TIỂU SỬ VẮN TẮT ĐỨC PHAKMODRUPA DORJE GYALPO (1110-1170)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham. Theo một số tài liệu, cha Ngài tên là Wena Atar và mẹ Ngài là Tsunne. Họ qua đời khi Ngài mới chỉ là đứa bé khoảng bảy tuổi. Các nguồn khác cho rằng họ tên là Tsangpa Paldrak và Tsangmo Rinchen Gyen. Em trai của Ngài, (hoặc theo một số nguồn, em họ), vị sau đó được biết đến với danh hiệu Dampa Deshek (1122-1192), sau này thành lập một Tu viện Nyingma cổ xưa vô cùng quan trọng ở Kham gọi là Kathok. Người ta nói rằng trước khi lên ba, Ngài Phakmodrupa có thể nhớ rằng Ngài từng là một con khỉ vào thời của Phật quá khứ – Đức Ca Diếp. Ngài quên chuyện đó khi cha mẹ cho Ngài ăn thịt ô nhiễm, nhưng phục hồi lại ký ức về đời quá khứ này sau đó.
Khi cha mẹ qua đời, Ngài Phakmodrupa được đặt dưới sự chăm sóc của chú, một tu sĩ có công việc ở bên ngoài Tu viện nhỏ, Chakhyi Lhakhang, như một thầy tu gia đình. Người chú này đã tài trợ cho thời kỳ mới tu của Ngài, trong khi Ngài lại giúp chú bằng cách làm nhiều việc khác nhau, chẳng hạn minh họa các bản thảo. Ngài có tài năng thiên bẩm về hội họa và thi pháp, làm chủ đọc và viết không chút khó khăn. Sau đấy, Ngài làm người giữ ghi chép cho Khenpo Tsultrim, vị trụ trì của Tu viện; vì vị này, Ngài cũng chép một quyển kinh Bát Nhã Ba La Mật bằng chữ bạc.
Khi Ngài Phakmodrupa khoảng hai mươi tuổi, mang theo chút ngọc lam để làm vốn, Ngài du hành một hành trình dài đến các vùng trung tâm của Tây Tạng. Ở đó, sau khi thọ đại giới vào năm hai mươi lăm tuổi, và sau nhiều năm nghiên cứu tại các nơi khác nhau – ban đầu chủ yếu là với những vị thầy Kadampa, và sau đấy là những vị thầy của truyền thừa Mật thừa tồn tại khi ấy – Ngài tìm ra một vị thầy mà Ngài dành khoảng mười hai năm thân cận. Đây là một trong những đạo sư Mật thừa nổi tiếng nhất của trường phái Sakya từ thời xa xưa – Đức Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158). Trong thời gian thân cận Đức Sachen, Ngài chủ yếu nghiên cứu và thực hành Lamdre. Ngài đã biên soạn một trích yếu các giáo lý Lamdre, điều vẫn còn tồn tại, được gọi là Pedzod-ma.
Sau đấy, Ngài dành hai năm bên Đức Gampopa Sonam Rinchen (1070-1153), một đệ tử thân cận của Tổ Milarepa. Ban đầu, khi Ngài đến trụ xứ của Đức Gampopa, Daklha Gampo, cùng với Zhang Yudrakpa Tsondru Drakpa (1123-1193), Đức Gampopa khó ở và không tiếp khách; vì thế, Ngài dành bốn ngày gánh đất và đá để xây dựng một bảo tháp. Kết quả là, Ngài có thể thọ nhận giáo lý và dưới sự dìu dắt của Đức Gampopa, Ngài được cho là đã đạt thành tựu viên mãn về Đại Thủ Ấn. Những năm tháng không mệt mỏi tìm kiếm sự dẫn dắt tâm linh của Ngài đã hoàn mãn. Một vài trong số những cuộc đối thoại của Ngài với Đức Gampopa về thiền định vẫn còn có thể đọc được cho đến nay.
Một ẩn sĩ ở vùng về phía Đông của thành Tsetang, một nơi được gọi là Phakmodru, trao cho Ngài ẩn thất thiền định của ông ấy. Đó là một nơi có vẻ đẹp tự nhiên lớn lao với nhiều cây bách xù. Dần dần, các thiền gia khác đã đến đó và dựng thất của họ, điều tạo thành trung tâm ban đầu cho Tu viện Densatil. Nơi này về sau trở thành Tu viện ‘mẹ’ cho hàng trăm Tu viện khác và vào thời kỳ đầu này, nó thường được gọi đơn giản là Densa, “trụ xứ”.
Sau đó, vào thời kỳ mà Tây Tạng được cai quản bởi Triều đình Phakmodru (1350-1481), các bảo tháp oai nghiêm, thứ đóng vai trò là mộ tháp hoàng gia, đã được xây dựng ở đây. Địa điểm nơi có thiền thất đơn giản từ cỏ và cây liễu của Đức Phakmodrupa – nó đã tồn tại cho đến giữa thế kỷ hai mươi – vẫn được xem là địa điểm linh thiêng nhất của Tu viện. Khi Đức Phakmodrupa giảng dạy ở đó, người ta nói rằng các tu sĩ thường phủ kín mặt đất tuyến đường từ thất của Ngài đến ngai tòa thuyết giảng bằng mũ, y phục và khăn Katak của họ. Các tu sĩ bị thu hút từ những nơi xa xôi bởi các tường thuật phổ biến rằng, hầu như không có ngoại lệ, những vị tham dự các buổi giảng của Ngài Phakmodrupa đều có các kinh nghiệm thiền định rất mạnh mẽ.
Sau đây là ví dụ ngắn từ các giáo lý của Ngài Phakmodrupa, với sự nhấn mạnh vào thiền định. Nó được trích từ Thang Bảo Châu:
Những người nương tựa [vào các triết lý này]
Có thể đạt được sự chắc chắn nhờ khả năng hiểu biết của họ
Về các tri kiến đa dạng khác nhau của họ,
Nhưng bởi họ không hiểu hay chứng ngộ chúng
Nhờ thực hành thiền định,
[Tri kiến] của họ là tri kiến chẳng có chứng ngộ.
Không chỉ trong ba vô lượng kiếp,
Mà thậm chí trong một triệu, họ có thể đi theo lối của họ.
Vẫn chẳng thể ép dầu từ vỏ khô.
Họ có thể cày cuốc mặt đất mùa đông,
Nhưng mùa xuân đến cũng chẳng có kết quả nào.
Những vị muốn đi về Đông
Uổng phí bước đi khi đi về Tây.
Những người đau khổ bởi cái nóng oi ả
Muốn bóng mát, nhưng chắc chắn, họ cứ lặp đi lặp lại
Sưởi bên lửa,
Họ sẽ chỉ tiếp tục đau khổ bởi nóng.
Ngài Phakmodrupa xem bản thân là đầy tớ của tất cả hữu tình chúng sinh và bất cứ cúng dường nào mà Ngài nhận được đều được dùng vì sự an lành của toàn bộ cộng đồng tu sĩ. Ngài ăn đồ ăn giống như những vị khác. Ngài rất nghiêm khắc về việc giữ gìn giới luật Luật Tạng của bản thân và mong chờ điều tương tự từ cộng đồng của Ngài. Ngài không xem thường bất kỳ nhiệm vụ nào và được biết là đã gánh nước và dọn tro. Ngài đi khất thực cùng với những tu sĩ khác, một thực hành nổi tiếng ở các nước Phật giáo Theravada nhưng khác thường ở Tây Tạng. Ngài có thói quen sống cô tịch trong giai đoạn trăng khuyết dần, nhưng trong giai đoạn trăng tròn dần, Ngài thường ban giáo lý mỗi buổi chiều. Nhiều trong số những thời giảng dạy được gọi là Tsogcho này đã được ghi chép lại và chúng là những bài giảng lôi cuốn.
Khi Ngài Phakmodrupa qua đời vào năm 1170, sự kiện được cho là đồng hành cùng nhiều dấu hiệu tuyệt vời về sự thành tựu cao cấp của Ngài. Khoảng 1600 tu sĩ đã tham dự tang lễ của Ngài. Nhiều môn đồ cư sĩ và tu sĩ của Ngài quyết định xây dựng một bảo tháp để lưu giữ xá lợi của Ngài. Một nhóm thợ thủ công Newar, dẫn đầu bởi Manibhadra, đã thực hiện nhiều công việc liên quan. Ngoài chân dung của những đại thành tựu giả, bảo tháp có 2170 hình tướng khác nhau của Phật.
Truyền thừa của Ngài Phakmodrupa thường được gọi là Phakdru Kagyu hay thuật ngữ này được dùng như một cách để bao gồm tất cả truyền thừa xuất hiện từ các đệ tử của Ngài. Quan trọng và nổi tiếng nhất trong các truyền thừa hay trường phái này là Drukpa Kagyu – điều đến từ đệ tử Lingrepa Pema Dorje (1128-1188), Drikung Kagyu – điều đến từ Jigten Gonpo Rinchen Pal (1143-1217) và Taklung Kagyu từ Taklung Thangpa Tashi Pal (1142-1209/10). Năm đệ tử khác, những vị thiết lập các truyền thống riêng biệt của Kagyu (hay là đạo sư của những vị sáng lập) là: Marpa Sherab Yeshe (1135-1203) – vị sáng lập Martsang Kagyu, Gyergom Tsultrim Senge (1144-1204), vị sáng lập Shukseb Kagyu, Gyaltsa Rinchen Gon (1118-1195) – vị sáng lập Tu viện Tropu, trụ xứ của Tropa Kagyu được khởi xướng bởi đệ tử Tropu Lotsawa Jampa Pal (khoảng 1172-1225/1236), Yabzang Choje Chokyi Monlam (1169-1223) – vị sáng lập Yabzang Kagyu và Yelpa Yeshe Tsek (1134-1194) – vị sáng lập Yelpa Kagyu.
Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Pakmodrupa/TBRC_P127.
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.
Discussion about this post