh giận dữ trừng phạt. Ngày nay con người văn minh tiến bộ vượt
bực, nên thấy chế độ phong kiến quân chủ độc tôn không còn phù hợp với thời
khoa học hiện đại, do đó đã thay đổi cơ chế quyền lực thành dân chủ nhiều đảng,
để cùng cạnh tranh làm việc phục vụ đóng góp lợi ích cho xã hội, được dân bầu
từng nhiệm kỳ một. Nếu vị lãnh đạo nào có khả năng làm lợi ích cho đất nước
nhiều, thì được bầu thêm một nhiệm kỳ mới. Nhưng tối đa chỉ hai nhiệm kỳ rồi
nhường chỗ cho người khác, nên tình trạng tham nhũng lạm phát của công rất ít
khi xảy ra. Cơ chế dân chủ hay ở chỗ nếu mình nắm ghế quyền lực mà không đủ khả
năng để giúp ích mọi người thì tự xin từ chức, hoặc nếu lạm dụng quyền hạn tham
nhũng thì có ban hành pháp truy tố đem lại công bằng cho xã hội. Lần bước theo
thời gian trên đà tiến bộ của nhân loại thể chế phong kiến quân chủ, theo hệ
thống cha truyền con nối, dần dần nhường lại cho thể chế phong kiến cấp tiến.
Theo lời Phật dạy: Thế gian này năm loài cùng chung ở hay là sáu đường luân
hồi, nhưng con người là một chúng sinh cao cấp nhờ có suy nghĩ nhận thức phân
biệt đúng sai, nếu biết vận dụng đi theo chiều tốt đẹp thì không ai bằng và
ngược lại thì vô cùng cực ác. Lịch sử nhân loại đã chứng minh cho chúng ta thấy
rõ điều đó. Chỉ có con người tâm linh mới đủ khả năng, giúp nhân loại vượt qua
rào cản của si mê và tội lỗi, nhờ có hiểu biết và thương yêu trong bình đẳng.
Ai làm người cũng phải biết thao thức và trăn trở, hãy mở rộng tấm lòng ra để
cùng nhau kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống.
Đời sống con người luôn song hành hai phần
thân và tâm, tức thể xác và tinh thần. Nhưng đa số chúng ta chỉ chú trọng về
phần vật chất cho thân rất nhiều, mà quên lãng đi yếu tố tình thần, tuy sống
trong giàu có tiện nghi mà nghèo nàn phần tâm linh nên thường thất vọng khổ
đau. Lại có một hạng người tuy giàu có dư dã, nhưng lại sống khổ sở hơn người
nghèo vì họ chẳng dám ăn dám xài, nói chi đem ra giúp đỡ cho người khác. Họ
sống trong tham lam ích kỷ, lao tâm nhọc sức để tích chứa cho riêng mình. Muốn
cho xã hội được phát triển vững mạnh và lâu dài, con người cần phải làm giàu
tri thức và đạo đức. Tri thức giúp phát triển xã hội, đạo đức giúp con người
sống có hiểu biết và yêu thương hơn. Tri thức và đạo đức như đôi cánh chim tung
bay khắp cả bầu trời rộng lớn, để bồi đắp cho nhau sống có tình người. Thiếu
tri thức thì không làm được gì, có tri thức mà không có đạo đức thì dễ dàng bị
tha hóa tiêu cực làm thiệt hại cho nhau. Con người là chủ nhân của bao điều họa
phúc, bất hạnh hay khổ đau là do chính mình quyết định. Chúng ta hãy vì tình
thương của nhân loại mà cùng chia sẻ cho nhau, vì con người hơn hẳn loài vật là
có hiểu biết, nên chúng ta cùng nhau chia vui sớt khổ để thiết lập tình thương
theo nhịp cầu tương thân tương ái trong cuộc sống.
CẢM XÚC TRONG TÌNH NGƯỜI
Sống
ở đời ai cũng cần có tình cảm hay nói cho đúng là tình người trong cuộc sống.
Tình cảm là khả năng nhận biết các cảm giác qua sự tiếp xúc của sáu giác quan
như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Con người là một chúng hữu tình, vì có tình
nên phát sinh ra hai vấn đề ưa và ghét.
Khi gặp cảm thọ dễ chịu thì sinh ra ưa thích luyến ái muốn được lâu dài nên bám
giữ nuối tiếc, khi gặp cảm thọ khó chịu thì tỏ thái độ không hài lòng, bực tức
rồi phát sinh phiền muộn khổ đau. Tình cảm con người được biểu hiện qua tâm lý
cảm xúc ưa thì thương yêu thích thú, lo lắng phiền muộn và ganh tỵ, ghét thì
sinh ra giận hờn, tức tối, khinh bỉ coi thường và tìm cách trả thù. Có một loại
tình cảm mà từ xưa cho đến nay nhân loại bao giờ cũng ca ngợi, đó là tình yêu
nam nữ. Khi yêu nhau ta hay thầm thương trộm nhớ ấp ủ tâm tư, muốn chiếm hữu
cho riêng mình nên từ đó sinh ra ích kỷ, nhỏ mọn hẹp hòi. Cảm xúc là một trạng
thái phản ứng tinh thần do bị kích động bởi hai trạng thái yêu thương và ghét
bỏ, cho nên chúng mang tính tích cực hoặc tiêu cực. Thường những cảm xúc tích
cực đem đến cho người ta vui vẻ hạnh phúc. Cảm xúc tiêu cực làm cho người ta
đau khổ, buồn rầu, tức giận, ghét bỏ, sợ hãi bất an, thất vọng và đau đớn. Nếu
chúng ta một bề cứ chấp trước bám víu, ôm mãi vào lòng cảm xúc xấu quá nhiều,
lâu ngày sẽ dẫn đến tình trạng rối loạn cảm xúc có thể gây ra nhiều chứng bệnh
hiểm nghèo trong cơ thể. Như bệnh thần kinh, huyết áp cao, viêm khớp và ung thư
bao tử. Chúng tôi có duyên lành hàng tháng đến Trung tâm bảo trợ xã hội Chánh
Phú Hòa tỉnh Bình Dương để cùng tâm tình và chia sẻ với bà con niềm tin sống có
hiểu biết và thương yêu. Và cứ ba tháng một lần chúng tôi đến Trung tâm tâm
thần Tân Định Huyện Tân Uyên Tỉnh Bình Dương nơi đây gần 1200 người bệnh tâm
thần từ nhẹ cho tới nặng. Nguyên nhân chính dẫn đến bệnh hoạn như thế từ nghiệp
nhân si mê đưa vào cơ thể các chất kích thích, hoặc mua bán các chất đó cho mọi
người. Ngoài những yếu tố trên, còn có các yếu tố phụ là chất chứa cảm xúc xấu
quá nhiều trong lòng nên gây rối loạn dẫn đến bệnh hoạn. Muốn hóa giải những
cảm xúc xấu đó chúng ta cần có tình yêu thương chân chánh, cần có tình người
với nhau, là chất liệu sống để giúp cho con người vượt qua cạm bẫy cuộc đời, mà
cảm thông tha thứ và sẵn sàng san sẻ cho nhau. Cuộc sống nếu không có yêu
thương thì sống để làm gì, nhưng yêu thương không đúng cách, đúng chỗ, đúng
thời, dễ trở nên sầu bi khổ não. Trong mối quan hệ mật thiết với nhau ai cũng
muốn được yêu thương, đó là chất liệu sống cần thiết cho con người, nhưng khi
thương ai, chúng ta chỉ muốn chiếm hữu cho riêng mình. Đã làm người ai cũng cần
có tình yêu thương chân chánh, nhưng đa số chúng ta yêu thương trong sự ích kỷ
hẹp hòi, nên dễ dẫn đến si mê chấp ngã mà sinh ra ghét bỏ giận hờn. Khi tham
muốn thích thú một cái gì mà không được thỏa mãn, thì sinh ra thèm khát. Như
chúng ta ham muốn khoái lạc với người khác phái, nhưng không có đủ điều kiện để
tác thành, ta ôm ấp thèm khát mãi cho đến khi không làm chủ bản thân được nữa,
ta dễ dàng cuồng si hành động trong mê muội. Cái gì bị cấm đoán lâu ngày, nhưng
nó lại là nhu cầu cần thiết trong cuộc sống dễ hấp dẫn con người ta thèm khát
lạ thường và nếu chúng ta không biết cách hóa giải, cuối cùng phá rào làm bậy.
Thế
giới loài người chúng ta cứ loanh quanh lẫn quẩn trong tình cảm thương yêu và
ghét bỏ, tạo ra cảm xúc vui buồn tốt xấu lẫn lộn. Nhất là các em trai tuổi từ
15 đến 18 trong giai đoạn chuyển biến tâm sinh lý, để trở thành một người lớn.
Lúc này các em dễ dẫn đến tình trạng thủ dâm bởi cảm thọ khoái lạc, nếu không
biết điều hòa chừng mực sẽ tạo ra cảm xúc ghiền, do đó dễ dẫn đến làm bậy bạ.
Nhiều em vì không đè nén được cảm xúc nên thủ dâm quá độ, đến khi lập gia đình
bị giới hạn trong sinh hoạt tình dục, làm cho người bạn đời dễ bị hụt hẳn chới
với trong quan hệ chăn gối ái ân. Trong tình cảm thường phát sinh ra hai trạng
trái, cảm thọ và cảm xúc. Vậy cảm thọ và cảm xúc khác nhau ra sao? Khi nghe một
vị pháp sư nói chuyện về cách thức chuyển hóa và làm mới lại chính mình, ta cảm
thấy nhẹ nhàng thoải mái như trúc gánh nặng trên vai, đó là một cảm thọ. Nhưng
khi hiểu được như vậy, ta bổng dưng dâng trào nước mắt hai hàng lệ rơi bởi sự
xúc động mạnh mẽ. Cảm xúc là trạng thái biến dạng rung động mãnh liệt của cảm
thọ, được phát ra từ tình cảm của một con người. Và trong cảm xúc cũng có hai
loại tốt và xấu. Xấu thì bi quan chán nản, mặc cảm tội lỗi, hờn giận bất mãn,
lo lắng sợ hãi, ganh tị tật đố, thèm khát, kiêu ngạo và phá bỏ. Tốt thì mừng
vui, thương mến yêu thích, nhiệt tình cởi mở, vui vẻ hoan hỷ. Những loại cảm
xúc xấu làm cho ta bực bội khó chịu trong người và bộc phát ra bên ngoài, như
khi giận ai thì mặt đỏ bừng lên trong rất dữ tợn, khi ta lo sợ hay bất an một
điều gì đó thì mặt mày tái mét và khi ta phiền muộn khổ đau thì dáng điệu ủ rủ
tiều tụy như người khóc đưa ma mẹ. Mặc cảm tội lỗi về quá khứ năm xưa, ta lỡ
làm điều sai quấy rồi ăn năn hối hận hoài mà không tháo gỡ được, lâu ngày trở
thành nội kết để ta ôm mãi mối tơ lòng. Khi ta tức giận hay ghét bỏ một người
nào mà không có cơ hội trả thù được, cái giận nó cứ âm ỉ sôi sục mãi trong lòng
ta lâu ngày, để rồi biến thành nội kết làm cho ta đau khổ tột cùng. Khi đã trở
thành nội kết rồi, thì dù có trải qua mười năm hoặc hai mươi năm đi nữa, ta vẫn
luôn bị nó dằn dặt mãi nên ôm vào nỗi khổ niềm đau, cho đến khi gần tắt thở lìa
đời mà tâm niệm chấp trước vẫn cứ sôi sục mãi trong lòng.
ÔM LUÔN NỘI KẾT VÀO LÒNG
Chúng tôi đã từng biết và mắt thấy tai nghe về
một gia đình nọ, người cha này có một đứa con gái vì si mê tình ái nên bỏ nhà
theo trai. Giận quá, nên ông ta cứ ôm ấp mãi nội kết vào lòng mà không tha thứ
cho đứa con gái ấy, vì sĩ diện làm cha, ông cấm tuyệt không cho cô ta về nhà.
Đến khi ông lên cơn bệnh nặng sắp chết, vậy mà ông ta còn dặn kỹ bà vợ nếu tôi
có chết cũng không cho con Thắm về để tang, nói xong ông tắt thở. Nhưng mẹ cô
ta thương con nên gọi về để tang cha, đứa con gái có mặt trước linh cửu của cha
mình đốt nén tâm hương mong cha tha thứ cảm thông cho lỗi lầm năm xưa, vì con
trẻ còn quá dại khờ. Người cha đó mặc dù đã chết, nhưng thần thức vẫn tức tối
bảo thủ nỗi oán giận đứa con mình cho nên ôm luôn nội kết phiền muộn khổ đau,
mà ra đi không được. Đương lúc con cái trong gia đình khóc thương cha, thì bổng
dưng một mùi xú uế hôi thúi xông lên nực nồng khó chịu làm cho cả nhà thiếu
điều sống dở, chết dở vì cái mùi ấy. Mặc dù được các nhà họ đạo đến để tìm cách
bít lấp chỗ xì đó, nhưng không hiệu quả khiến không khí tang chế trong gia đình
trở nên ảm đạm hơn. Không ai dám tới để phúng điếu, cùng chia sẻ với gia đình
vì cái mùi xú uế ấy. Đây là một câu chuyện có thật trong cuộc đời, chính bản
thân chúng tôi khi xưa đã từng ăn nhậu chung với ông ta. Ông ta thường trách
móc về đứa con gái của mình trong lúc đang nhậu với chúng tôi, chính vì ông
không cảm thông và tha thứ cho đứa con, nên ôm luôn cảm xúc phiền muộn vào lòng
mãi mãi. Từ cảm xúc giận dỗi ông chấp trước bám vào đó lâu ngày trở thành nội
kết, nó cứ sôi sục âm ỉ bên trong tạo ra vết thương lòng khó phai, cho nên đến
khi chết rồi mà ông vẫn cứ ôm giữ mãi, do đó không siêu được. Lúc còn sống ông
ta thường nói với bà vợ rằng, nếu sau này tôi có chết bà đừng cho con Thắm về
để tang tôi, vì nó không phải là con của tôi, nếu bà không nghe lời, tôi sẽ xì
cho cả nhà hôi thối mà coi. Con người ta do bám víu chấp trước vào cái thấy
nghe của mình, nếu ai làm khác đi thì không được, đứa con gái vì chút si mê
tình ái do tuổi trẻ bồng bột, mà bị người cha không nhìn nhận là con của mình.
Ai trong cuộc đời không một lần lầm lỗi hay vấp ngã, có ai muốn thế bao giờ
đâu, bậc làm cha mẹ hãy nên sáng suốt bao dung, biết thương tưởng con cái còn
nhỏ dại. Người cha đó vì sĩ diện với mọi người, nên ôm hận vào lòng đến khi
chết vẫn mang theo, quả thật ý thức con người thật là ghê gớm. Một ý niệm phiền
muộn khởi lên nếu ta cứ ôm ấp mãi để rồi lâu ngày trở thành nội kết, thì tâm
niệm đó cứ theo ta suốt đời suốt kiếp, nên thế giới này sở dĩ chiến tranh binh
đao tàn sát giết hại lẫn nhau không có ngày thôi dứt, cũng chỉ vì ôm nội kết
oan khiên vào lòng mà không buông xả được. Chúng ta tu là để chuyển hóa những
cảm xúc xấu, không cho chúng biến thành nội kết, nếu ta cứ để những tâm niệm
ích kỷ thù hằn trong lòng này, thử hỏi làm sao không có án mạng xảy ra. Con
người luôn sống trong cái vòng lẫn quẩn từ sự chấp ngã dẫn đến muốn chiếm hữu
cho riêng mình, từ đó sinh ra bao điều tội lỗi do tâm chấp trước bám víu vào
cái ta ích kỷ này. Mỗi một con người đều có thói quen và quan niệm khác nhau
tùy theo sự huân tập trong quá khứ hoặc hiện tại, nên không ai giống ai. Nếu ta
cứ chấp trước bám vào đó bắt buộc mọi người phải giống mình, thì thật là một
tai hại, nếu ai làm khác đi thì ta không bằng lòng và ôm vào một khối phiền
muộn khổ đau, để mỗi ngày chúng hành hạ dằn dặt ta mãi. Nói tóm lại, khi ưa
thích thì sinh luyến ái muốn bảo vệ cho riêng mình nên tư tưởng chiếm hữu phát
sinh và ta muốn nó mãi là của mình, ai chạm đến thì không được. Khi ghét thì
bao nhiêu oan khiên hận thù ôm mãi vào lòng, để rồi chúng ta tự tạo cho mình
gánh lấy khổ đau, nó giết chết ta theo thời gian. Khi giận ai thì ta muốn trả
thù, khi ghét ai thì ta muốn phá bỏ hai tâm niệm này làm cho ta sống trong hiềm
hận khổ đau. Ai khéo tu thì tìm cách chuyển hóa chúng, đừng để nó âm ỉ sôi sục
mãi trong lòng, nếu ta thường xuyên quán chiếu từng tâm niệm trong tỉnh giác,
ta sẽ cảm nhận được sự bình an hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
CHA MẸ LÀ THẦY GIÁO ĐẦU TIÊN
Gia
đình là tổ ấm làm nên chất liệu cuộc sống, nếu cha mẹ biết quan tâm lo lắng cho
con cái đúng mức. Thường con cái bị hư hỏng là do nó ỷ lại sự nghiệp của cha mẹ
và con cưng là con hư. Thật ra chẳng có ai lo lắng cho ta hết cuộc đời này, dù
cha mẹ có nuông chiều cách mấy đi, đến một lúc nào đó ta cũng phải đi bằng đôi
chân của mình, vì có cha mẹ nào sống đời với ta đâu? Xưa, có hai vợ chồng tiều
phu già với đứa con trai duy nhất, nên được mẹ cưng chiều quá đáng. Bà ta vì sợ
con mình cực khổ, nên không cho nó làm gì động đến móng tay. Biết mình sẽ không
còn sống được bao lâu nữa, nên ông già bí mật cất giấu số tiền dành dụm bấy lâu
nay một nơi kín đáo. Và di chúc lại cho con rành rẽ, nếu cậu ta làm được đồng
tiền đầu tiên chính bằng mồ hôi sức lực của mình. Chàng thanh niên rất muốn
được lấy số tiền đó, nhưng lại không chấp nhận lời đề nghị của cha. Mẹ cậu ta
vì thương con, nên đã lén bán đi một số tư trang của bà đem đưa cho con trai.
Xưa nay chúng ta thường nghe nói con hư tại mẹ, cháu hư tại bà, quả thực là khá
chính xác. Bà mẹ đó vì cưng chiều con quá đáng, nên cậu ta suốt ngày ngồi không
hưởng thụ, để cha mẹ già còng lưng ra mà làm nuôi con. May nhờ có người cha
kiên cường, mới giúp được đứa con thay đổi nhận thức và hành động tốt đẹp về
sau này.
Xưa
nay cậu ta quen thói ăn không ngồi rồi, nên khi cầm số tiền độc nhất của mẹ.
Cậu ta cà rê dê ngỗng vui chơi thong thả cho qua ngày tháng, đến khi gần hết số
tiền chỉ còn vài đồng lẻ. Cậu ta mới trở về nhà đưa cho cha rồi nói dối rằng,
đó là công sức của con làm mấy ngày hôm nay. Ông già tiều phu dửng dưng lạnh lùng,
cầm số tiền đó quăng hết xuống ao. Đứa con trai thì vẫn tỉnh bơ như không có
chuyện gì xảy ra, bà mẹ nhìn thấy liền ôm mặt khóc vì tiếc của.
Người cha nhắc lại lời di chúc ban đầu và đuổi đứa con ra khỏi nhà liền
lập tức. Cậu con trai tiếp tục ra đi phương xa kiếm miếng ăn, mà trong người
không có một đồng. Cơn đói khát bắt đầu hoành hành, chàng đành phải năn nĩ
người ta để làm thuê làm mướn miễn sao có chén cơm sống qua ngày. Đồng tiền cậu
làm được trong một ngày, ăn uống kham
khổ nhín nhúc bớt lắm mới dư được chút ít. Sau một thời gian làm lụng vất vả,
dành dụm được ít tiền chàng mới trở về thăm cha mẹ.
Cũng như lần trước, người cha cầm số tiền ít ỏi của con quăng hết xuống
ao. Đứa con bây giờ có khác ngày trước, cậu ta xót xa thương tiếc tiền mình làm
ra, nên nhảy ùm xuống ao, xít chút nữa là mất mạng vì không biết lội. Trong khi
đối diện với cái chết gần kề, người con bây giờ mới kính trọng và hiểu được tấm
lòng của cha mình nhiều hơn. Đứa con tỏ ra ăn năn hối hận trong lòng, nên mới
quỳ xuống lạy tạ xin cha hãy tha thứ lỗi lầm cho con, con trẻ dại khờ không
biết công sinh thành dưỡng dục mang nặng đẻ đau, làm lụng vất vả nhọc nhằn mới
nuôi con khôn lớn đến ngày nay. Người cha lúc này mới thật sự yên tâm và từ đó
ông trao hết gia tài cho con. Đứa con bây giờ mới có nhận thức chính chắn về
trách nhiệm và bổn phận, của một con người đối với gia đình và xã hội.
SAI LẦM ĐÁNG TIẾC
Tôi
và cậu con trai trong câu chuyện đồng thói quen ỷ lại vào cha mẹ, vào người
khác. Cậu con trai đó, nhờ sự giáo dục nghiêm khắc của người cha, mà sau này
trở thành một nhà doanh nghiệp ăn nên làm ra. Bây giờ người ấy luôn có mặt trên
từng cây số, để ủng hộ và giúp đỡ những mãnh đời bất hạnh. Còn tôi bây giờ, tuy
được xuất gia tu hành trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Nhưng tôi
chẳng khác nào cậu con trai năm xưa, chỉ biết tham cầu lợi dưỡng cung kính, cúng dường. Thậm chí khi gia đình
Phật tử có duyên sự cần thiết, nhờ chư Tăng tụng niệm bái sám. Nếu lỡ gia đình
nào nghèo không có cúng dường bao thư, thì trong lòng cảm thấy không vui, sau
này nghe nói đến Phật tử đó thì tôi tìm cách lánh xa. Còn gia đình nào cúng
dường hậu hỷ thì bản thân tôi tìm cách thân cận khen ngợi tâng bốc, để được
lòng thí chủ. Và tôi tiếp khách Phật tử cũng lại như thế, ai có tiền bao thư
thì tôi tiếp đãi long trọng như nhà riêng của mình, bất kể là làm ảnh hưởng chư
Tăng đang sống chung với mình, miễn mình có tiền nhiều là được rồi. Chính vì
vậy sau này các Phật tử đó coi thường quý thầy, mới đầu họ đến vì Tam bảo, sau
này họ đến vì tình cảm riêng tư làm gây xáo tộn Tăng chúng và cuối cùng dẫn đến
tình trạng, thầy đó là thầy của tôi, thầy kia là thầy bá vơ vất vưỡng. Tôi tự
cảm thấy xấu hổ và hối hận làm sao, tôi tu vì để được lợi dưỡng cho riêng mình
và muốn người khác phải tôn sùng mình, vì ta là thầy thiên hạ mà. Quả thật tôi
không xứng đáng làm con nhà thích tử chút nào, ở ngoài đời nhân loại vì không
hiểu biết chân lý sống làm người, nên mới đua chen giành giựt giết hại lẫn
nhau. Còn tôi được thấm nhuần Phật pháp sau thời gian trượt dài trong đam mê
tội lỗi, được Phật pháp cứu vớt. Ấy thế mà vẫn chứng nào tật nấy, tuy bây giờ
chứng tật có khác hơn so với lúc trước, nhưng đối với tôi đó là con người tham
lam ích kỷ đội lốt con lừa sư tử.
Hôm
nay nhân kể câu chuyện cậu con trai chỉ biết sống bám vào cha mẹ, chưa từng làm
ra đồng tiền chính bằng mồ hôi nước mắt của mình, nên không biết trân trọng quý
kính giá trị của nó. Tôi xưa kia đã hơn nữa đời lầm lỡ vì quan niệm ấy, cho đến
lúc được vào Thiền viện tu hành rồi bản ngã càng phình to hơn, vì nghĩ rằng
mình là thầy thiên hạ. Cho đến bây giờ tôi chỉ hiểu biết suông, lý giải suông,
nên nhiều khi đối diện với cuộc đời, nửa gió bát phong cũng không qua nổi,
huống gì là tám gió thổi chẳng động. Tuy nhiên hiểu được, biết được còn hơn, vì
mình còn thấy được lỗi lầm, đã thấy được lỗi lầm thì còn có cơ hội ăn năn sám
hối, biết mình còn khiếm khuyết nhiều nên cố gắng bền chí sửa sai, nhằm chuyển
hóa ba nghiệp tham sân si để vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Nhờ vậy không
bị chết chìm trong hang quỷ vô minh.
Nói
đến đây, tôi mới nhớ lại một bài kinh mà ngài A Nan thắc mắc hỏi Phật về một
điềm chiêm bao kỳ lạ! Điềm ấy như sau: Có một cõi đó, chư Tăng toàn sống và làm
việc dưới hầm, còn những người cư sĩ mặc tình ung dung đi lại tự do phía trên,
không bị sự giới hạn ngăn cách nào. Thông thường chư Tăng tu học là nhờ sự hộ
trì cúng dường của Phật tử, nếu quý thầy thọ dụng của đàn na tín thí mà không
chịu học hỏi tu hành làm lợi ích cho tha nhân, thì sẽ chịu nhân nào quả nấy tùy
theo mức độ nặng nhẹ. Phật dạy, nhân quả rất công bằng và bình đẳng, không
thiên vị một ai. Làm tốt được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Nếu ai có duyên
thể nghiệm lời nói trên, chắc chắn phải ưu tư trăn trở về sự tu hành của mình
có xứng đáng làm bậc mô phạm, để giúp mọi người chuyển hóa những nỗi khổ niềm
đau, thành an vui hạnh phúc hay không. Hay là chúng ta nghĩ rằng mình là ông
thầy, luôn bắt buộc mọi người phải tôn trọng cung kính ta.
Như
ông già tiều phu kia, khéo biết dạy đứa con trên một cách thật tài tình, nếu không phải vậy con người ta dù
có sống đến một trăm tuổi, cũng chỉ làm thiệt hại cho bản thân, gia đình và xã
hội. Và may mắn hơn, chúng ta lúc nào cũng có tính biết sáng suốt ngay nơi thân
vật chất này. Nếu ai biết đem ra sử dụng thì một đời sẽ sống lợi ích cho tha
nhân nhiều hơn là cho chính mình. Đồng tiền của chàng trai ấy tuy làm ra rất ít
ỏi, nhưng giá trị của nó quý hơn gấp trăm ngàn lần đồng tiền vô nghĩa, ăn bám
vào người khác, dù đó là tiền cúng dường. Người sống ăn bám vào cha mẹ hoặc của
người thân, hay thọ nhận của cúng dường quá đáng mà không biết tu hành, giống
như cục đá bị mài dao. Đá càng ngày càng mòn và cho đến lúc hết xài được. Dao
càng mài thì càng bén, có thể xắc gọt phục vụ đáp ứng nhu cầu đời sống cho con
người. Nêú ai biết làm việc phước, thì phước càng tăng trưởng cho nên thong
dong tự do đi trên cầu ngắm cảnh xem hoa vui thích đó đây. Thật ra không có gì
thiêng liêng và cao quý bằng tình cha mẹ, khi chưa mở mắt chào đời đứa con được
nằm trong lòng người mẹ, hưởng trọn vẹn phút giây êm ả ấm áp tình người. Rồi
đến khi ra khỏi cung điện được mẹ mớm cho dòng sữa ngọt ngào, cho đến khi khôn
lớn trưởng thành, mọi thứ mọi cái đều có cha mẹ lo, con trẻ khỏi phải nhọc nhằn
lao khổ. Cho nên Phật dạy ơn cha nghĩa mẹ khó đáp đền và chính ngài cũng thế,
sở dĩ ta tu hành thành Phật cũng nhờ công ơn cha mẹ, nếu không có mẹ sinh, cha
nuôi dưỡng thì làm sao có thân này để mà tu tập. Do đó hạnh hiếu là hạnh Phật,
con hiếu là con Phật và đạo Phật là đạo hiếu thảo nhất trên đời. Nuôi dạy con
cái đúng cách là trách nhiệm của bậc làm cha mẹ, muốn con mình sau này trưởng
thành làm việc có ích cho gia đình và xã hội. Nhìn từ góc độ gia đình cha mẹ là
vị thầy giáo dục đầu tiên cho con trẻ, nhỏ không dạy dỗ, lớn làm sao chỉ bảo.
Cây còn nhỏ không uốn, lớn dễ gãy cành, cho nên bậc làm cha mẹ dạy cho con mình
có nhận thức sáng suốt, sống không ỷ lại mà phải tự lập vươn lên. Như con cái
lỡ vấp ngã một lần, ta có thể hổ trợ cho nó đứng dậy, nhưng đến những lần khác
ta phải chỉ cho chúng biết cách đứng dậy sau khi vấp ngã. Này các bạn trẻ, nếu
các em chỉ biết ỷ lại hay phó mặc số phận cho cuộc đời, thì coi chừng rơi vào
hố sâu của tội lỗi. Ai muốn hoàn thiện chính mình, ngay khi còn trong mái ấm
học đường hãy nên chuyên cần học hỏi, tự cố gắng sống không ỷ lại vào kẻ khác,
tự mình thắp đuốc lên mà đi. Ai làm được như thế từ trong nhận thức cho đến
hành động, thì tương lai các em sẽ là người tốt trong xã hội.
SỐNG ĐỂ YÊU THƯƠNG
Gia
đình lý tưởng là gia đình vợ chồng sống chung thủy, biết thương yêu cảm thông và
độ lượng, cha mẹ có trách nhiệm đối với con cái, con cái biết hiếu kính cha mẹ
và ông bà tổ tiên. Tình thương chân thật là yếu tố hạnh phúc, giúp cho mọi
người sống có trách nhiệm với nhau. Muốn được như vậy chúng ta phải gia công
học hỏi nghiên cứu tìm tòi và chọn cho mình một nghề nghiệp chính đáng. Từ
người đứng đầu một đất nước cho đến thứ dân bần cùng đều có một việc làm khác
nhau, để hổ trợ cho nhau trong cuộc sống tương quan này. Trong xã hội nghề
nghiệp và địa vị có thể khác nhau, nhưng người khéo biết sống sẽ chọn cho mình
một nghề nghiệp chân chánh hay còn gọi là chánh mạng. Dù ở địa vị hay hoàn cảnh
nào nếu chúng ta làm việc bất chánh, đều đem đến phiền muộn khổ đau cho nhiều
người. Ngược lại nếu chúng ta sống hiền lương đạo đức, không gian tham dối trá,
sống thành thật với người thì ta sẽ có đời sống an vui hạnh phúc.
Có
một gia đình kia, mẹ là chủ một cửa hàng tạp hóa nhỏ, đứa con trai những khi
rãnh rỗi thường ra cửa hàng chơi hoặc phụ giúp mẹ công việc lặt vặt. Ngày nào
cũng vậy, cửa hàng có những hóa đơn thu tiền trả tiền thanh toán tại chỗ hoặc
gởi qua đường bưu điện. Cậu con trai thường được mẹ giao hóa đơn đến bưu điện
để gởi đi. Công việc làm mỗi ngày đối với cậu, đã trở thành quen thuộc. Một hôm
cậu ta tự suy nghĩ, mình bây giờ là một nhà kinh doanh nhỏ có thể làm ra tiền
rồi đó. Nghĩ là làm, cậu ta bắt đầu viết những hóa đơn để tính tiền với mẹ
mình.
Con phụ mẹ quét dọn hằng ngày một đồng.
Con chuyển hóa đơn dùm mẹ hai đồng.
Con tưới vườn hoa dùm mẹ hai đồng.
Con phụ mẹ dọn dẹp linh tinh một đồng.
Tổng cộng mẹ phải trả cho con là sáu đồng.
Chiều hôm đó sau khi nhận hóa đơn của con, người mẹ âm thầm nhét sáu
đồng và kèm theo hóa đơn, để trong tủ học của con mình. Tối hôm đó cậu ta thấy
sáu đồng tiền công mẹ trả và trong lòng khởi lên niềm vui vô hạn, nhưng phía
dưới đồng tiền có kèm theo một hóa đơn ghi, con trai yêu quý của mẹ cần thanh
toán một số tiền như sau:
Mẹ nuôi
con mười hai năm trong ngôi nhà hạnh phúc là o đồng.
Chi phí ăn uống và học hành trong mười hai năm là o đồng.
Tiền mẹ chăm sóc cho con mỗi khi ốm đau bệnh hoạn là o đồng.
Từ
khi con có mặt trong cuộc đời, con có được người mẹ hết lòng thương yêu là o
đồng.
Tất cả các chi phí mẹ dành cho con trong mười hai năm tổng cộng là o
đồng.
Sau
khi cầm tờ hóa đơn của mẹ, cậu con trai cứ đọc đi đọc lại nhiều lần mà những
giọt lệ cứ lăn tròn trên hai má. Cậu ta cảm thấy hối hận và ăn năn vô cùng, vì
tình thương của mẹ dành cho mình không gì có thể so sánh được. Lòng mẹ bao la
như biển thái bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Cậu
ta đến bên mẹ và hôn lên những nụ hôn nồng cháy, rồi nhẹ nhàng bỏ vào túi mẹ
sáu đồng tiền công. Còn tờ hóa đơn của mẹ, cậu giữ lại để làm kỷ niệm. Này các
em, các người trẻ tôi đã kể cho các em nghe một câu chuyện tình mẹ con đẹp như
trong mơ, nhưng mà có thực. Nếu các em biết trân trọng và quý kính cha mẹ, thì
ngay khi các em còn học trong mái ấm của nhà trường, các em phải cố gắng siêng
năng tinh cần học cho tốt. Các em học tốt để làm gì? Để có hiểu biết và yêu
thương trên tinh thần từ bi và trí tuệ. Ơn cha mẹ mang nặng đẻ đau sinh thành
dưỡng dục, không quản ngại gian nan cực khổ để nuôi con khôn lớn từng ngày. Mẹ
nuôi con như biển hồ lai láng, mà nào có tính kể vì đâu chỉ mong con trưởng
thành theo năm tháng để sau này giúp ích cho gia đình và xã hội. Cậu bé kia
chưa hiểu hết công ơn sâu dày của cha mẹ, mới phụ mẹ có chút đỉnh mà tính tiền
công đủ thứ. Vậy, ai nuôi em đến ngần tuổi ấy mà em khỏi phải lo lắng chút nào,
tất cả các thứ đều có cha mẹ lo hết rồi. Lúc em còn trong bụng mẹ, em đã từng
làm vua suốt 280 ngày, vua này sướng thiệt khỏi phải làm gì, mọi cái đã có mẹ
lo. Đến khi em mở mắt chào đời cũng được mẹ mớm cho dòng sữa ngọt, được nâng
niu chiều chuộng đủ thứ để cho em mau biết lật biết bò, rồi em biết cất tiếng
kêu ba mẹ chập chững từng bước đi. Lúc này thì mẹ lo nhiều hơn, sợ em té em
ngã, rồi một nắng hai sương em lớn lên đi trường học, mẹ đi trường đời để em có
đủ cái ăn cái mặc, vậy mà mẹ em có kể công than vãn gì đâu. Em không thấy hóa
đơn của mẹ đó sao? Không có gì để tính, chỉ có tấm lòng và tình thương của mẹ
đã dành hết cho em. Em thật hạnh phúc được sống bên vòng tay âu yếm của mẹ,
trong khi đó còn rất nhiều em sống không có cha mẹ đang bơ vơ vất vưỡng đầu
đường xó chợ để kiếm từng miếng ăn qua sự bố thí của mọi người. Em hãy nên trân
quý và giữ gìn những gì mình đã có, để làm sao có cơ hội san sẽ bớt cho những
mãnh đời bất hạnh khác. Tôi và em cùng phát tâm làm nha!
NHỮNG MÃNH ĐỜI ĐÁNG THƯƠNG
Dòng
đời nghiệt ngã luôn cuốn trôi tất cả những gì thân thương nhất của một số người
bất hạnh, không phải ai cũng có diễm phúc may mắn được cha mẹ thương yêu bảo bọc lo lắng.
Ta vẫn
thấy, con người bao thế hệ.
Giống như tằm, là kiếp để nhã tơ.
Dẫu cuộc đời, vẫn đẹp như trong mơ.
Nhưng còn đó, những mãnh đời bất hạnh.
Em được sinh, để sống một kiếp người.
Mà sao đời, không cho em sáng suốt.
Tại sao em, mãi lang thang lạc loài.
Tuổi thơ em, không một chút tình thương.
Em không được, đến trường cùng bè bạn.
Để được sống, làm người có hiểu biết.
Em tội gì, để mất đi tuổi thơ.
Tôi và em, cùng kết nối yêu thương.
Chân thành thay! Chân thành thay!
Chúng tôi có phúc duyên với người bất hạnh, nên tháng nào cũng có những
chuyến từ thiện, hoằng pháp kết hợp hài hòa về phương diện vật chất và tinh
thần. Việc làm của chúng tôi mong muốn mọi người có đủ niềm tin trong cuộc
sống, có hiểu biết chân chánh, có tình yêu thương nhân loại, có tin sâu nhân
quả và tin có luân hồi tái sinh. Chết không phải là hết, nó chỉ thay hình đổi
dạng tùy theo nghiệp nhân gieo tạo trong hiện tại mà cho ra kết quả tốt hay
xấu. Đó là việc làm chủ yếu của chúng tôi, cầu mong mọi người được sống bình an
và hạnh phúc. Một buổi chiều ngày hôm đó tôi đạp xe tập thể dục hằng ngày, tôi
đang hòa mình vào dòng đời vô tận, lúc này đường phố xe cộ qua lại tấp nập, bầu
trời mây đen bắt đầu lan rộng nên mọi người ai cũng vội vàng hối hả trở về nhà
để tránh cơn mưa sắp đến. Từ phía trước xa xa, trước mắt tôi một bé gái trạc
chừng mười tuổi đang quảy trên vai một cái bao, quần áo lắm lem, đầu không đội
nón, chân không giày dép. Em vừa đi, vừa khóc mếu máu, khuôn mặt bơ phờ, trông
rất thảm thương thật là tội nghiệp. Tôi không cầm lòng được nên bước xuống xe,
hỏi con vì sao mà khóc, có chuyện gì đáng tiếc xảy ra cho con, thầy có thể giúp
được gì cho con không? Đứa bé, ngước mắt nhìn tôi trong nghẹn ngào xúc động,
nấc lên từng tiếng, rồi òa khóc lớn. Con có chuyện gì cứ nói cho thầy nghe đi,
đứa bé lấy dạt áo lau nước mắt rồi nói: “ dạ thưa thầy, từ tờ mờ sáng đến giờ
con lụm ve chai bán được hai chục ngàn, con bỏ tiền vào túi không ngờ túi bị
rách, tiền rớt mất hồi nào con không hay.” Bây giờ con không dám về nhà nữa
thầy ơi, vì không có tiền đem về con sẽ bị ba đánh thầy ơi, hu hu! Vậy thì ba
con làm gì mỗi ngày? Dạ thưa thầy, ba con chẳng làm gì suốt cả ngày cứ cà rê dê
ngỗng nhậu nhẹt, hể bữa nào ba say quá thì lôi con ra đánh và còn mắng nhiếc đủ
điều. Tôi động lòng trắc ẩn, xém chút lệ rơi, nghe đứa bé nói mà lòng đau nhoi
nhói, tôi thấy đứa bé càng đáng thương hơn, tuổi trẻ các em, có tội tình gì mà
phải chịu bất hạnh đến thế ư. Vậy còn mẹ con đâu? Nghe tôi hỏi thế đứa bé càng
khóc lớn hơn nữa, dạ, dạ thưa thầy mẹ con bị ba đánh hoài nên chịu không nỗi,
đã bỏ nhà ra đi không một lời từ giã. Vậy con có được đi học không? Nhà con
nghèo lắm thầy ơi, ba không có tiền uống rượu làm gì có tiền cho con đi học.
Nói đến đây tôi đã biết được hoàn cảnh của đứa bé, quả thật đáng thương làm
sao. Em tội gì mà đời đã cướp mất đi tuổi thơ, để em mãi lang thang lạc loài
trong vô vọng. Để em không được cắp sách đến trường cùng bè bạn, để em mất đi
sự hiểu biết và yêu thương. Tôi nhìn đứa bé với lứa tuổi còn ngây thơ và hồn
nhiên, ấy thế mà đã phải chịu lắm gian truân trong cuộc đời. Và tôi càng thương
tâm hơn, khi đất nước ta còn quá nhiều các em như thế, có khi còn bất hạnh
nhiều hơn đứa bé trên. Tôi cảm thương đứa bé gái quá chừng, nên móc trong túi
ra cho em một trăm ngàn. Con hãy cầm số tiền này chia ra làm năm phần, một phần
đưa cho ba số tiền còn lại con cất đó để phòng thân những ngày thiếu tiền mà có
chỗ bù vào. Thầy cho con số điện thoại, khi nào có gì cần con nhắn tin. Đứa bé
không thể tin vào mắt mình, em không ngờ khi gặp vận xui thì có quới nhơn giúp
dùm. Nét mặt em bây giờ lộ rõ sự vui mừng, rồi em khoanh tay lại con xin cám ơn
thầy, rồi em ung dung thẳng tiến để mau về nhà. Tôi đứng nhìn theo em, mà trong
lòng sau cứ vấn vương mãi. Tôi thầm nguyện cầu hồng ân Tam bảo luôn gia hộ cho
các em, lúc nào sống cũng có cha mẹ đầy đủ, để giúp các em có điều kiện đến
trường như bao trẻ em khác. Tôi tiếp tục ngồi trên xe đạp tiến về phía trước,
một ngôi nhà lầu khang trang tráng lệ đang mở nhạc sập sình với những âm thanh
hết sức quyến rũ làm sao. Lần này thì tôi nhìn thấy một cảnh tượng khác, một
người phụ nữ tay bưng chén cơm đang cho con ăn, nhưng đứa bé cứ nũng nịu chẳng
thèm ăn. Người phụ nữ ấy cứ năn nĩ và dỗ dành mãi mà đứa con vẫn cứ trơ trơ ra.
Nó còn bĩu môi nói, hôm nay con muốn ăn phở bắc Hà Nội à. Hiện nay thế giới
nhân loại đã trên dưới bảy tỷ người, mỗi một ngày có gần bốn chục ngàn người
chết đói. Cuộc sống hiện nay có rất nhiều trẻ em đang thiếu thốn thèm khát vật
chất lẫn tinh thần, đang đói tình thương nhân loại, cần sự bảo bọc của quý ban
chính quyền các cấp, các nhà mạnh thường quân, cùng với tấm lòng nhân ái của
tất cả mọi người. Chúng ta hãy vì tương lai của các em, hiện nay nạn tham
nhũng, lãng phí xa hoa số tiền lên đến hàng tỷ tỷ trong khi đó các em vẫn đói
tình thương nhân loại. Các em rất khao khát được yêu thương và chia sẻ, vì cuộc
sống của các em còn quá nhiều thiếu thốn khó khăn. Tôi bây giờ thương các em
nhiều lắm, nhưng lực bất tòng tâm tôi chỉ có tấm lòng nhân ái và lúc nào cũng
thầm nguyện cầu cho các em, được sống đời an vui hạnh phúc trong sự đùm bọc yêu
thương giúp đỡ của mọi người.
MỘT VIỆC LÀM CÓ ÍCH
Nhân dịp mùa hè, có một gia đình gồm hai vợ chồng và hai đứa con nhỏ
cùng đi nghỉ mát ở biển Vũng tàu. Bọn trẻ được dịp thích thú vui đùa trên biển
cát. Từ phía xa xa, có một cụ già tay cầm chiếc bị cũ, dáng người nhỏ nhắn tóc
bà bạc trắng đang đi thẳng ra chỗ các trẻ nít vui đùa. Bà cụ mặt mày trông hốc
hác, vừa đi vừa nhìn dáo dác như tìm kiếm vật gì, thỉnh thoảng bà cuối xuống
nhặt cái gì đó bỏ vào túi. Cha mẹ hai bé sợ bà làm ảnh hưởng xấu đến con mình,
nên cố ý gọi lớn tiếng kêu con hãy tránh xa chỗ bà già đi. Bà ta không biết có
nghe thấy gì không, cứ lặng lẽ nhìn những đứa trẻ một cách say mê. Miệng bà
cười tươi nhìn trẻ nít vui đùa trông thật dễ thương làm sao, nhưng chẳng ai
đoái hoài đến bà họ làm ngơ nhìn về phía khác. Bà già cứ thế lặng lẽ, vừa đi
vừa nhặt cái gì đó trên bãi biển một cách âm thầm. Hai vợ chồng cùng các con
vào quán uống nước, rồi mới hỏi thăm bà già kia làm gì ở đâu? Chủ quán mới kể
rằng, xưa cháu bà thường ra biển chơi vô tình đạp đinh sét sau bị bệnh uốn ván
chết. Kể từ đó, ngày nào bà cũng có mặt nơi bãi biển một vài lần để nhặt những
thứ rác rưỡi chết người đó và thầm cầu nguyện cho các trẻ đến đây vui chơi
thoải mái, mà không bị cái gì làm trở ngại cho các cháu. Việc làm của bà già
tuy nhỏ nhưng chứa đựng cả một tấm lòng từ bi cao cả rộng lớn. Bà muốn mọi
người đến đây đều được vui vẻ thoải mái, để tận hưởng không khí trong lành của
biển đẹp quê hương. Hai vợ chồng nghe xong vội tìm bà để nói lời xin lỗi về sự
nghi ngờ của mình, nhưng bà đã đi xa để tiếp tục làm cái việc tầm thường đó. Ai
có được người mẹ như thế và có được người bà như vậy, thật may mắn và diễm phúc
làm sao. Việc làm tuy đơn giản nhưng thấm đậm tình người. Trong xã hội mỗi
người đều có công ăn việc làm và chức nghiệp khác nhau, nếu ai cũng rộng lượng
mở lòng một chút thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc, bởi vì ai
cũng sống có yêu thương và hiểu biết, làm gì có sự nghi ngờ và nghĩ xấu cho
nhau.
BÁM VÍU ĐỂ LO TOAN
Đã làm người ai không có tình cảm và những mối
quan hệ liên quan mật thiết với nhau, tình người, tình nhân loại, tình chúng
sinh, tình cha mẹ, tình họ hàng thân thuộc, tình anh chị em chung huyết thống,
tình bè bạn, tình đồng nghiệp, tình làng nghĩa xóm và cái tình đầu ấp tay gối
vợ chồng.v.v..
Có
một loại tình cảm mà thế giới con người luôn đưa lên hàng đầu và được đề cập
nhiều nhất qua các tác phẩm văn hóa nhân loại đó là tình yêu nam nữ. Tình cảm con
người được biểu hiện qua các cảm xúc thân thương và ghét bỏ, do mối quan hệ ta
và của ta hay người. Từ tình cảm đó phát sinh, luyến ái yêu thích chấp giữ bảo
vệ, thành ra có thương yêu vị kỷ muốn riêng cho mình. Ngược lại thì sinh ra oán
ghét hận thù tìm cách làm tổn hại cho nhau. Tình yêu nam nữ thường được người
đời tôn vinh và ca ngợi, bao nhiêu học thuyết, bao nhiêu chủ thuyết, bao nhiêu
tôn giáo cũng đều ca ngợi không có gì đẹp bằng tình yêu chân thật, vì tình này
vượt qua tình yêu vị kỷ của nam nữ, trong tình yêu chân thật không có buồn
thương giận ghét, bất an lo lắng và sợ hãi, vì đã vượt qua hai niệm thương và
ghét.
Ngày
xưa có đôi nam nữ trai tài gái sắc, họ thương yêu nhau rất là mặn nồng và tha
thiết. Cặp trai tài gái sắc này khó ai bì kịp, họ sống với nhau rất ư là hạnh
phúc. Do quá xứng đôi vừa lứa nên suốt ngày họ chỉ quay mặt lại nhau, say mê
đắm đuối ngắm nhìn nhau mà không biết nhàm chán. Tưởng hạnh phúc như thế được
dài lâu, nào ngờ tai họa bắt đầu giáng đến cặp vợ chồng trẻ này. Không biết bị
bệnh gì mắt hai người từ từ mờ dần và cuối cùng dẫn đến mù lòa. Lúc này chàng
không nhìn thấy được nàng nữa, nàng cũng lại như thế, việc này khiến hai vợ
chồng đau thương buồn tủi và hết sức là lo lắng. Vì sợ mất nhau nên người chồng
tối ngày cứ suy nghĩ, vợ ta dung nhan xinh đẹp kiều diểm đúng là một trang
tuyệt sắc giai nhân, trên đời này khó có ai đẹp bằng nàng. Ta bây giờ bị mù lòa
không nhìn ngắm nàng được, nếu để cho người khác nhìn thấy ta sẽ mắt nàng trông
chớp mắt. Chồng thì nghĩ vậy, nhưng vợ cũng nghĩ như chồng. Chồng ta đẹp trai
khôi ngô tuấn tú, mặc dù mắt bị mù nhưng hàng khối người phụ nữ khác, sẽ bị
chết mê chết mệt cho mà coi khi nhìn thấy chàng. Cho nên ta dù có đui mù, cũng
phải canh chừng kẽo các nàng ấy sớt tay trên. Chàng và nàng vì sợ mất nhau, nên
lúc nào cũng nắm tay nhau, đi cùng đi, ngồi cùng ngồi, nằm cùng nằm, thậm chí
cho đến khi giải quyết việc riêng của mình, hai người vẫn không rời xa nhau. Cứ
như thế, trải qua thời gian trên hai mươi năm, họ luôn sống gắn bó với nhau
không rời nửa bước.
Con
người ta xưa nay thường lầm chấp rằng, cái gì cũng cố định cả không thể đổi
thay cho nên chúng ta cứ cố chấp bám víu vào đó để rồi nhìn đời bằng cặp kính
màu đen. Chúng ta hy vọng nắm bắt uốn nắn nó theo ý mình, nhưng mà có được đâu.
Thương thì sinh luyến ái muốn bảo vệ chấp thủ cho riêng mình, ai chạm đến thì
phát sinh phiền não vì sợ bị mất mát và chiếm đoạt. Thương yêu vốn là bản năng
có sẵn nơi mỗi con người. Thế giới con người chúng ta mọi người đều sống cần có
tình cảm và sự yêu thương đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, nếu không như vậy thì cuộc
sống này trở nên vô nghĩa.
Trở
lại câu chuyện ngụ ngôn trên, chúng ta thấy, ai cũng muốn bám víu cái thân vô
thường sinh diệt này. Cứ muốn làm sao cho thân này trẻ mãi không già. Đã làm người,
làm sao không yêu thương được, không nhớ không thương cuộc sống có ý nghĩa gì?
Nên người ta thường nói:
“Yêu là khổ, không yêu thì
lỗ.
Thà chịu khổ chứ không chịu
lỗ.”
Nhưng hầu như ai cũng chấp nhận khổ để được
yêu. Sống mà không có yêu thương, thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Cho nên ta cứ
yêu đi và khi yêu nhau trái tim ta màu xanh. Nếu ta sợ khổ mà không kết tình
yêu thương, thì thế gian này cuộc sống đâu còn giá trị gì nữa, phải không các
bạn. Ta cứ yêu và ta đã yêu, yêu nhau thật nhiều, nhờ thế ta sẽ thấy cuộc sống
này trở nên có ý nghĩa và nhiệm mầu biết bao. Tình yêu thương chân thật là
phương thuốc tâm linh mầu nhiệm hay chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, thành an
lạc hạnh phúc.
Tình
cảm con người được biểu hiện qua các tâm lý cảm xúc hạnh phúc và khổ đau bởi
thương yêu và ghét bỏ, vui vẻ và phiền muộn, lo lắng và sợ hãi, ganh tị và tật
đố, nguyên nhân do sự tham muốn quá đáng nên dẫn đến chấp ngã, gây khổ đau cho
nhau. Thật tế chúng ta sống trên đời này là để được yêu thương và chia sẻ, để
được mở rộng tấm lòng nhân ái với tất cả mọi người. Nhưng vì bị vô minh che lắp
nên tham sân si phiền não nỗi lên, làm che mờ tính giác thanh tịnh sáng suốt do
đó khổ đau bắt đầu có mặt. Để được thương yêu trong cuộc sống, chúng ta cần
phải biết chia vui sớt khổ, cảm thông và tha thứ, luôn thương yêu giúp đỡ mọi người
mà không phân biệt người thân kẻ lạ. Đó mới là tình người trong cuộc sống.
Cuộc sống của chúng ta sở dĩ có nhiều khổ đau
là do chúng ta không biết buông xả, cảm thông và tha thứ. Ta muốn người yêu
phải theo sự sắp xếp của mình, khác hơn thì ta sinh khổ đau phiền muộn, được
thì dính mắc vào đó để ôm trọn cuộc tình trong mơ, mà ta thường hay nghĩ tưởng
đẹp như trong mơ là vậy đó, nhưng sự thực có đẹp mãi hay không? Như hai người mù
kia khi được một vị thần y chữa cho sáng mắt, khiến họ thấy lại như xưa. Nhưng
họ đau khổ tột cùng khi phát giác ra người mình yêu, không còn đẹp như trong mơ
nữa. Mặc dù hơn hai mươi năm qua họ không bao giờ rời xa nữa bước, họ cứ bám
víu vào sự xinh đẹp trẻ trung của nhau nghĩ rằng nó sẽ mãi mãi là như thế, nên
khi sáng mắt người chồng quá ngỡ ngàng lên tiếng trước tiên, ối cái mụ già nào
đây, vợ ta xưa nay rất xinh đẹp và dễ thương lắm mà. Ngược lại, bà vợ cũng giẫy
nẫy nói rằng: “Cái lão già mắc dịch, ông đâu phải là chồng của ta. Chồng ta xưa
nay đẹp trai, hào hoa phong nhã ai thấy cũng muốn yêu chứ đâu có già khú đế như
lão bây giờ. Thế là hai người cự cãi với nhau, không ai đồng ý sự thay đổi quá
nhanh chóng như vậy và họ không chấp nhận sự già nua của nhau đang phơi bày
trước mắt mình. Do đó họ chấp nhận chia tay, đễ mỗi người ôm vào kỷ niệm quá
khứ thần tiên của cái đẹp thời trẻ trung.
Khi xưa có một chàng trai vì muốn tìm cầu chân
lý, nên đã thắc mắc với cha rằng nếu người giải đáp được yêu cầu của con, thì
cha bảo con làm cái gì con cũng làm hết, không bao giờ dám cãi lại. Cha làm sao
cho con trẻ mãi không già đi. Tâm lý con người ai cũng muốn mình trẻ đẹp mãi để
được nhiều người yêu thương, nhưng thực tế rất phũ phàng ai rồi cũng già bệnh
chết, cho nên ngày xưa người ta hay luyện thuốc trường sinh bất tử để sống đời,
vậy mà có ai sống đời được đâu. Người cha nghe con hỏi vậy đành lắc đầu chịu
thua, không biết phải trả lời bằng cách nào cho con hiểu đây. Con người thì
sinh già bệnh chết, còn các pháp thì sinh trụ dị diệt và thiên nhiên thì thành
trụ hoại không. Từ con người cho đến muôn loài muôn vật đều chịu sự chi phối
đổi thay của vô thường. Cho nên người phụ nữ thường hay trang điểm sửa sắc đẹp
làm duyên làm dáng để cho mình được trẻ đẹp mãi, nhưng có ai trẻ mãi không già
đâu, nếu ai cứ bám víu vào nó thì các khổ từ đó phát sinh.
Có
hai vợ chồng già không có con, nên mỗi ngày phải làm việc vất vả nhọc nhằn, một
hôm sau khi cuốc gần xong miếng đất để chuẩn bị gieo trồng hoa màu, nhưng tuổi
già sức yếu làm ông mệt mỏi chán chường, nên ông đứng nhìn trời đất mà than thở
rằng: Ước gì mình khỏe mạnh như thời trai tráng thì hay biết bao. Một vị thần
nghe cụ than thở, động lòng thương xót hiện ra chỉ cho cụ cách thức để đạt
nguyện ước của mình. Ông đi về hướng tây cách đây ba dặm, có một dòng suối thần
tiên. Ngày mai ông xuống đó tắm sẽ được trẻ mãi không già, y như ước mơ của
mình. Cụ già trong lòng mừng thầm vì từ nay về sau mình sẽ trẻ trung, mạnh khỏe
làm gì cũng thoải mái không sợ mệt nhọc nữa rồi. Trời vừa tờ mờ sáng ông vội
vàng đi đến dòng suối kỳ diệu đó, để thực hiện điều nguyện ước. Vừa ngâm mình
dưới dòng suối, một sự thật không thể ngờ ông cảm thấy sự linh nghiệm của nó
như vị thần đã nói. Dòng nướt mát đã làm cho cụ trẻ dần trở lại từ 80 mươi
xuống đến 70 rồi 60 mươi và cho đến khi trở thành chàng thanh niên khôi ngô
tuấn tú 24 tuổi. Bây giờ hình bóng cụ già không còn nữa, mà hiện tại là một
chàng thanh niên trẻ trung mạnh khỏe. Nhìn lại thân thể của mình, chàng trai ra
vẻ hảnh diện tự hào, kể từ nay về sao mình đủ sức, dầm mưa dãi nắng, mà không
sợ mệt mỏi của tuổi già nữa.
Chàng trai trẻ trở về nhà, để chỉ dẫn cho bà vợ già biết cách làm trẻ
lại như mình mới được. Đến lượt bà cụ chống gậy ra đi, dòng suối đó vẫn còn
nhiệm mầu, từ số 70 lần lượt giảm dần cho đến khi còn 24, đáng lẽ lúc này bà
phải bước lên bờ ngay. Nhưng lòng tham không cho phép bà dừng lại ở đó, bà tự
nhũ thầm phụ nữ bao giờ cũng mau già hơn đàn ông…đây là dịp may hiếm có ta phải
tranh thủ tắm thêm một chút nữa có sao đâu?
Chàng trai trẻ đợi mãi không thấy vợ về nên nóng ruột đi tìm và khi đến
bên bờ suối nhìn dáo dác không thấy bóng dáng một người phụ nữ nào, chỉ thấy
một bé gái trạc chừng ba tuổi đang đứng đó. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, mà
không cần tìm hiểu nguyên nhân nên lúc nào cũng sống trong mơ mộng ảo huyền,
tiếc nuối về quá khứ. Đến khi tuổi già sức yếu mà không biết tu thì đau khổ vô
cùng, già thì mắt mờ tai điếc đi đứng khó khăn, lưng còng gối mỏi nếu không có
con cháu nuôi dưỡng thì phải vất vả trăm bề.
Câu
chuyện trên đã cho ta một bài học thiết thực trong cuộc đời, ta cứ mộng mơ trẻ
mãi không già là đều không thể có được. Phật dạy, vạn sự vạn vật trên thế gian
này đều biến đổi theo thời gian, con người thì sinh già bệnh chết, mà ta muốn
trẻ mãi không già nên sinh lo sợ buồn khổ.
BẤT MÃN NHƯNG PHẢI TÙY DUYÊN
Xưa
và nay, xã hội là một trường đời hỗn hợp luôn dung chứa những gi có được trong
cuộc sống, cái ác lúc nào cũng nhiều hơn cái thiện nên dẫn đến nhiều bất công
vô lý. Người tin theo thần quyền thì oán trách đấng tối cao sao quá thiên vị
với một thiểu số con người, người tin theo truyền thống cõi này là tạm bợ có
cõi khác là vĩnh hằng nên trước khi chết phải giết hết người thân và chôn theo
tài sản để hưởng phúc lạc ở cõi đó. Người tà kiến không tin nhân quả công bằng
nên mặc tình gây tạo tội lỗi, để rồi khi mất thân người phải đọa vào ác thú.
Người chấp có linh hồn bất tử, nên khi có địa vị quyền thế mặc tình bóc lột kẻ
dưới để phục vụ cho riêng mình. Những kiến chấp như thế, cho đến kẻ mạnh hiếp
kẻ yếu, lớn hiếp nhỏ chỉ vì mục đích phục vụ cho cái tôi này. Nên xưa nay,
người sống vì lợi ích chung rất là hiếm, nhưng không phải là không có. Một
người lãnh đạo đất nước, nếu biết dùng tài năng đúng chỗ sắp xếp mọi việc hợp
lý theo khả năng của từng ban ngành đoàn thể, thì mọi người sẽ sống an vui hạnh
phúc. Cuộc sống này mỗi người có vị trí và chức năng khác nhau, luôn nương vào
nhau, để bảo tồn cho nhau nên chúng ta phải có bổn phận và trách nhiệm bảo vệ
lẫn nhau.
Trong cuộc sống của chúng ta biết bao sự thăng trầm được mất, nên hư,
thành bại, người ý thức được nguyên lý tương duyên quả là điều hiếm có, cho nên
biết bao người phải chết trong cuồng si mê muội vì không thấu rõ sự thật cuộc
đời. Trong lịch sử nhân loại của Trung Quốc có một vị tướng tài ba lỗi lạc tên
là Khuất Nguyên, ngài có nhiều dự án tiến bộ để cải cách nền văn hóa giáo dục,
pháp luật và các vấn đề chính trị. Với tâm huyết muốn làm cho nước nhà được mở
mang và phát triển một cách tốt đẹp, nhưng không được nhà vua chấp nhận, bởi
một số người dua dối nịnh bợ ngăn cản. Khuất Nguyên vì nghĩ rằng việc làm của
mình là chân chánh, nhưng không được chấp nhận nên đâm ra phiền muộn khổ đau,
dẫn đến bực tức bất mãn với cả triều đình, cuối cùng chịu không nổi từ bỏ quan
quyền không làm việc. Cuộc sống xã hội luôn tồn tại và phát triển theo lý nhân
duyên, nhân quả. Con người không thể muốn mọi vấn đề, sự việc diễn ra theo sự
sắp xếp của mình. Ai suy nghĩ rằng mình là người tốt và có thể thay đổi được
mọi sự việc theo sự hiểu biết của mình đó là một điều lầm lẫn rất lớn. Khuất
Nguyên vì suy nhĩ rằng những kế sách của mình là đúng, là tốt có thể giúp ích
cho nhiều người. Nhưng tại sao nhà vua không chấp nhận, trái ý nghịch lòng và
thường xuyên xảy ra những điều bất như ý là chuyện thường xảy ra trong đời sống
con người, ai khéo biết thì cuộc sống có phần an nhàn tự tại. Khuất Nguyên là
một kẻ sĩ, nhưng không biết kiên nhẫn chờ đợi thời cơ lại chấp trước quá nặng
nề, nên không làm chủ bản thân dẫn đến ngông cuồng thất tha thất thiểu trong sự
uất ức tột cùng. Ông ta rày đây mai đó như kẻ mất hồn trong trạng thái buồn
chán khổ đau. Trong lúc vật vờ nữa tỉnh nữa say, ông ta gặp một lão chăn bò
cũng là một triết gia ẩn dật lâu năm. Lão chăn bò hỏi ông có phải là Ngài Tam
phu đại nhân không? Ông ta gật đầu. Vì cớ sao ngài tiều tụy thế này, vóc dáng y
như người bệnh cau có bất mãn một điều gì đó. Phải,
“Đời đục cả, chỉ một
mình ta trong,
Đời say cả, chỉ một
mình ta tỉnh”.
Đời say sao ông không say với người, đời đục
thì ông đục theo cớ gì phải tỉnh khi người ta say? Nói xong lão chăn bò bồi
thêm cho một bài triết lý về sự đời:
Sông Tương nước chảy trong veo
Thì ta lội xuống rửa lèo mũ ta
Sông Tương nước chảy đục ngầu
Thì ta lội xuống rửa chân của mình.
Cuộc
đời là vậy đó, nước đục thì ta rửa chân, nước trong thì nấu cơm giặt mũ. Sự vật
ở mức độ nào, thì ta tiếp ứng theo mức độ đó thì sẽ hài hòa vui vẻ. Hoàn cảnh
xã hội có nhiều người ý thức được trách nhiệm chung, thì ta sẵn sàng dấn thân
phục vụ để cùng nhau tiến bộ. Ngược lại, sự sống nếu không thuận buồm xuôi gió,
thì ta ẩn nhẫn chờ thời chớ một mình chống chọi dễ mang họa vào thân. Sau khi
khuyên nhủ lão già ngông nghênh xong, lão chăn bò bỏ đi nơi khác. Người có chí
lớn, khi được ai đó khuyên lơn liền thức tỉnh thay đổi cách sống. Nhưng Khuất
Nguyên vì không còn thấy ai là người tốt cả, nếu có sống cũng vô tích sự nên
ông ta đành trầm mình xuống sông mà chết.
Hoàn
cảnh môi trường, nơi ta đang sống thường đem đến cho chúng ta những điều không
được hài lòng như ý, nếu ta không can đảm nhìn vào sự thật và chấp nhận nó như
là một thực tại. Ta chấp nhận nó không phải để đầu hàng chịu thua, bởi vì cuộc
sống này chúng ta phải khéo tùy duyên, tùy thời để có điều kiện đóng góp lợi
ích thiết thực cho bản thân gia đình và xã hội. Cuộc sống thế gian này là một
chuỗi dài nhân duyên tốt và xấu, nếu ta không biết lạc quan nhìn đời với cặp
mắt sáng suốt, thì ta sẽ bị chôn vùi theo năm tháng. Nếu chúng ta biết nhận
thức đúng đắn, suy xét mọi việc tường tận sâu sắc và kiên nhẫn chờ đợi thì mọi
việc tốt đẹp sẽ đến với ta trong nay mai.
Những điều trái ý nghịch lòng bất như ý luôn xảy ra trong đời sống hằng
ngày của chúng ta, nó dễ làm cho con người buồn chán bất mãn, tuyệt vọng, nếu
ta không khéo tu để chuyển hóa chúng thì ta sẽ rơi vào vòng si mê điên dại. Bất
mãn là thái độ không hài lòng vừa ý trong hoàn cảnh hiện tại, do các tư tưởng
và hành động xấu ác chiếm nhiều hơn. Người không có chiều sâu về tu tập, hoặc
quá cố chấp cái thấy cái hiểu của mình muốn đưa ra ứng dụng, nhưng không được
mọi người chấp nhận nên dễ dẫn đến cuồng điên dại dột. Khuất nguyên vì quá vội
vã muốn đưa sáng kiến của mình để phục vụ nhân loại, nhưng không được vua chấp
nhận thay vì ẩn nhẫn chờ thời và cố gắng làm tròn trách nhiệm của mình. Ông ta
bất mãn không đúng chỗ cho nên thất vọng khổ đau đến cùng cực. Quá vội vã đưa
ta tới sai lầm nghiêm trọng, sai lầm thì không an ổn, thất vọng thì không còn
niềm tin để sống và khổ đau làm cho ta tiều tụy héo mòn, bệnh hoạn và kết cục
ta bị hủy diệt nhanh chóng. Thay gì chúng ta có tư duy sáng suốt, nên không vội
vã bất mãn mà cố gắng tìm cách thuyết phục bằng hành động thực tế. Buồn khổ
phiền muộn bực tức hay ghét ai trong vội vã, ta dễ bức xúc vì thấy ai cũng là
người xấu, nêm ôm hận thiên thu mà chịu chết một cách oan uổng và đáng tiếc.
Tại sao ta hay vội vã trong mọi công việc, đi cũng vội vã, ngồi cũng lăng xăng,
nằm cũng lật đật, ăn uống cũng vội vã cho qua mau để tranh thủ việc khác. Mạng
sống của chúng ta dài hay ngắn, an hay không an, tùy thuộc vào sự định tĩnh của
ta. Mỗi ngày ta có hai mươi bốn giờ, tám giờ cho ngũ nghỉ, tám giờ cho làm
việc, tám giờ còn lại cho ăn uống và hưởng thụ. Ta chỉ dành một giờ cho quán
chiếu chiêm nghiệm cuộc sống, hết lòng tận tụy trong mọi công việc thì ta sẽ
biết được cái gì nên làm và cái gì không nên. Nhờ có quán chiếu hằng ngày như
thế, tâm ta có định tĩnh, có tỉnh lặng sâu nên các dấy niệm bất mãn hận thù
không có cơ hội phát sinh, nên ta không bị áp lực của sân hận, do đó biết sống
tùy duyên, tùy thời, mà thân tâm ta không bệnh hoạn nên mạng sống lâu dài. Ngài
Khuất Nguyên vì không biết sống tùy duyên, tùy thời mà cố chấp quá mức nên thân
tâm bị bốc lữa sân hận, rồi đâm đầu xuống sông mà chết. Chết như vậy chẳng giúp
ích gì được cho ai, mà lại còn hại mình vì tâm niệm sân hận quá lớn, nên chắc
chắn kiếp tái sinh tới sẽ bị đọa vào địa ngục chịu nhiều đau khổ cùng cực vì
cái thấy sai lầm. Chúng ta có quyền bất mãn, nhưng không bi quan yếm thế mà cần
phải bền chí kiên trì làm một việc gì đó thật sự có lợi lạc cho nhiều người.
Thế gian là một trường đời ngang trái, thuận theo cũng chết, đi ngược lại cũng
chết, chỉ biết mới có thể tồn tại lâu dài. Do đó ta phải biết chuyển hóa tâm
niệm xấu bằng cách buông xả chúng, không nên để chúng âm ỉ sôi sục bên trong,
mà tạo ra nội kết chán chường thất vọng. Cuộc đời không hoàn toàn buồn chán khổ
đau như nhiều người thường lầm tưởng, chúng ta có thể nghe tiếng gió thổi,
thông reo, tiếng chim kêu ríu rít như một bản nhạc lòng hòa cùng niềm vui cho
nhân loại, không nên quy kết cuộc đời là hoàn toàn đau khổ, vô tình dẫn ta đến
chán nãn phiền muộn khổ đau mà nguyền rũa cuộc đời, sao quá bất công. Cuộc đời
vẫn đẹp và trong sáng như những vì sao, chỉ có tâm ta vẫn đục làm lu mờ lý trí,
ai còn đang vướng mắc trong cái vòng lẫn quẩn ấy hãy nên sáng suốt vượt qua.
Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao. Dù đạn bom vẫn gầm thét trong trời
đất bao la này. Có hiểu biết chân chánh, có niềm tin vững chắc, ta vẫn vui với
dòng đời ngang trái mà không làm tổn hại cho ai.
NÓI XẤU NGƯỜI KHÁC
Con
người là một loài vật cao cấp hơn hẳn các loài khác nhờ biết suy nghĩ nói năng
rồi mới hành động, nói là một khả năng đặc biệt của con người, mọi việc vui
buồn sướng khổ đều phát xuất từ lời nói. Con người ta thương nhau, yêu nhau
cũng từ lời nói và ghét nhau hận thù nhau, cũng từ lời nói. Cho nên có câu:
“
Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”
Tôi
có khiếm khuyết là hay nói xấu người khác, hể không vừa lòng chuyện gì là nói
mạnh bạo chẳng biết nể sợ một ai, dù đó là người ơn. Chính vì vậy cuộc đời của
tôi cũng trải qua nhiều biến cố thăng trầm, ba chìm bảy nổi chín cái lên đênh.
Ai cũng sĩ diện bản ngã của mình, nên nói lỗi người khác dễ dẫn đến bất hòa,
chia rẽ. Nhưng không nói thì trở thành tín đồ cuồng si, chỉ biết vâng theo mệnh
lệnh của người có quyền lực. Như thế vô tình đưa đẩy các xếp của mình trở thành
những con người phong kiến cấp tiến, ngày xưa các thể chế phong kiến vua là con
trời, mà trời là đấng tối cao có quyền ban phước giáng họa, bề trên là tôn quý,
bề dưới là phục tùng. Ngày nay, các tập tục đó đã từ từ được thay thế cho chế
độ chuyên chính dân chủ, chính con người làm chủ vận mệnh và cùng nhau kết hợp
với nhiều người. Chế độ quân chủ phong kiến trên nền tảng cá nhân quyết định
mọi quyền lực, bằng sự độc đoán độc tài khi con người còn mờ mịt trong hiểu
biết. Người sau này khôn ngoan hơn cũng chính sách phong kiến độc tôn triển
khai thành phong kiến cấp tiến để củng cố duy trì địa vị của mình và được xây
dựng trên nền tảng bản ngã nhiều người có quyền lực. Nói lỗi lầm của người khác
trên tinh thần góp ý xây dựng để cùng nhau dấn thân và phục vụ đời sống xã hội
ngày càng tốt đẹp. Nói lỗi lầm ai đó để triệt buộc hoặc hạ bệ người khác nhằm
trả thù cá nhân. Thông thường thì chúng ta hay ngồi lại với nhau để nói lỗi lầm
của người khác, vì chúng ta nghĩ rằng mình là người tốt, còn người kia là người
xấu. Có khi chúng ta nói xấu người khác vì ganh ghét họ, thấy họ hơn mình về
địa vị và quyền lực. Khi chúng ta không làm chủ bản thân, trong cơn tức giận ta
có thể nói xấu người khác. Đôi khi chúng ta nói xấu người khác để lôi kéo mọi
người về phe của mình. Nói xấu người khác sẽ dẫn đến tai hại như thế nào? Chính
khi đang nói, mình cảm thấy bực bội tức tối và dường như chúng ta cũng bất an
khi phanh phui lỗi của người. Khi chúng ta thấy lỗi lầm của người khác, là
chúng ta có thể bỏ mất cơ hội hiểu biết và thương yêu hơn. Một lời nói tốt đẹp
có thể đem lại hòa bình cho nhân loại, một lời nói thách thức có thể gây ra
chiến tranh. Nói xấu kẻ khác có được lợi ích gì? Thường thì không được lợi ích
gì cả, mà ta phải mang khẩu nghiệp, khi nói xấu người thì bị người nói xấu lại,
có khi dẫn đến gây gổ xích mích hiềm thù nhau. Cho nên chúng ta nguyện không
nói lỗi lầm của người khác, để khẩu nghiệp của ta được thanh tịnh, do đó ta có
thời gian quán chiếu soi sáng sự vật một cách tốt đẹp. Khi chúng ta tức giận
ai, chúng ta dễ dàng nói xấu người đó, để thuyết phục mọi người đứng về phía
chúng ta. Có khi chúng ta nói xấu người vì ganh ghét, nói xấu người vì họ hơn
mình, nói xấu người để hả cơn giận. Vậy nói xấu người khác để được lợi ích gì?
Chắc chắn chúng ta sẽ mang lấy khổ đau, giống như người đốt đuốc đi ngược chiều
gió, người thì chưa nghe chưa biết nhưng ta đã bốc lữa sân si. Khi nói xấu
người khác chính bản thân ta đã phải chịu bất an, vì khi nói xấu ai đó tức có
sự nóng giận nên chúng ta cảm thấy rằng mình là kẻ khổ trước tiên. Để đối trị
bệnh nói xấu người khác, ta hãy nhìn thấy cái hay của họ. Nếu ta để ý điều tốt
của họ, thì ta sẽ không thấy lỗi lầm, vì ta thấy việc tốt nên sinh tâm hoan hỷ.
Có nhiều người chỉ thích nói sự thật chứ không thích nói để được lòng thiên hạ,
họ tôn trọng cái thực nên lúc nào cũng thẳng ruột nói đúng mục đích, do đó bị
nhiều người tỵ hiềm ganh ghét chờ thời cơ trả thù. Ai cũng biết rằng nói sự
thật là quý giá nhất trên đời, nhưng thuốc đắng dã tật, người thật mất lòng. Khó
có ai đủ can đảm nhìn nhận sự thật, vì sự thật lúc nào cũng phũ phàng. Nhất là
nói sự thật với những người có quyền thế, dễ bị mang họa vào thân vì người có
quyền sĩ diện bản ngã lớn hơn ông trời con. Nói sự thật là một điều tốt, nhưng
vẫn còn tùy thuận vào môi trường sống của chúng ta. Nếu chúng ta cứ một bề chấp
chặt vào sự thật, e có ngày ta sẽ gặp hiểm nguy vì kẻ tiểu nhân sẵn sàng chống
trả quyết liệt bằng mọi cách. Như thế, dù nói sự thật cũng chưa hẳn là giải
pháp tốt để giúp mọi người thăng hoa trong cuộc sống. Nhưng nếu nói sự thật để
bảo vệ chân lý vì sự sống còn của nhân loại, vì lợi ích cho nhiều người thì dù
có chết, ta vẫn nói. Nói để làm gì? Nói để đem lại công bằng cho nhân loại.
Nhưng nếu nói sự thật làm cho đối phương không còn cơ hội để được sống yêu
thương và tác hại lớn đến cộng đồng xã hội, thì ta phải khéo léo che giấu bớt. Tóm
lại nói xấu người khác là căn bệnh trầm kha của đa số con người, là thói quen
thâm căn cố đế do chấp ngã gây ra. Trong lúc nóng giận dễ phát sinh những lời
nói xấu người khác, hoặc thấy ta đúng người sai nên hay nói xấu người khác.
Hoặc ta muốn hạ bệ người để tranh giành quyền lực cho nên nói xấu kẻ khác, để
kéo họ về phe của ta. Trong sự tương quan giao tiếp hằng ngày mọi sự xích mích
bất hòa đều bắt nguồn từ việc, nghĩ xấu và nói xấu người khác. Khi nói xấu
người khác tức tâm ta có sân hận bực tức khó chịu, ta đang làm tổn thương mình
và người. Vì sao? Vì mình đang đưa khối u ung nhọt vào trong lòng mình, nên lúc
nào nghĩ tới người đó là ta khổ não. Ta tự giết chết ta lần mòn trong đau khổ,
bởi vì khi nghĩ xấu và nói xấu người khác tâm ta bị vẫn đục và gây thêm nghiệp
ân oán thù hằn. Muốn không nói xấu người khác ta phải tập đừng nhìn thấy lỗi
người, vì khi thấy lỗi người ta dễ dàng bị kích thích tác động bởi thói quen
nhiều đời tranh hơn tranh thua, hơn thì sinh cống cao ngã mạn, thua thì sinh
oán hờn tìm cách nói lỗi của nhau. Không nghĩ xấu và nói xấu người là một hạnh
tu rất khó làm, không phải một sớm một chiều mà chúng ta có thể thực hiện được.
Nói
là một khả năng đặc biệt của con người, là phương tiện truyền thông hữu hiệu
nhất để chúng ta tiếp nhận những giá trị sống bằng sự yêu thương hay ghét bỏ.
Lời nói rất lợi hại trong khi giao tiếp với mọi người, một lời nói tốt có thể
đem lại thiện cảm cho nhau và ngược lại sinh ra hận thù. Nghĩ xấu người khác
chỉ làm cho tâm ta tổn thương, còn nói xấu người khác làm cho hai người đều tổn
thương. Nhưng ngược đời thay có những kẽ phải nói mạnh như thế họ mới chịu sửa
sai, còn dùng lời nói ái ngữ đối với họ chẳng áp phê gì. Quả thật tâm tính
chúng sinh do tạo nghiệp bất đồng nên chẳng ai giống ai, cũng lời nói đó đem áp
dụng với người này thì có hiệu quả tốt, nhưng đem áp dụng với người kia thì đổ
vỡ. Chúng ta có tật hay nói, thích nói, hể ngồi lại cùng nhau là nói chuyện
phải quấy, tốt xấu hơn thua, chê bai người này, chỉ trích người kia. Để chuyển
hóa nghiệp nói xấu người khác, đầu tiên chúng ta tập ý không nghĩ xấu người
khác, ý đã không nghĩ xấu thì miệng không bao giờ nói xấu. Muốn vậy ta phải học
hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, luôn lắng nghe tiếng nói của tha nhân,
lắng nghe tâm tư của mọi người để trải lòng bao dung đến thiên hạ. Hay ta học
hạnh lễ xá của Bồ tát Thường Bất Khinh, luôn thấp mình khiêm cung lễ xá mọi
người và thấy ai cũng là Phật hết. Ngoài việc thực tập các công hạnh của Bồ
tát, chúng ta còn học hạnh tùy hỷ khen tặng người khác, đa số chúng sinh thích
khen hơn thích chê. Khi thấy ai làm một điều xấu gì đó, ta phải quán tha thứ vì
họ bị vô minh che lấp, họ đáng thương hơn đang ghét nên ta không nói xấu họ.
Khi thấy ai làm một điều tốt, ta nên khen ngợi để khích lệ họ, ta và người cùng
vui vẻ với nhau để được sống có hiểu biết và yêu thương.
GIÁ TRỊ CỦA THÀNH THẬT
Thuở
xưa có một vị vua sống rất nhân từ và đức độ, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp
trên tinh thần đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc
sống, nhưng lại không có con trai, chỉ có đứa con gái duy nhất. Vua và hoàng
hậu mới cùng bàn nhau để kén chọn hoàng tử kế thừa ngôi vị trong mai sau. Để
kén chọn được một vị hoàng tử tài đức vẹn toàn, nhà vua cho truyền lệnh khắp
tất cả đất nước ai là con trai hãy đến đền vua để chuẩn bị cuộc thi có một
không hai từ trước tới nay. Đặc biệt cuộc thi này khác lạ và có vẻ đòi hỏi một
nhân cách siêu việt của con người tâm linh hơn. Mỗi chàng trai đều được nhận
một gói hạt giống hoa như nhau, rồi đem về ương lên nếu cây hoa nào đẹp nhất ta
sẽ chọn làm hoàng tử và được cưới cô công chúa. Thời hạn trong một tháng. Các
chàng trai ai nấy cũng đều vui vẻ phấn khởi, vì việc kén chọn hoàng tử quá đơn
giản chỉ chịu khó chăm sóc một chậu hoa thật đẹp sẽ được một cô công chúa xinh
đẹp kiều diễm và giang sơn gấm vóc. Đến kỳ hạn, mỗi chàng trai đều đem đến
những chậu hoa thật là xinh đẹp, không thể chê vào chỗ nào được, người đến xem
ai cũng trầm trồ khen ngợi những chậu hoa đẹp tuyệt vời, ít thấy từ xưa nay. Vậy
mà nhà vua và hoàng hậu vẫn không hài lòng trước vẻ đẹp sặc sở của các chậu hoa.
Như còn đang chờ đợi một cái gì đó. Các chàng trai bây giờ đang hồi hộp và nao
nức, để chờ đợi kết quả ai cũng có vẻ mặt hết sức là hân hoan. Bổng có một chú
bé ôm một chậu đất không chạy vào, vừa khóc, vừa mếu máo trông rất thảm thương.
Vua mới hỏi, vì cớ sao con lại khóc? Chú bé thật thà thưa, tháng trước con nhận
được gói hạt giống hoa đem về con tìm đất tốt, phân bón đầy đủ, chậu đẹp con
chăm sóc hết sức kỷ lưỡng và chu đáu, vậy mà không có một cây hoa nào mọc lên!
hu ! hu ! Vua bấy giờ mới cảm thấy hài lòng vì đã tìm ra vị hoàng tử tương lai,
vua dẫn chú bé ra trước mặt mọi người tuyên bố “đây mới chính là hoàng tử của
ta” làm cho tất cả các chàng trai đang có mặt cảm thấy khó chịu trước lời tuyên
bố chắc nịch của nhà vua. Bổng dưng mọi xôn xao bàn tán đều ngưng bặt, mọi người
đều chờ sự giải thích của nhà vua. Nhà vua tuyên bố chú bé này xứng đáng là
hoàng tử của ta, vì sao? Vì chú bé này rất “thành thật” ta đang cần một con
người thành thật ! Ngừng một lúc rồi nhà vua nói tiếp, hạt giống mà ta trao cho
các ngươi đã bị luộc chín không thể nào lên được. Các chàng trai trẻ nghe nhà
vua nói như thế mọi người tự nhìn lại nhau, đồng nói lên quả thật tất cả chúng
con đều gian dối. Vì sợ không có chậu hoa đẹp nên chúng con đã mua cây hoa khác
thế vào. Cuộc thi đã chấm dứt, chú bé được chọn làm hoàng tử.
Thành thật có nghĩa là không dối gian. Thành thật là một đóa hoa thơm
của đạo đức, là bản chất tốt của bậc hiền thánh. Người thiếu thành thật là
người hay dối gạt kẻ khác. Tại sao mọi người hay gian dối? Khi gian dối như thế
chúng ta sẽ được gì! Được lợi trước mắt, nhưng họa hại lâu dài cho mình và
người mai sau.
Câu
chuyện trên đã cho ta một bài học đạo lý hết sức đơn giản mà giá trị của nó
không thể nghĩ bàn. Ở đời ít ai can đảm dám nhận chịu sự thật và nói lên sự
thật. Do đó sống với nhau toàn bằng các hình thức giả dối bên ngoài để được
lòng nhau. Sự tiến bộ của tiện nghi văn minh vật chất làm cho con người càng
ngày nghiêng về hưởng thụ nhiều hơn. Vì muốn mọi người chung quanh cung kính và
ngưỡng mộ mình, nên ít ai ý thức giữ được lòng thành thật. Đó là một sự thật
quá đau buồn của thế nhân trong cuộc sống hiện tại, mặc dù ai cũng biết rằng
thành thật là một đức tính tốt. Từ người thân trong gia đình cho đến mọi người
trong xã hội, ai cũng muốn người khác thành thật với mình. Nhưng thực tế đã cho
chúng ta thấy, hầu như mọi người đều sống giả dối với nhau nhiều hơn. Nên dân
gian có câu châm biến mĩa mai:
“ Lèo lách lừa lọc lẹ lên lương,
Thật thà thành thật thường thua
thiệt”.
Nên người sống thành thật rất bị nhiều người
ghét bỏ và kẻ xấu có thể lợi dụng hảm hại. Tuy nhiên người có tấm lòng từ bi rộng
lớn và vị tha thì lúc nào cũng thành thật. Chúng ta không vì thế mà trở nên
điêu ngoa xảo trá do những tổn thất nho nhỏ vì quyền lợi mà bỏ đi tấm lòng
thành thật của mình. Tiền bạc lợi dưỡng mất đi chúng ta có thể làm kiếm lại
được. Một khi lòng thành thật mất đi chúng ta sẽ trở thành một con người không
có nhân cách đạo đức tốt. Người có nhân cách đạo đức thì luôn được hưởng những
đặc ân tốt đẹp, dù kẻ xấu có muốn hảm hại cũng không làm gì được. Chúng ta có
thể qua mắt được pháp luật, dối gạt mọi người, nhưng không thể dối gạt chính
mình và luật nhân quả rất công bằng sòng phẳng, khi hội đủ nhân duyên. Ngày nay
trong xu hướng thời đại phát triển con người càng đông, vì thế nhu cầu sự sống
càng nhiều, các nhà kinh doanh dựa theo lòng tham của con người để quảng cáo
sai sự thật về sản phẩm của mình nhằm lừa bịp khách hàng. Cho nên dân gian có
câu: “ mua lầm chớ không bán lầm”.
Một
số người tu vì muốn người khác cung kính mình để được nhiều lợi dưỡng tiếng tăm,
mình chưa chứng đạo đạt đạo mà dối xưng mình đã đắc đạo. Vì lợi dưỡng cho chính
mình mà chúng ta lạm dụng nói dối, trong nhà Phật gọi là đại vọng ngữ. Ai phạm
vào tội này quả báo về sau rất nặng nề, vì đã lạm dụng sự cung kính lợi dưỡng
của nhiều người. Chúng ta có thể lừa dối một người hoặc nhiều người trong một
thời gian nào đó, chứ không thể lừa dối mọi người mãi mãi. Sự thật vẫn là sự
thật, một lúc nào đó sức mạnh của chân lý sẽ được phơi bày.
Vậy, vì sao con người ta hay gian dối, nói dối như vậy có mục đích gì? Phần lớn
con người ta nói dối có hai mục đích: nói dối để đem lại lợi ích cho mình, nói
dối để vu khống hại người. Thông thường người tu nói dối để được sự cung kính
và lợi dưỡng, hoặc nói dối để che đậy lỗi lầm của mình. Có năm vị Tỳ kheo vì
muốn mọi người cúng dường nhiều nên đã nói dối mình đắc đạo, do đó sau khi chết
bị đọa vào ác đạo vô số kiếp để trả quả. Đến khi được làm người thì làm người
hèn hạ thấp kém. Hoàng hậu Mạc Lợi sau khi đảnh lễ đức Thế tôn và cung kính
cúng dường xong, mới ngồi sang một bên hỏi rằng, con nhiều đời do gieo nhân gì
mà hiện tại được làm hoàng hậu. Phật mới nói, ở nhiều kiếp lâu xa do hoàng hậu
là một Phật tử thuần thành, đã cung kính cúng dường năm vị Tỳ kheo, năm người
này đã nói dối mình đắc đạo nhưng lại không tu hành gì hết chỉ thọ hưởng cho qua
ngày tháng. Đến khi chết vô số kiếp bị đọa vào ba đường ác để chịu quả khổ đau.
Trong đời hiện tại được sinh trở lại làm người nô lệ hạ tiện và trở lại phục
dịch cho hoàng hậu. Nghe đến đây, bà hoảng hốt mới hỏi đức Phật rằng, vậy năm
thầy đó đang làm gì cho con. Đức Phật mới từ tốn trả lời, bốn người khiêng
kiệu, một người dọn dẹp chà rửa nhà vệ sinh cho bà. Hoàng hậu sau khi biết được
nguyên nhân cho nên tuyên bố phóng thích năm người đó. Nhưng năm người này vì
duyên nợ năm xưa chưa hết nên đã xin bà tiếp tục làm công việc đó vô điều kiện.
Câu chuyện trên là một bằng chứng thiết thực để cảnh tỉnh những người tu hành
như chúng ta hiện nay, chúng ta là người đang hướng dẫn sự thật của chân lý
cuộc đời, kêu gọi và khuyên nhũ mọi người hay nên sống thành thật, tức không
dối gạt người khác. Một sự bất tín, vạn sự bất tin. Một lần nói dối đã làm cho
mình mất uy tín, thì một vạn lần sau, dù chúng ta có nói đúng làm đúng, nhưng
khó có ai tin. Tuy nhiên có những chuyện ta cần phải nói dối để cứu người tai
qua nạn khỏi, nếu nói sự thật sẽ làm hại cho kẻ khác. Ngày nay vì nhu cầu sự
sống các dịch dụ quảng cáo thường nói sai sự thật để kích thích lòng tham của
nhân loại, con người ta vì tham tốt tham rẻ nên bị sụp bẩy các nhà kinh doanh.
Tán tận lương tâm hơn, vì lợi dưỡng mà một số người đã dùng hóa chất độc hại để
đưa vào thức ăn thực phẩm cho con người bất chấp hậu quả bệnh hoạn chết chóc về
sau. Nhan nhãn mỗi ngày báo chí thường đăng tin ngộ độc thức ăn tập thể, do
lòng tham con người quá đáng nên chỉ biết lợi nhuận trước mắt mà không biết hậu
quả về sau. Vậy mỗi người chúng ta, hãy nên thành thật như chú bé ôm chậu không,
mà được làm hoàng tử.
Nói
sự thật đem lại lợi ích cho người nghe.
Nói
sự thật đem đến sự tác hại cho người nghe.
Nói
dối đem lại lợi ích cho người nghe.
Nói
dối đem đến tai hại cho người nghe. (hoặc hại mình)
Đây là bốn trường hợp nói thật và nói dối,
chúng ta phải xem xét từng nguyên nhân để không làm tổn hại cho tha nhân.
Trường hợp thứ nhất nói sự thật để đem lại lợi ích cho người nghe, như
chúng ta nói về sự công bằng của luật nhân quả và lý duyên sinh, nói cho đủ là
nhân duyên quả. Ai gieo nhân gì sẽ gặt quả đó, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không
mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Chỉ có người làm việc đại
thiện hoặc đại ác thì quả báo có thể thay đổi theo chiều hướng khác. Người hay
giết hại thì quả báo bị giết hại trở lại, chết yểu hoặc bị bệnh tật truyền
miên. Người hay bố thí thì được quả báo giàu sang có nhiều của cải, người hay
khiêm hạ thì sẽ được địa vị cao. Người hay siêng năng học hỏi sẽ được thông
minh sáng suốt, người hay vô ngã vị tha sống vì mọi người thì sẽ được đạo đức
chói sáng như hương thơm bay ngược chiều gió vậy.
Trường hợp thứ hai nói sự thật đem lại tác hại cho người nghe nhiều khi
gây ra hậu quả không thể lường. Có một thầy tỳ kheo vì không dám nói sự thật sợ
chúng sinh bị quả khổ, nên bị nghi ngờ là kẻ cắp chiếc nhẫn kim cương, do đó bị
chủ nhà đánh đập một cách tàn nhẫn. Trên đời này có rất nhiều người khi đã ý
thức được lợi ích của lời nói chân thật, nên dứt khoát không bao giờ nói dối và
cũng không bao giờ nói lên sự thật để hại người hại vật. Đó là hạnh chân thật
của những vị Bồ tát phát tâm đi vào đời vì lợi ích chúng sinh. Vị tỳ kheo vì
thương chúng sinh nên không dám nói sự thật, chấp nhận bị gia chủ đánh thê thảm
thân mình đầy thương tích. Đến khi con ngỗng vô tình bị con trâu điên đạp lên
mình chết liền tại chỗ. Lúc này vị tỳ kheo mới nói rằng con ngỗng đã nuốt chiếc
nhẫn. Gia đình liền cho người mổ con ngỗng và lấy lại được chiếc nhẫn. Sau đó
cả gia đình đều quỳ xuống lễ lạy để tạ lỗi sám hối, mong ngàì tha thứ cho. Vị
tỳ kheo vì thương chúng sinh sợ chúng bị giết hại, nên không dám nói lên sựthật đành cam chịu oan bị đánh đập. Nếu nói về lý rốt ráo thì vị tỳ kheo tu
theo hạnh nhẫn nhục Ba la mật, nên chấp nhận chịu đau thương về phần ta, thà
mình chịu hy sinh thiệt thòi chớ không để kẻ khác đau khổ. Còn nếu nói về tình
người, vị tỳ kheo khi thấy con ngỗng nuốt chiếc nhẫn, chỉ báo với chủ nhà thì
mọi việc sẽ êm đẹp, vì phước của loài vật kém hơn con người. Chiếc nhẫn lại là
của nhà vua gởi làm dùm, nếu thật sự bị kẻ gian lấy đi thì gia đình nọ sẽ chịu
họa thê thảm biết chừng nào. Trong cơn khủng hoảng lo sợ về sự mất mát ấy, hỏi
sao gia đình nọ không tàn nhẫn vì trong nhà lúc đó chỉ có vị tỳ kheo, nếu ngài
không lấy thì ai lấy. May mà sự việc đã được sáng tỏ, con ngỗng bị trâu dẫm
chết, nếu không thì sao? Chúng ta giả sử nếu con ngỗng không bị chết đột ngột
như vậy, thì chuyện gì sẽ xảy ra. Vị tỳ kheo sẽ bị bắt đưa lên vua xét xử, nếu
đặt ta vào trường hợp đó sẽ chỉ ngay con ngỗng là thủ phạm, coi như mọi việc sẽ
êm xuôi. Đằng này, vị tỳ kheo biết con ngỗng như vậy tại sao lại lặng thinh để
chấp nhận bị đánh đập, mà không một lời than oán. Đây là công hạnh cuối cùng
của Bồ tát, nên đã an nhẫn chịu mọi thống khổ thế cho chúng sinh, nếu nói liền
con ngỗng sẽ bị giết và ngài sẽ không thành tựu hạnh nhẫn nhục Ba la mật. Câu
chuyện trên dường như thấy hoang đường, người đọc khó có thể chấp nhận được vì
nó ngoài sự hiểu biết của ta. Bởi chỗ này, chỉ có Bồ tát với Bồ tát mới thông
hiểu được. Đa số người thế gian cho đó là phi lý, con ngỗng nuốt chiếc nhẫn thì
cứ nói nuốt chiếc nhẫn có sao đâu. Thôi thì chỗ này mỗi người tự quán chiếu suy
tư, sẽ thấy được giá trị thiết thực của nó.
Còn
có trường hợp nói dối để đem lại lợi ích cho người nghe và ngược lại nói dối sẽ
đem lại tai hại cho người nghe. Như chúng ta đang thấy một người cầm dao đến để
tìm người giết, nếu ta nói sự thật thì việc gì sẽ xảy ra? Tất nhiên án mạng sẽ
xảy ra nhẹ lắm cũng kẻ tù người tội. Cho nên nói đúng sự thật cũng chưa hẳn là
tốt, chúng ta phải biết tùy thời, tùy duyên, nói làm sao đem lại lợi ích cho
nhiều người.
KHIÊM TỐN ĐỂ TRƯỞNG THÀNH
Người khiêm tốn là người có lễ nghĩa, biết kính trên nhường dưới bình
đẳng tôn trọng lẫn nhau luôn thấp mình đối với mọi người.
Tại
sao trăm sông đều chảy về biển cả? Vì biển thấp, sông cao, nên nước các sông
phải đổ về biển. Tâm khiêm tốn giống như biển cả bao la thấp mình chờ đợi,
khiến trăm sông cao vót đem nước về biển cả mênh mông.
Có
một loài hoa không tên lại hay mọc những nơi râm mát, thường ẩn mình trong chỗ
không có gió. Thân cây ngoằn ngoèo, đầu hơi chúc xuống, hình như không muốn mọi
người biết đến. Nhưng nó lại một loài hoa đẹp hương thơm ngào ngạt, hấp dẫn lạ
thường. Đây là một loại hoa hiếm thấy ở đời, có nét đẹp khiêm tốn giản dị nhưng
nở hoa rất nhiều. Các loài hoa khác thường tranh nhau vươn mình ra ánh sáng để
khoe sắc đẹp hương thơm của mình, ngược lại thì nó lại ẩn mình nơi râm mát,
lặng lẻ ban tặng cho đời những cánh hoa thơm ngào ngạt.
Chúng ta muốn thưởng thức hương thơm của hoa, thì phải vào nơi thâm sơn
cùng cốc. Con người cũng vậy, muốn làm món quà vô giá để ban tặng cho đời, thì
hãy nên khiêm tốn để trưởng thành trong cuộc sống. Ngược lại với khiêm tốn là kiêu
mạn. Vậy kiêu mạn là tự cao hay khinh khi người khác, do có chút danh vọng
quyền lực và thành công trên trường đời, nên tự cao tự phụ khinh khi người khác
là hiện tượng khá phổ biến trong xã hội hiện nay.
Ngày
xưa trong pháp hội của Lục Tổ có vị tăng tên Pháp Đạt xuất gia lúc bảy tuổi,
thường tụng kinh Pháp Hoa, đến lễ tổ mà đầu không sát đất. Tổ mới quở: “ Lễ mà
đầu không sát đất, chi bằng đừng lễ, chắc ông có cái gì cao siêu mầu nhiệm nên
mới kiêu mạng như vậy.
Pháp Đạt thưa: Tôi tụng kinh Pháp Hoa đã hơn ba ngàn bộ. Vị tăng Pháp
Đạt nghe đồn rằng Lục Tổ được truyền trao y bát, tăng ni các nơi đến tham vấn
và lễ bái tổ rất đông. Pháp Đạt tuy lễ lạy nhưng không phục tổ, vì nghĩ rằng tổ
chưa chắc hơn mình, cho nên tuy có lễ mà trong lòng không tôn kính, do đó đầu
lạy không sát đất.
Tổ
mới bảo rằng: Dù ông tụng đến muôn vạn bộ kinh, hiểu ý kinh mà chẳng cho là hơn
người, ắt cùng ta sánh vai, nay ông chấp trước vì sự nghiệp tụng kinh nhiều mà
trọn không biết lỗi, ông hãy lắng tâm để nghe ta nói kệ đây:
Lễ để cốt chặt cờ ngã mạn.
Tại sao đầu ông không sát đất
Có ngã thì tội liền sanh
Quên công thì phước bao la không cùng.
Lễ
lạy để tỏ lòng tôn kính và khiêm tốn thấp mình trước người đức hạnh để chúng ta
được học hỏi thêm những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, nhằm dẹp bỏ tâm cống
cao ngã mạn của mình. Pháp Đạt vì còn thấy mình hơn tổ nên lạy đầu không sát
đất, bị tổ quở nếu thấy mình hơn người vậy lạy làm chi cho mắc công vô ích. Như
chúng ta đã biết người ngồi nhận lễ là tạo nhân duyên tốt cho người học đạo,
dẹp trừ bớt tâm ngã mạn. Người tu mà không khiêm tốn học hỏi, lễ kính người đạo
cao đức trọng, thì thử hỏi làm sao giải trừ được phiền não và bệnh cống cao ngã
mạn.
TUYỆT VỌNG KHI KHÔNG CÒN LỐI THOÁT
Khi
con người rơi vào trạng thái khổ đau cùng cực, không còn phương hướng, không
còn lối thoát trong cuộc sống. Người đó tự giết mình để chạy trốn cuộc đời.
Nhiều người nhìn đời với con mắt bi quan, cho rằng đời là bể khổ. Cuộc đời vốn
vẫn đẹp như những vì sao lấp lánh. Bản chất cuộc đời không có tốt xấu, tùy theo suy nghĩ và nhận thức của mỗi
người mà cuộc đời trở nên thiên đường hạnh phúc hay địa ngục trần gian. Tại sao
ta cô đơn, tại sao ta tuyệt vọng? Ai đưa đẩy ta vào chỗ đó? Thượng đế ư. Thần
linh ư. Vua quan ư. Gia đình ư. Bạn bè ư. Xã hội ư. Chỉ có ta làm cho ta tuyệt
vọng, không ai ngoài chính bản thân mình.
Người tuyệt vọng là người hết còn hy vọng trong hiện tại và tương lai
nữa. Trước mắt họ chỉ thấy một bầu trời đen tối, họ không có đủ niềm tin và nghị
lực, để khai mở con người tâm linh của mình. Nên họ cảm thấy lạc lỏng, bơ vơ
giữa dòng đời vô tận. Mặc dầu đang sống chung với người thân, với gia đình, với
bè bạn, với xã hội, nhưng họ vẫn cảm thấy cô đơn hụt hẫng trước một sự thật quá
phũ phàng, trước một sự thật quá đau thương buồn tủi. Bởi vì họ không còn chỗ
bám víu, không còn nơi nương tựa, họ cảm thấy lạc loài cô đơn, như người đã
từng giàu có bây giờ trắng tay sạch sành sanh. Mọi cái mọi thứ trên đời giờ đã
hết, một sự thật không thể chối cãi được, trong khi mọi cái đều thay đổi quá
nhanh như vậy, ta cảm thấy chới với bơ vơ như không còn chỗ đứng, nên cam đành
chịu khổ đau, trong tuyệt vọng.
Thời Phật còn tại thế, có một thiếu nữ con một gia đình giàu sang bậc
nhất thời ấy, tài sản trị giá hơn bốn trăm triệu tiền vàng. Năm mười sáu tuổi
cô ta có nét đẹp của dáng ngọc mày ngà, có thân hình gợi cảm, làm tâm hồn của
các chàng công tử con nhà quý phái chết mê chết mệt. Thế rồi cha mẹ cô cũng hứa
gã cho một chàng công tử môn đăng hộ đối. Chỉ còn hơn một tuần nữa thì ngày
cưới sẽ được tổ chức long trọng. Nhưng trớ trêu thay, cô ta phải lòng chàng
trai ở đợ cho nhà mình và đã trót lỡ trao thân cho người ấy. Chàng và nàng âm
thầm trong lặng lẽ, sắp xếp mọi kế hoạch để chuẩn bị chuyến đi không hẹn ngày
về nơi phương trời xa xôi, theo tiếng gọi của con tim.
Nơi
đất lạ quê người, chàng khai phá rừng hoang trồng trọt bán củi nuôi thân, nàng
ở nhà chăm lo công việc nội trợ. Từ xưa nay nàng chưa từng động đến móng tay,
mọi việc đều có người ở phục dịch lo lắng hết cả. Giờ thì phải sống một đời bần
hàn cơ cực, trong rừng sâu núi thẳm, trong thương tiếc ngậm ngùi. Bụng làm thì
dạ chịu biết trách móc vào đâu được, âu cũng là duyên nghiệp năm xưa. Khi có
thai sắp đến ngày sinh nở, nàng thưa với chồng muốn về nhà cha mẹ ruột để có
người chăm sóc giúp đỡ. Nhưng anh chồng quá sợ, vì mình là người giai cấp thấp
hèn nô lệ phục dịch, sẽ bị trừng trị theo luật pháp nên không cho vợ về. Một
hôm, chồng đi đốn củi trong rừng nàng nhất quyết trở về nhà cha mẹ ruột. Chồng
làm về hay được nên đã đuổi theo kịp và nàng đã cho ra đời một bé trai kháo
khỉnh. Đứa con đầu lòng chào đời trong niềm vui vô hạn của hai người, họ cảm
thấy hạnh phúc tràn trề.
Rồi
thời gian qua mau, đứa con đầu nay được ba tuổi thì nàng lại có thai. Cũng như
lần trước, nàng cũng tìm đường về cha mẹ nhưng chồng cũng đuổi theo bắt kịp.
Như có linh tính rằng chuyện không may sẽ xãy đến, nàng đang mệt mỏi vì cơn đau
sắp sinh con, bổng mây đen ùn ùn kéo đến làm tối sẳm cả một bầu trời. Cơn mưa
như giận dữ trút đổ xuống ào ạt, tiếng sấm sét không ngừng gào thét. Anh chồng
cuống quýt lên vội vàng chặt vài nhánh cây để che đỡ cho nàng có chỗ khai hoa
nở nhị. Nhưng bất hạnh thay, chàng bị một con rắn độc cắn chết liền tại chỗ.
Ngay lúc chồng bị chết, thì đứa con thứ hai cũng kịp chào đời trong cơn mưa tầm
tã. Một đứa vừa lên ba, một đứa mới chào đời, chúng không chịu nỗi cảnh mưa gió
bão bùng nên đã khóc thét lên trong màn đêm đen tối. Người mẹ ấy giờ không còn
cách nào khác, chỉ biết nằm úp xuống ôm hai con vào lòng để hứng chịu cơn mưa
oan nghiệt.
Nhưng trời còn thương cho kẻ bất hạnh, tuy
hiện tại đã mất đi người chồng yêu quý. Mọi giông tố đã đi qua, nàng gắng gượng
trong bước đi nghiêng ngã, một tay bồng con một tay dắt con đi, nhắm hướng về
nhà cha mẹ ruột của mình. Nàng phải lê từng bước khổ sở nhọc nhằn thất tha thất
thểu, rồi đến được bờ sông. Cơn mưa đêm qua đã làm cho nước sông tràn ngập,
không thể đi qua bình thường được. Vã lại lúc này nàng quá yếu, không thể ôm
hai đứa con lội cùng một lúc. Nên đành để lại đứa con lớn bên bờ này và ôm đứa
nhỏ lội qua. Sau khi ráng sức qua tới bờ kia, nàng cẩn thận lấy nhánh cây đặt
đứa bé nằm lên trên, rồi chuẩn bị bơi trở lại rước đứa con lớn. Nhưng chẳng may
cho nàng, trông khi đang bơi qua hơn giữa dòng thì nghe tiếng tru của một con
chó sói đang nhào tới để gặm đứa bé đi. Trong cơn hốt hoảng, nàng giơ tay la
lên để cản ngăn con sói nhưng không còn kịp nữa. Bên này đứa con lớn tưởng mẹ
kêu mình, nên nhảy ùm xuống sông bị dòng nước cuốn trôi đi mất. Chồng chết, hai
đứa con cũng đi theo. Giờ thì bao nhiêu hy vọng ước mơ trong hạnh phúc gia đình
đã tan tành theo mây khói, nàng chỉ còn hướng về cha mẹ gia đình người thân để
mong được chút yêu thương và tha thứ. Nhưng sự thật càng phũ phàng hơn, khổ đau
này chưa dứt, khổ đau khác đã chồng lên ngay nơi số phận của nàng. Nơi nàng
sinh ra và lớn lên, khói bụi vẫn còn mờ mịt nghi ngút cháy. Nàng hỏi ra mới
biết cha mẹ và người thân, bị nhà sập đè chết hết. Nàng bây giờ không còn bình
tỉnh nữa, trông phút chốc hóa ra điên loạn và trên người không còn mảnh vải che
thân. Nàng vừa đi, vừa khóc, vừa cười, vừa hát nghêu ngao:
Chồng ta đã chết giữa đường
Hai con cũng vậy đi chầu theo sau.
Cha mẹ gia đình người thân
Cũng đã ra đi không hẹn
ngày về.
Hồi
tưởng về quá khứ, đáng lẽ ra, nàng sẽ hưởng trọn cuộc đời cao sang quyền quý
được sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình với giòng tộc cao tôn quý mà người xưa
đã áp đặt. Chỉ một phút lỡ làng đi theo tiếng gọi của con tim, mà cuộc đời nàng
phải trả một giá quá đắt, chẳng lẽ thượng đế đã trừng phạt nàng chăng. Xã hội
ngày xưa theo truyền thống tập cấp chủ tớ, đã phân biệt rành rẻ có luật pháp
hẳn hòi. Ai ở giai cấp nô lệ phục dịch, thì suốt đời làm tôi tớ, không được
quyền đụng chạm đến giai cấp tôn quý, huống hồ là lấy người giai cấp trên.
Chính vì vậy tạo ra sự bất công oan gia trong hôn nhân tình yêu lứa đôi, con
người ta không còn yêu nhau bằng tình thương chân thật nữa, mà có sự lựa chọn
áp đặt của người trên nhờ sự mai mối, theo cách thức môn đăng hộ đối. Đã để lại
biết bao chuyện đau thương trong tình yêu nam nữ, không lẽ đấng tối cao nở nhẫn
tâm tàn nhẫn đến thế ư?
Trong cơn tuyệt vọng não nề, nàng ta đã mất hết tính người, nên đã khoe
thân thể cho mọi người nhìn thấy mà không còn biết mình là ai? Trời đất như
quay cuồng, mọi thứ đều điên loạn theo, nhưng trong cơn tuyệt vọng của con
người xác thịt khó ai có thể vượt qua nỗi bế tắc của cuộc đời. Dường như có một
sự thật nhiệm mầu nếu chúng ta biết khai thác con người tâm linh, thì mọi gút
mắc sẽ được tháo tung tất cả. Khi con người bị bế tắc trong cơn khủng hoảng của
tuyệt vọng, làm tâm tư trong sáng bị lưu mờ đi, nên ta nhìn mọi thứ bằng con
mắt chán chường, bi quan cảm thấy cuộc sống này không còn giá trị và ý nghĩa
nữa, nên nhắm mắt buông xuôi mặc cho số phận đã an bài. Nếu không có chút định
tĩnh ta có thể hóa ra điên loạn, hoặc tệ hơn ta có thể tự kết liễu đời mình một
cách oan uổng. Nhưng nếu nhìn cho thật kỹ, ta sẽ thấy đất trời đang rộng mở,
đang bảo bọc che chở cho ta. Chung quanh ta còn biết bao người thân thương,
đang dang rộng vòng tay để ôm ấp sự thương yêu trìu mến, bằng sự hiểu biết và
tha thứ cảm thông. Chỉ vì tâm ta bị vướng kẹt trong phạm vi nhỏ hẹp, mà ta đành
lòng hủy hoại trong cô đơn tuyệt vọng. Người con gái ấy, trong thoáng chốc mất
hết tất cả, chồng con cha mẹ người thân. Bổng hóa ra điên cuồng lang thang thất
thểu, trong tâm trạng mê mờ. Thông thường mọi sự thất bại về danh vọng, tiền
bạc hay một lý tưởng nào đó, nó chỉ là một phần trong đời sống của ta. Đằng
này, người phụ nữ đó sự nghiệp tình yêu gia đình người thân cùng một lúc hóa ra
người thiên cổ, cô ta chỉ điên loạn thẫn thờ. Nếu giả sử đặt mình trong hoàn
cảnh ấy, liệu ta có còn đủ sức chịu đựng hay là đành chấp nhận chọn lấy cái
chết trong cơn tuyệt vọng. Cũng may cho người con gái ấy, trong cơn điên loạn
tuyệt vọng vô vàng đó, nàng đã được gặp Phật với tâm từ tỏa sáng đang trải rộng
lòng thương xót, đã làm cho nàng ta từ từ tỉnh lại. Bất giác nhìn lại toàn thân
mình không có mảnh vải che thân, nàng ngượng ngùng xấu hổ mới nằm úp trên mặt
đất. Phật nhờ người đưa cho nàng chiếc y, mặc xong nàng đến quỳ dưới chân Phật
với tâm thành kính cao độ. Kính bạch Phật đà, xin cho con làm đệ tử ngài, xin
cho con được quy y ngài và nương tựa ngài. Con bây giờ không còn gì nữa, tất cả
những người thân thương nhất của đời con đều đã ra đi hết. Phật biết được tâm
trạng của nàng, nên dùng những lời từ ái khuyên nàng chớ có nên đau buồn phiền
muộn nữa. Một khi ai đã gặp Như lai thì có chỗ an trú, có chỗ nương tựa, có chỗ
che chở vững chắc. Chúng sinh sống trên thế gian này trải qua biết bao thăng
trầm, trong dòng luân hồi vô tận, phải khóc vì mất con, mất người thân yêu,
nước mắt tiếc thương rơi nhiều hơn nước bốn biển có trong hiện tại. Như lai đã
nói về sự khổ đau mất mát của con người, không thể tính đếm cho hết được.
Những
người mình yêu thương gần gũi, giờ đã vĩnh biệt ra đi hỏi ai không luyến tiếc
nhớ nhung nuốt lệ thương đau trong cô đơn buồn tủi. Những điều mong muốn ước mơ
luôn không được hài hòa như ý, cuôc sống cứ như đi ngược lại những gì ta mong
mỏi. Hỏi sao ai chẳng tuôn dòng lệ rơi. Rồi đến khi sắp từ giả cõi đời cha mẹ
người thân con cái, bạn bè, không ai có thể che chở bao bọc cho ta suốt cả cuộc
đời. Người trí cần phải có nhận thức sáng suốt, để chuẩn bị hành trang làm tư
lương cho con đường mình sẽ đi tới, nơi đó không có mặt khổ đau và bất hạnh.
Sau khi được Phật khai thị, tâm trí nàng bắt đầu khai mở và từ đó nàng xin Phật
được xuất gia tu học. Nhờ mỗi ngày quán chiếu sự vô thường thay đổi của kiếp
người, không phải ai cũng có diễm phúc sống đến tuổi già, để cùng gia đình
chung vui hạnh phúc. Do siêng năng phục vụ đại chúng và tinh cần tu tập lúc nào
cũng niềm nở vui tươi với mọi người, nên nàng được các bạn đồng tu gọi là Ni
vui vẻ. Cho đến một hôm, nhân dịp múc nước rữa chân nước chảy ra đất rồi từ từ
thấm xuống hết và cứ như thế dù nhiều hay ít nước vẫn thấm xuống hết. Nàng nhận
ra cái chết không từ bỏ một ai, từ khi mới sinh cho đến tuổi già. Kẻ chết khi
còn nhỏ, hoặc lúc trưởng thành cho đến trung niên rồi già chết. Thần chết luôn
sẳn sàng rước đi bất cứ lúc nào, ngay trong giờ phút đó nàng đã chứng quả A la
hán. Phật biết được nên nói kệ khen ngợi:
Dù sống lâu ở đời
Không biết đạo giải thoát
Tốt hơn sống một ngày
Không si mê lầm
lạc.
Chúng ta sống cứ mãi mê chạy theo bám víu công danh sự nghiệp, tiền bạc
vật chất tiện nghi mà quên đi phần tinh thần, tức con người tâm linh nên dễ dẫn
đến quẫn trí và tuyệt vọng. Không có gì đau khổ cùng cực bằng tâm mờ mịt đi
trong đêm tối ba mươi. Còn có sự sống là còn có hy vọng, nhưng hy vọng của
chúng ta không phải là mộng mơ, không phải vu vơ huyền hoặc, nếu chúng ta hy
vọng mà không có đích đến rõ ràng thì nguy hiểm. Như trường hợp của kẻ xấu, chỉ
muốn làm sao tìm cách chiếm đoạt của người khác mà nhẫn tâm cướp của giết
người, hy vọng kiểu đó chỉ gây thêm tội lỗi và khổ đau cho nhân loại.
Người
con gái ấy, nếu không có duyên gặp Phật để ngài rưới nước cam lộ từ bi, liệu
nàng có đủ khả năng để làm lại cuộc đời hay không? Sau khi quán chiếu thực tại
đời sống con người, nàng nhận ra rằng mọi thứ mọi cái trên đời này dù có thương
yêu bảo bọc che chở đến đâu, nhưng cũng không thể nào giữ lại được khi duyên
phần đã hết. Vợ chồng, con cái, mẹ cha, người thân, bè bạn, lúc nào cũng dang
tay chào đón ta trong từng hơi thở. Nhưng nếu, ta không chịu tiếp nhận hơi thở
của người thân, hay là con người tâm linh để rồi tự mình rơi vào hố sâu tuyệt
vọng và đành buông xuôi tất cả. Thật ra đâu có ai làm cho ta đến nỗi phải chịu
đau thương như thế này, chính ta làm cho ta đau khổ, làm gì có ai đó tự thao
túng cuộc đời của ta. Nhiều người nghĩ rằng chết là hết, cho nên tự kết liễu
đời mình, đó là giải pháp an toàn nhất. Họ không đủ sức chịu đựng để gánh lấy
nỗi đau đó đang đè nặng trên vai mình. Nếu ta biết trở về con người tâm linh để
gầy dựng nội lực mạnh mẽ và nhìn thấu tận tim gan của vấn đề, thì sự thất bại trong
hiện tại sẽ là hành trang cho sự thành công mai sau. Khi ta đã tiếp nhận được
con người tâm linh thì mọi thứ đối với ta chỉ là mộng ảo phù du, do đó ta nhìn
đời với một màu sáng trong thuần khiết. Thật ra khi ta đối đầu với thất bại, ta
bình tỉnh, ta sáng suốt, ta tự tìm ra lối đi chớ không nên trốn chạy cuộc đời.
Bởi vì trong đó trách nhiệm của ta là chính, ta không thể đổ lỗi cho ai, ta
không thể buộc mọi người phải quan tâm đến ta, mà chính ta phải có trách nhiệm
lớn lao trong ấy. Ta có thể chấp nhận chịu khổ một mình, chứ không nên bắt kẻ
khác khổ cùng ta, ta không có quyền làm cho người khác khổ, ta có quyền giận
dỗi mình, nhưng không có quyền trách giận kẻ khác. Có một quan niệm hết sức sai
lầm, họ cho rằng cõi này là cõi tạm. Ông vua ngày xưa sau khi chết bắt giết
người thân cùng vàng bạc tài sản phải được chôn theo, để về sống bên kia thế
giới vĩnh hằng buộc người khác phải chết khổ theo mình, sự thật quá tàn độc.
Chưa về được thế giới bên kia, mà hiện tại không biết bao người phải khổ lụy
theo, liệu ta có thể yên vui nơi thế giới xa lạ đó, hay là trong lòng ta mang
theo nhiều oán hận thù hằn. Ai làm người
chắc ít nhiều gì đó cũng từng nếm trải chút đắng cay trong cuộc đời, chúng ta
không nên bi quan chán nản mà phải tự mình vươn lên nhìn thấy được sự thật của
nó, để dũng cảm vượt qua. Tuy rằng có té đau đôi chút, nhưng không đến nỗi làm
ta phải chịu gục ngã, ta có thể vấp ngã từ đất và ta cũng từ đất đứng lên, phải
không các bạn?
BÍ QUYẾT LÀM NGƯỜI TỐT
Người sống có đạo đức là người thường đem lại niềm an vui chan hòa tình
yêu thương đến với tất cả mọi người không phân biệt người thân hay kẻ thù. Nên
đạo đức là hoa thơm trái ngọt là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời
sống con người. Vì vậy người Phật tử phải là người có nhân cách tốt, muốn thế
chúng ta cần phải rèn luyện và gìn giữ năm điều đạo đức. Người hay giết hại có
đạo đức không? Dạ không. Người hay trộm cướp lường gạt có đạo đức không? Thưa
không. Người hay tà dâm lấy vợ người có đạo đức không? Dạ không. Người hay nói
dối hại người có đạo đức không? Thưa không. Người hay uống rượu say sưa hoặc
dùng các chất độc hại như xì ke ma túy có đạo đức không? Dạ không. Vậy người
con Phật:
Hãy nói không, với các
điều xấu ác.
Hãy nói có, với các
điều tốt lành.
Hãy giữ tâm, không
khởi niệm phiền não.
Hãy vì lợi ích tất cả
chúng sinh.
Nghe lời Phật dạy tu
trì,
Hạnh lành gieo mãi
đến khi quả thành.
Vì
sao chúng ta cần phải làm người tốt? Làm người tốt để chúng ta có cơ hội giúp
đỡ gia đình sống an vui hạnh phúc và dấn thân phục vụ xã hội, đem tình thương
đến với mọi người, sẵn sàng chia vui sớt khổ, để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh.
Đó là chất liệu sống cần thiết giàu lòng nhân ái, để hình thành một nhân cách
phẩm chất đạo đức nơi mỗi con người.
Một
người sống có đạo đức là người không bao giờ dám làm các việc xấu ác, vì họ
biết rõ ràng nhân xấu ác sẽ đem đến quả khổ đau cho nhiều người. Vậy đạo đức là
gì? Đạo đức là những gì tốt đẹp trong mỗi con người, từ những ý nghĩ lời nói
hành động của họ làm cho mọi người chung quanh cảm mến, ưa thích và có thể đem
an vui lợi lạc ngay trong hiện tại. Một con người có nhân cách đạo đức tốt,
phải phát xuất tự nội tâm trong sáng thanh tịnh, như vậy đạo đức là cái tốt ở
bên trong, được thể hiện hài hòa bởi hành vi giao tiếp đối xử bình đẳng với mọi
người không phân biệt thân hay thù. Người hay vị tha để giúp đỡ mọi người tùy
theo khả năng, có khi giúp một lời nói để họ vượt qua cơn sợ hãi, một ly nước
để giúp người qua cơn khát, hoặc nhiều hơn nữa giúp một số tiền lớn để cứu
người qua cơn hoạn nạn. Vậy người sống có đạo đức là người biết đem tình thương
chia sẻ đến cho nhiều người, biết kính trên nhường dưới sống vui vẻ bình đẳng
với mọi tầng lớp trong xã hội. Đạo đức là hoa thơm trái ngọt luôn bay ngược
chiều gió, là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống hiện tại. Con
người muốn có nhân cách đạo đức tốt cần phải rèn luyện từ tuổi ấu thơ và hãy
nên nói không với các điều xấu ác và hãy nên nói có với các điều tốt lành.
Người sống có nhân cách đạo đức tốt là người thường xuyên biết chia vui sớt
khổ, sống chân thật rộng lượng biết kính trên nhường dưới, biết bao dung và tha
thứ, biết thương yêu và giúp đỡ, biết hy sinh và chịu đựng nhận phần thiệt về
mình. Nhân cách đạo đức là hoa thơm trái ngọt, là món ăn tinh thần không thể
thiếu trong đời sống nhân loại.
Bạch
Cư Dị là một ông quan và là nhà thơ nỗi tiếng thời Đường ở Trung Hoa. Đến tuổi
trung niên ông phát tâm tu học Phật pháp. Nghe đồn rằng có một thiền sư chuyên
ngồi trên chảng ba của một gốc cây cổ thụ đã ngộ đạo, nên mọi người thường gọi
là thiền sư Ô Sào (ổ quạ). Tiếng lành vang xa, Bạch Cư Dị muốn tìm đến ngài để
cầu thưa hỏi Phật pháp, mong nhận ra lẽ thật để tu hành.
Vừa
đến nơi đã thấy thiền sư ngồi trên cây, Bạch Cư Dị liền nói rằng chỗ ở của
thiền sư rất là nguy hiểm. Thiền sư bình tỉnh nói rằng, chỗ ở của ông mới thật
là nguy hiểm. Ông Bạch cư Dị nói, chỗ con làm sao nguy hiểm bằng chỗ thầy được.
Thiền sư nói, ta tuy ngồi trên cao thấy dường như nguy hiểm nhưng là chỗ an
toàn, để tu tập chuyển hóa các tham sân phiền não có tính cách hại người hại
vật, nên không nguy hiểm mà còn có thể lợi ích cho nhiều người trong hiện tại
và mai sau. Chính chỗ ông đang làm việc mới thật là nguy hiểm, bởi ông làm quan
có quyền hành thế lực trong tay, nếu không phải là người liêm chính chí công vô
tư, thì sẽ làm tổn hại cho nhiều người, bởi vì lòng tham con người như giếng
sâu không đáy không cùng tận, không biết bao nhiêu mới gọi là đủ.
Sau
khi nghe lời giải thích của thiền sư, ông mới hỏi thế nào là đại ý Phật pháp?
Thiền sư trả lời:
Không làm các việc ác
Hay làm các việc lành
Giữ tâm không phiền não
Đó là lời Phật dạy.
Bởi vì ông quan này đã từng tham cứu nhiều
ngữ lục, nên nghĩ rằng thiền sư phải dùng thiền ngữ trả lời mới đúng. Ông ta tự
hào mình đã thông đạt bí quyết nhà thiền, nên khinh khỉnh nói rằng: “Câu này
con nít tám tuổi trả lời cũng được” hòa thượng dạy con nghe tầm thường quá.
Thiền sư liền bồi tiếp cho một câu, “nhưng ông già tám mươi tuổi làm cũng chưa
xong”. Ngay nơi câu nói này, Bạch cư Dị nhận ra yếu chỉ Phật pháp, sau đó phát
tâm dựng một nhà trúc ở dưới gốc cây để thiền sư có chỗ nghỉ ngơi, thuận tiện
trong việc tu tập và giáo hóa chúng sinh.
Lời
Phật dạy ngàn kinh muôn luận, nhưng cuối cùng chỉ tóm gọn trong bốn bài kệ trên,
chẳng qua nhân loại có nhiều phiền não trần lao thì Phật phải đưa ra nhiều vị
thuốc. Mục đích của đạo đức giáo dục nhân cách sống không gì khác hơn là giúp
cho con người nhận ra thân phận của mình, để làm sao dựng lập đời sống gia đình
phù hợp với sự vận hành của vũ trụ. Nghĩa là mọi người hãy luôn có ý thức trong
việc chuyển hóa các tâm niệm xấu ác đang lỡ phát sinh, vì sự mê lầm của chính
mình. Và chúng ta có thể tìm cách ngăn chặn những tư tưởng xấu có thể phát
sinh, bằng sự quán chiếu thường xuyên của tuệ giác từ bi. Không có con đường
nào tốt đẹp hơn là con đường trở về nội tâm của chính mình, tâm chính là cội
nguồn của hạnh phúc và khổ đau. Ta không cần phải tìm kiếm những gì ở nơi xa
xôi, mà ngay nơi con người chúng ta có đủ năng lực để mình nương tựa. Trong ta
có đầy đủ tất cả những bình yên và hạnh phúc lâu dài, nếu ta quyết tâm nương
tựa chính mình. Ít ai nhận ra điều đó. Ta cứ mãi lang thang làm khách phong
trần mãi, chính vì vậy khi làm việc gì ta mang theo cái tôi ích kỷ và như thế
sẽ làm cho nhân loại khổ đau. Con người ngày nay tiếp cận nền văn minh vật chất
hưởng thụ đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết, nhưng cũng là kẻ chịu khổ đau nhiều
nhất vì sự ích kỷ của chính mình. Làm quan tức có phước báo nhiều đời, nhưng
nếu sống không vì lợi ích tha nhân thì sẽ làm tổn hại cho nhiều người, cho nên
khi có quyền cao chức trọng nếu người đó không có đức hạnh thì vô tình hại
nước, hại dân, bởi do thói quen chấp ngã và chiếm hữu. Vì vậy thiền sư nói, chỗ
của ông mới thật sự nguy hiểm, nếu ông sống không có đức hạnh. Không làm các
việc ác, mà hay làm các việc lành tuy nghe đơn giản, nhưng chỉ có người đức
hạnh hay các vị Bồ tát mới kham nỗi, còn chúng ta hạng phàm phu tục tử hành cả
đời chưa chắc xong. Nội một cái các tâm niệm xấu ác chúng ta chưa chắc đã
chuyển hóa hết được, huống hồ là hay làm các điều tốt đẹp, nên thiền sư nói ông
già 80 tuổi làm cũng chưa xong. Đó là một sự thật, khi có quyền cao chức trọng
chúng ta dễ dính mắc vào công danh sự nghiệp, nhất là đàn ông càng lớn tuổi
càng bám vào quyền lực nhiều hơn, nên rất hiếm người sống vì lợi ích tha nhân.
Do đó muốn làm người tốt và có nhân cách đạo đức, phải là người Phật tử thuần
thành giữ năm giới và tu thập thiện, khả dĩ mới giúp nhân loại sống bình an và
hạnh phúc thật sự.
THAY LỜI KẾT
Sau
một thời gian tu học tại Thiền Viện Thường Chiếu có người hỏi tôi: Việc làm
hằng ngày của thầy thế nào? Tôi chỉ mĩm cười nói:
Sáng nấu cơm, vui cùng đại
chúng.
Trưa đến vườn lan, nhìn cá bơi.
Chiều về, viết sách vui đây
đó.
Tối lại, quay về việc chính
mình.
Đêm đến, duổi thẳng hai
chân ngủ.
Đó
là việc làm hằng ngày của tôi, chỉ đơn giản như thế! Cuộc sống của tôi bây giờ
là vậy đó, mỗi ngày đều hân hoan vui vẻ nấu cơm để cúng dường đại chúng. Ngày
nào không được nấu cơm phục vụ cúng dường đại chúng trọn vẹn là ngày đó, tôi
cảm thấy như đang thiếu thốn một cái gì. Con người là một chúng sinh cao cấp
hơn hẳn các loài khác nhờ biết suy tư, quán chiếu, tìm tòi. Thật ra có sống để
làm việc, học và tu theo lời Phật dạy, chúng ta mới thấy Ngài là một con người
có tấm lòng từ bi bao la rộng lớn và vô ngã vị tha. Ngài sống vì mọi người, vì
lợi ích số đông, vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà không vì lợi ích cho riêng
mình.
Phật dạy cho chúng ta thấy một chân lý sáng
ngời ngay nơi thân mỗi người, mà chẳng phải tìm cầu đâu xa, không phải trông
chờ sự ban ơn cứu rỗi của một đấng nào, mà chính mình là thượng đế tối cao của
chính mình. Mình làm lành làm tốt thì hưởng được nhiều phước báu, mình làm ác
làm xấu thì chịu nhiều hệ lụy khổ đau. Một điều kỳ diệu không thể ngờ, từ con
người cho đến muôn loài muôn vật trong bầu vũ trụ bao la này, đều phải sống
nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn tính mạng. Chúng ta không làm ruộng mà vẫn có
cơm ăn, chúng ta không nuôi tầm dệt vải mà vẫn có quần áo để mặc và cứ như thếmọi cái mọi thứ đều đan xen nương tựa chằng chịt lẫn nhau, mà cùng nhau phát
triển và tồn tại theo lý duyên sinh. Nếu nhân loại số đông hướng theo chiều tốt
đẹp thì mọi người sẽ được an vui hạnh phúc và ngược lại sẽ chịu nhiều đau khổ.
Không có cái gì do một nhân mà hình thành, cho nên con người sống với nhau cần
phải có tình thương yêu chân thật bằng sự hiểu biết chân chánh, vì tình người,
tình nhân loại mà cùng nhau chia vui sớt khổ.
Chúng
ta không thể an nhiên vui vẻ để an hưởng hạnh phúc một mình, mà trong khi đó có
nhiều người khác đang gặp phải bất hạnh khổ đau. Sự sai biệt của thế gian là do
nghiệp báo của mọi người đã gieo tạo không đồng, nên có sự chênh lệch về mọi
phương diện, nhưng tất cả đều nương vào nhau mà duy trì sự sống. Người có địa
vị quyền lực cao trong xã hội là nhờ nhiều đời biết giúp ích cho nhân loại, nên
mới có phước báo lãnh đạo một đất nước, không phải bổng dưng và vô cớ mà có
được, hoặc do một đấng tối cao nào có quyền mà định đoạt sắp đặt. Cho đến kẻ
bần cùng trong xã hội cũng có sự đóng góp tích cực, để kết thành một nhân duyên
tốt đẹp nương tựa vào nhau.
Chính vì nguyên lý duyên khởi trùng trùng điệp
điệp mà chúng ta cần phải có trách nhiệm và bổn phận, trên tinh thần đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau tùy theo khả năng, tùy theo điều kiện. Ngày xưa, có một vị
Tăng đã chứng quả A la hán nhưng vẫn phát tâm chụm lò nấu cơm phục vụ đại
chúng. Có người thắc mắc hỏi thầy, vì sao ngài phải làm việc nặng nhọc ấy. Thầy
nói, ta đã năm trăm kiếp vì thấy biết sai lầm tạo nghiệp xấu ác nên đã bị đọa
vào các loài súc sinh, chỉ có hai kiếp là được no đủ. Còn chúng ta bây giờ thọ
dụng của đàn na tín thí quá nhiều, nợ này biết chừng nào mới trả xong. Nhìn
gương hạnh của cổ nhân, mỗi người hãy tự kiểm lại chính mình mà tự hổ thẹn để
cố gắng làm sao xứng đáng là người Phật tử chân chánh. Tôi bây giờ đủ nhân
duyên được xuất gia làm Tăng, nên cũng cố gắng bắt chước làm theo công việc của Ngài.
Cho
nên sáng nấu cơm vui cùng đại chúng, trưa đến vườn lan nhìn cá bơi. Lúc cần làm
việc thì cứ làm việc tận tụy hết sức để vuông tròn trách nhiệm của mình. Đến
khi việc hết thì, “được việc thảnh thơi cứ thảnh thơi”. Chim bay trên trời, cá
lội dưới nước, mọi việc đều như thế có gì là sai khác đâu. Tổ đình Thường Chiếu
là thiên đường của hạnh phúc, nơi đây đã dung nạp trên một ngàn Tăng ni nếu ai
có dịp đến tham quan và chiêm ngưỡng, thì tạm thời bao nhiêu phiền muộn khổ
đau, sẽ đều bị cuốn trôi theo chiều gió. Chúng ta có đôi mắt sáng để thấy rõ
muôn sự muôn vật, luôn tạo cho nhau có sức sống để trở thành con người tâm linh.
Mà con người tâm linh là con người biết đóng góp dấn thân và phục vụ, đem an
vui hạnh phúc đến cho nhiều người và sẳn sàng sẻ chia nỗi khổ niềm đau để làm
vơi bớt nỗi đau bất hạnh. Tôi cùng mọi người cố gắng học hỏi và bắt chước gương
hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm, hãy cùng nhau lắng nghe tiếng kêu cứu khổ của con
người, hãy cùng nhau kết nối tình yêu thương. Việc làm của Bồ tát là việc làm
cao thượng khó thấy hiếm có trên đời, chúng ta có nhân duyên tốt mới diễm phúc
được gặp ngài và cùng đi theo con đường có hiểu biết và yêu thương, dấn thân và
phục vụ, của Bồ tát Quán Thế Âm.
Tôi có nhân duyên lớn với ngài từ khi mới mở
mắt chào đời, cơn bệnh ngặt nghèo tưởng chừng đã cướp đi sinh mạng của tôi
trong lúc cận kề với cái chết. Mẹ tôi nằm chiêm bao, thấy Bồ tát Quán Thế Âm
hiện về bảo rằng, muốn giúp đứa bé này sống còn, để sau này có thể làm lợi ích
cho chúng sinh, thì hãy mau đến núi Bà đen sẽ có vị thầy cứu chữa. Nhờ vậy, tôi
được sống còn và lớn lên, tồn tại đến bây giờ. Và một lần nữa tôi được Bồ tát
Quan Âm cứu giúp để thay đổi cuộc đời xấu ác của mình, đó chính là người mẹ của
tôi. Nhân duyên lớn tôi được xuất gia ở Thường Chiếu và từ đó tôi được thay da
đổi thịt, nhờ sự hết lòng chỉ dạy của thầy lành bạn tốt.
Đối
với tôi, ơn mẹ chưa đền đáp, lại thêm, ơn sâu của thầy tổ, mẹ đã cho tôi sự
sống, thầy đã cho tôi sự hiểu biết và yêu thương. Tôi bây giờ,
Càng cố gắng thêm hơn nữa, để được sống yêu
thương và hiểu biết.
Việc
chung đã làm xong, giờ tiếp tục phát huy thêm vai trò cùng chia vui sớt khổ
bằng sự trải nghiệm của chính mình, nên chiều đến viết sách vui đây đó, để có
dịp chia sẻ cùng vớt tất cả mọi người. Muốn vậy thì, phải tham khảo tìm hiểu
lời Phật dạy qua sự quán xét suy tư soi sáng lại chính mình, rồi từ đó tùy theo
nhân duyên mà kết tình bạn lữ gần xa, để được đồng hành cùng mọi người trên
tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Niềm tin và lý tưởng sống rất
quan trọng đối với con người, nếu ta không biết mà định hướng sai lầm, thì làm
cho mình và người khổ đau. Nhưng, thế gian này biết bao là chủ thuyết học
thuyết tôn giáo, ai cũng cho mình là đúng và tốt đẹp. Chính vì muốn bảo vệ chủ
thuyết của mình mà con người đành lòng giết hại lẫn nhau. Một hôm, Phật đến một
làng nọ thì người dân ở đây mới thưa hỏi rằng, kính bạch Đức thế tôn có nhiều
Sa môn đến đây tuyên truyền vận động kêu gọi chúng con theo đạo của họ, ai cũng
bảo rằng chỉ đạo của họ là tốt, vậy làm thế nào chúng con biết đạo đó là đúng,
là tốt.
Đức
Phật không trả lời mà còn hỏi lại các người dân như sau: Này các thiện nam tín
nữ tham lam sát sinh hại người, hại vật có tốt không? Si mê nóng giận làm khổ
đau thiên hạ có tốt không? Tất cả mọi người đều trả lời không. Này các thiện
nam tín nữ khi nghe một điều gì, các vị phải biết quán sát suy tư và thể
nghiệm, chớ nên vội tin một điều gì và cho đến khi quí vị thấy lời dạy này tốt
lành, đạo đức hay giúp mọi người hướng thiện, chói sáng được các bậc hiền trí
khen ngợi. Nếu sống và thực hành các lời dạy ấy sẽ đưa đến an vui hạnh phúc về
lâu về dài, thì quí vị hãy đặt hết niềm tin vào giáo pháp đó và cố gắng bắt
chước thực hành theo. Đức Phật chia sẻ tiếp, này các thiện nam tín nữ nếu ai
khuyên nhũ chúng ta, không giết hại chúng sinh, không trộm cướp lường gạt của
người khác, không quan hệ tình cảm bất chánh ngoài vợ chồng chính thức, không
nói láo hại người, không uống rượu say sưa. Như lai tuyên bố và xác quyết rằng,
nếu ai giữ được những điều vừa kể trên, thì người ấy sẽ sống hạnh phúc và an
lạc lâu dài.
Quả
thật chúng ta quá diễm phúc nên mới gặp được Như lai thế tôn, ngài không bắt
buộc mọi người tuân theo một cách giáo điều như các nhà truyền đạo khác. Đó là
điểm đặc biệt của người tu theo đạo Phật, ngài chỉ hướng dẫn cho chúng ta thấy
rõ đây là con đường dẫn đến an vui hạnh phúc, đây là con đường dẫn đến sa đọa
khổ đau. Và ngài đã khuyên nhủ chúng ta trước khi tin theo hãy nên quán chiếu
sâu sắc, thể nghiệm được sự lợi ích thật sự cho mình, có thể giúp đỡ cho tha
nhân được an lạc ngay trong giờ phút hiện tại. Đó mới chính là niềm tin chân
chánh, quí vị nên học hỏi và bắt chước noi theo.Tin như vậy mới là niềm tin
không thối chuyển, bởi vì chúng ta đã biết rõ được cội nguồn của hạnh phúc và
khổ đau.
Cho
nên tối đến thích làm tăng vô sự, công việc trong ngày đã làm xong mọi cái đều
được sắp xếp đi theo dòng thời gian vô tận, không còn gì đáng phải bận tâm nữa.
Ai có duyên lành sẽ nhìn thấy chỗ này, rất ư là vi tế. Chúng ta cứ tưởng mọi
cái mọi thứ đều dừng lắng hết, nhưng không phải vậy! Dòng nước cứ trôi mãi, chỉ
chậm hay mau mà thôi. Cho đến lúc chúng ta cảm thấy hình như dòng nước đang
dừng hẳn, không có dấu hiệu trôi đi, nhưng cũng không hẳn là như vậy. Từ đằng
xa của một thác nước đang tuôn chảy, chúng ta chỉ nhìn thấy một vệt trắng không
lay động. Chúng ta có thể lầm tưởng như vậy là xong, nhưng không đâu các bạn,
vì vô tâm còn cách một lớp rào. Nếu ai tới đây tự mãn coi như là xong, thì suốt
đời sống trong hang quỷ, chẳng lợi ích gì cho ai. Tôi cũng muốn làm Tăng vô sự
lắm, nhưng tập khí nhiều đời cứ che chướng mãi nên có đôi lúc cũng muốn phát
khùng lên vậy. Thôi thì làm Tăng vô sự không được, thì đành cam chịu làm Tăng
nhiều việc, cũng tạm có chút cơm cháo sống qua ngày tháng.
Một
chút duyên lành có được ngày hôm nay, xin nguyện hồi hướng đến với tất cả muôn
loài, mong cùng nhau kết nối tình yêu thương để chúng ta được sống có tình
người, tình nhân loại trong cuộc sống.
Phong Trần Trúc Giác
){
Discussion about this post