THIỀN TÔNG:
MỘT NHÁNH CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
TRONG CÁC NƯỚC PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
KHÔNG CÓ “TIỂU THỪA” (HINAYANA)
TRONG PHẬT GIÁO
Biên dịch:
Thích Nữ Liễu Pháp
Lê Kim Kha
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG

Ni Sư
Thích Nữ Liễu Pháp giữ bản quyền bản dịch “Thiền Tông: Một Nhánh Của Phật Giáo
Nguyên Thủy Trong Các Nước Đại Thừa”. Tác giả Chan Khoon San giữ bản quyền
nguyên bản tiếng Anh (“Không Có Tiểu Thừa Trong Phật Giáo”) và đã cho phép
người dịch biên dịch ra tiếng Việt. Hai bản dịch tiếng Việt này được in để ấn
tống miễn phí và không được sao in để bán, trừ một số
ấn bản nếu có sự đồng ý của những người dịch.
Phiên bản PDF dành cho máy vi tính: Thiền Tông: Một Nhánh của Phật Giáo Nguyên Thủy PDF
Phiên bản PDF dành cho Book Reader Kindle 3: Thiền Tông: Một Nhánh của Phật Giáo Nguyên Thủy PDF Kindle 3
Phiên bản EPub dành cho IPad: Thiền Tông: Một Nhánh của Phật Giáo Nguyên Thủy EPub
Mục Lục
(I)
THIỀN TÔNG: MỘT NHÁNH CỦA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY TRONG
CÁC NƯỚC PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
(II)
KHÔNG CÓ “TIỂU THỪA”
(HINAYANA) TRONG PHẬT GIÁO
Giáo 72 5. Ai Là Những Trường Phái Phật Giáo Bảo Thủ Kinh Bộ (Nikayas)? 77 6. Chủ Thuyết Của Những (18)
Trường Phái Bảo Thủ Kinh Bộ Nikayas 85 (A) Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) và những bộ phái liên quan: 85 (B) Theravada (Trưởng Lão Bộ) và những bộ phái liên quan: 88 7. Sách & Tài Liệu Tham Khảo 93 8. Lời Người Dịch 95
THIỀN TÔNG: MỘT NHÁNH CỦA PHẬT
GIÁO NGUYÊN THỦY
TRONG CÁC NƯỚC PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA Tác giả: SHANTA RATNAYAKA Biên dịch: Thích Nữ Liễu
Pháp
Một Nhánh Của
Phật Giáo Nguyên Thủy
Trong Các Nước Phật Giáo Đại Thừa
Người phương Tây biết Thiền Tông từ Nhật Bản, và Nhật Bản lại học thiền
từ Trung Quốc. Vì Trung Quốc và Nhật Bản là các nước theo Phật giáo Đại thừa (Mahayana)
nên thiền tông cũng thường được xem là một nhánh của Phật giáo Đại thừa. Nhưng
một vài sự kiện lịch sử và thực tế chứng minh rằng thiền tông là sự tiếp nối
của Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada), hình thức uyên nguyên nhất của
Phật giáo.
Mối quan hệ giữa Phật giáo Nguyên Thủy và thiền tông chưa được các học
giả chú ý vì những nguồn tài liệu gốc của Phật giáo Nguyên Thủy chưa được dịch
đầy đủ sang tiếng Anh, hơn nữa, một vài khía cạnh của Phật giáo Nguyên Thủy đã
bị giải thích lệch lạc trong các tác phẩm hiện đại.
Phần đầu của bài
viết này sẽ điều chỉnh những quan niệm sai lầm về Phật giáo Nguyên Thủy. Phần thứ
hai nhằm xác định nguồn gốc của thiền tông, và phần thứ ba sẽ chỉ rõ những điểm
tương đồng trong kinh nghiệm tâm linh, phương pháp hành thiền, con đường giác
ngộ, cách diễn tả của những bậc giác ngộ, và đời sống của các vị tu sĩ, giữa
thiền tông và Phật giáo Nguyên Thủy.
Thiền Tông Khác Hẳn
Với Phật Giáo Đại Thừa
Mặc dầu thiền
tông tồn tại ở các nước theo Phật giáo Đại thừa, giáo lý và phương pháp thực
hành của thiền tông không giống với các tông phái khác của Đại thừa. Chẳng hạn
Tịnh Độ Tông, một tông phái lớn của Đại thừa, hướng dẫn người tu chỉ dựa vào sự
tiếp dẫn của Đức Phật A-di-đà để được giải thoát[1]. Đối với người theo Tịnh
Độ tông, đức tin (Tín) chính là một “quà tặng” (gift) của Đức Phật A-di-đà[2]. Giải thoát nhờ vào tha
lực, như Đức Phật, là một khái niệm xa lạ với thiền tông. Một vị thầy hay một
người bạn có thể hướng dẫn phương pháp hành thiền nhưng vị thầy không phải là
đấng cứu rỗi. Như D.T. Suzuki nói “theo tôn chỉ và đạt đến mục đích,
điều này phải tự mình làm chứ không do sự trợ giúp của người khác”[3].
Điều này hoàn toàn trùng hợp với giáo lý của Phật giáo Nguyên Thủy và chứng tỏ
thiền tông rất gần với Phật giáo Nguyên Thủy và khác hẳn Phật giáo Đại thừa.
Vài tác giả cho rằng Phật giáo Ấn Độ có tính
chất siêu hình nên không thể có được phương pháp thực tập như của thiền tông.
Ấn Độ là chiếc nôi của Duy Thức Tông (Yogacara), Mật tông (Mantra School), Hoa Nghiêm tông (Avatamsaka)
hay của Tam Luận tông (Sunyata hay Madhyamika)[4].
Đây chính là những tông phái của Đại thừa, phát triển những yếu tố siêu hình
nhằm trả lời cho những thách thức của triết học Ấn Độ giáo ở Ấn Độ thời bấy
giờ. Mặc dầu Phật giáo Nguyên Thủy không thuộc vào những tông phái này, những
người không nghiên cứu Phật giáo Nguyên Thủy từ văn bản gốc thường nghĩ rằng
Phật giáo Nguyên Thủy là sự tập hợp của những giáo điều có tính cách lý thuyết
như Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Phần sau của bài viết sẽ chỉ rõ rằng cốt lõi
của Phật giáo Nguyên Thủy là sự chứng nghiệm giải thoát (Satori trong
thiền tông) chứ không phải là những lý thuyết dần dần hình thành từ giáo lý và
sự thực hành trên con đường giác ngộ.
Ngay cả ngày nay, các vị sư ở Sri Lanka
vẫn thường tự nhắc nhở yếu tố đơn giản này bằng cách đưa bài kệ sau của kinh
Pháp cú (14:5) vào trong bài tụng Pirit[5]
mỗi buổi tối:
“Sabba pàpassa akaranam
Kusalassa upasampadà
Sacitta pariyodapanam
Etam Buddhasàsanam”
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo
Để truyền đạt Phật pháp một cách vắn tắt, các
vị thiền sư cũng trích cùng bài kệ trên. Khi nhà thơ Hakuratukan hỏi thiền sư
Dorin về bí mật của Phật giáo, ông nhận được câu trả lời:
“Không làm các việc ác
Làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời dạy của chư Phật”[6].
Phật Giáo Nguyên Thủy
Ngay trong thời
Đức Phật, các vị trưởng lão đã duy trì giáo lý của Đức Phật để chỉ rõ con đường
giác ngộ cho cuộc đời. Vì vậy truyền thống Phật giáo xa xưa nhất được gọi là
Thượng Tọa Bộ (Theravada). Trong những thế kỷ đầu tiên của Phật giáo, 18 bộ
phái phát xuất từ Thượng Tọa Bộ nhưng dần dần biến mất. Từ một số bộ phái đó
một tông phái chính được hình thành và được gọi là Đại thừa (Mahayana).
Trong khi Thượng Tọa Bộ được duy trì ở các nước Nam Á như miền Nam Ấn Độ, Sri
Lanka, Thái Lan và Miến Điện, Đại thừa phát triển mạnh ở các nước Bắc Á như
Trung Quốc và Nhật Bản.
Đại thừa chủ trương quả vị Phật là mục tiêu
tối thượng và có thể có nhiều vị Phật trong cùng một thời. Thượng Tọa Bộ chủ
trương quả vị Phật lẫn quả vị A-la-hán đều là mục tiêu bởi vì A-la-hán, những
vị đạt đến giác ngộ bằng cách thực hành theo lời Phật dạy, cũng chứng ngộ Niết
bàn y như Đức Phật. Và mỗi thời chỉ có một vị Phật, tất cả những bậc giác ngộ
khác đều là A-la-hán. Sự thành tựu đạo quả của một vị A-la-hán được gọi là
Thanh Văn giác. Cả Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Nguyên Thủy đều chấp nhận có
ba thừa: Toàn giác Phật, Độc Giác Phật, và Thanh Văn Phật. Hơn nữa, theo cả hai
truyền thống, Đức Phật cũng chính là một vị A-la-hán. Ngoài những điểm trên,
không có sự mâu thuẫn nào giữa Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Nguyên Thủy liên
quan đến vấn đề giác ngộ.
Ngay cả một học giả nổi tiếng như Suzuki cũng
tin rằng “Phật tử Nguyên Thủy đi tìm sự giác ngộ cho chính mình, cho lợi lạc tâm
linh của riêng mình, và hiển nhiên không nghĩ đến những kẻ khác, không nghĩ đến tất cả mọi người, mọi loài”[7].
Điều này là sai!, đây không phải là mục đích của một vị A-la-hán hay
của người theo Phật giáo Nguyên Thủy. Một vị A-la-hán, và ngay cả một người
đang đi trên con đường đến quả vị A-la-hán, sống vì lợi ích và sự tiến hóa của mọi người, mọi loài[8].
Đời sống lý tưởng của Bồ-tát Sumedha minh họa cho chúng ta thấy lý tưởng phụng sự thế gian của Phật giáo Nguyên Thủy. Trước Đức Phật Nhiên Đăng
(Dapankara Buddha), Bồ-tát Sumedha đã trì hoãn sự chứng ngộ của mình để
cứu giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi[9].
Nhiều Phật tử Nguyên Thủy noi theo tấm gương này. Ngay từ những ngày đầu tiên
Đức Phật đã khuyến khích các vị A-la-hán đi khắp nơi để giáo hóa. Sau khi Đức
Phật nhập diệt, chính các vị A-la-hán như ngài Mahakassapa và ngài Ananda đã
gìn giữ giáo pháp của Đức Phật vì lợi ích của thế gian. Trong thời vua Asoka,
bậc A-la-hán Mahinda và nhiều vị trưởng lão khác đã truyền Phật giáo đến các
nước[10].
Cho đến ngày nay, mục tiêu của người Phật tử Nguyên Thủy không chỉ là những
thành tựu tâm linh cho riêng mình mà còn cho sự tiến hóa của mọi người.
Mặc dầu những quan niệm như chi?u tập cho
riêng mình thường được gán một cách sai lầm cho Phật giáo Nguyên Thủy, những
dẫn chứng nêu trên có thể chứng minh cho quan điểm của Phật giáo Nguyên Thủy.
Ngay cả danh từ “Tiểu thừa” (Hinayana) cũng nên được loại ra khỏi vốn từ
của các học giả vì không tồn tại một hình thức Phật giáo nào như thế. Nếu hiểu
cả Đại thừa lẫn Nguyên Thủy một cách đúng đắn thì sẽ thấy rõ điều này. R.D.M.
Shaw, dịch giả cuốn “The Hekigan Rohu”, tuyển tập 100 câu chuyện về các
thiền sư Trung Hoa, đã lưu ý:
“Từ ‘Tiểu thừa’ do Phật tử Đại thừa đặt ra như một
danh từ tỏ ý coi thường một tông phái gồm 18 bộ phái, trong đó chỉ còn một bộ
phái tồn tại. Tông phái này chính là Thượng Tọa bộ đang được thực hành ở các
nước Sri Lanka, Miến điện, Thái lan, và Campuchia… vì vậy không chính xác khi
gọi Nam Tông (Southern School) là Tiểu thừa, và danh từ có tính cách phỉ báng
này, vốn không hề xuất hiện trong Tam tạng, tốt nhất nên được loại trừ trong
cách dùng hiện đại”[11].
Sự Hình Thành Của Thiền
Tông Ở Trung Quốc
Bodhidharma (Bồ-đề Đạt-ma), người sáng lập ra
thiền tông ở Trung Quốc, là một vị sư ở miền Nam Ấn Độ. Ngài đến Trung Quốc vào
năm 520 sau Công Nguyên bởi vì ngài “rất tiếc cho sự suy tàn của giáo lý
chính thống của Đức Phật trong những vùng xa xôi”[12].
“Giáo lý chính
thống của Đức Phật” có thể chính là Thiền Minh Sát (Vipassanà) của Phật
giáo Nguyên Thủy. Một sự nghiên cứu có tính chất so sánh giữa Thiền Minh Sát
của Phật giáo Nguyên Thủy với Thiền của Thiền Tông sẽ chứng minh rằng hai
truyền thống Phật giáo này giống nhau về căn bản. Kết quả của sự nghiên cứu đó
đã giúp cho Winston King
tuyên bố: “tôi cho rằng hai lối thiền này căn bản giống nhau về mặt chức năng và chứng nghiệm, mặc dù phương pháp, cách diễn đạt, và phong vị cảm xúc thay đổi tùy theo bối cảnh văn hóa của mỗi nơi”[13].
Một số trưởng lão
nổi tiếng của Thượng Tọa Bộ được nhắc đến trong cùng thời kỳ với Bodhidharma. Nhà chú giải lỗi lạc Buddhaghosa (Phật Âm) sống ở miền
Nam Ấn Độ vào thế kỷ V trước
khi qua Sri Lanka[14].
Nhà chú giải Buddhadatta là một nhân vật nổi tiếng khác ở Nam Ấn thời bấy giờ. Không lâu sau
đó, Badaratirtha Dhammapala cũng sống ở đây và viết tiếp một số chú giải. Mặc
dầu Thượng Tọa Bộ bắt đầu suy yếu ở Nam Ấn sau thế kỷ VII, nó vẫn còn tồn tại
cho đến thế kỷ XV và duy trì quan hệ tốt đẹp với Phật giáo các nước, đặc biệt
với Sri Lanka và các nước Phật giáo Nguyên Thủy. Thậm chí có một ngôi chùa
Trung Quốc ở Nam
Ấn cho đến cuối thế kỷ XV[15].
Sự kiện này chứng tỏ rằng chính thời điểm đó,
lúc Phật giáo Nguyên Thủy phát triển mạnh ở Ấn Độ, là lúc Bodhidharma (Bồ-đề
Đạt-ma) qua Trung Quốc. Vì vậy, “giáo lý chính thống” mà ngài đem từ Nam Ấn
đến rất có thể là Thiền Minh Sát của Phật giáo Nguyên Thủy. Trước khi ngài đến
Trung Quốc, Phật giáo Đại thừa đã có ảnh hưởng ở Trung Quốc nhờ vào những hoạt động của của Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập).
Hơn nữa, vì Bodhidharma đi bằng đường biển[16],
chắc hẳn ngài cũng đã viếng thăm các nước Phật giáo Nguyên Thủy giữa Nam
Ấn và Trung Quốc.
Độc Lập Đối Với Kinh Điển
Bodhidharma là một người học rộng nhưng rất
độc lập đối với kinh điển. Ngài không giới thiệu kinh sách gì cho các đệ tử
ngoại trừ cuốn Kinh Lăng già (Lankavatara Sutra)[17].
Kiến thức đạt được từ sách vở không đem lại giác ngộ, mục tiêu của sự tu tập.
Từ thuở ban đầu
cho đến tận ngày nay, thái độ của Phật giáo Nguyên Thủy đối với kinh điển cũng
không khác với thái độ của Bodhidharma. Trưởng lão Ananda hầu Đức Phật suốt 25
năm và thuộc lòng tất cả các bài kinh của Đức Phật nhưng vẫn không chứng được
quả A-la-hán cho đến khi trưởng lão Mahakassapa đốc thúc ngài, ba tháng sau khi
Đức Phật nhập diệt[18].
Một ví dụ khác tương tự là trường hợp giác ngộ của Nagasena. Một hôm ngài
Dhammarakkhita nói: “Này Nagasena, như một người đếm bò, nhưng người khác
hưởng những sản phẩm của nó, cũng vậy ông thuộc làu tam tạng kinh điển mà vẫn
không thành tựu được quả vị của sa môn”[19].
Được nhắc nhở như vậy, Nagasena giác ngộ ngay ngày hôm đó. Nagasena làu thông
tam tạng nhưng kiến thức uyên bác của ngài không đem lại sự giác ngộ.
Sau đó, đến thời
của “Thanh Tịnh Đạo Luận” (Visuddhimagga), việc học kinh điển được xem
như là một trở ngại cho việc hành thiền[20].
Một ví dụ của một vị thiền sư cho thấy rằng việc học kinh điển cũng có một vị
trí tương tự trong thiền tông. En-go khuyên đệ tử của ngài nên gạt bỏ tất cả
những “kiến thức tương đối” và “giảng giải”[21].
Thực Chứng
Điều
quý giá nhất đối với trưởng lão Ananda, Nagasena, và hàng trăm tấm gương tương
tự không phải là kiến thức của quý ngài mà chính là sự thực chứng tâm linh ở
bên trong, hay chính là sự giác ngộ mà Đức Phật cũng như các bậc A-la-hán khác
đã đạt được. Trong thiền tông sự giác ngộ này được gọi là Satori, Praja– hay
Pa–
(trí tuệ, bát-nhã). Vipassanà (minh sát) là một từ tương đương tìm
thấy trong tam tạng. Vipassanà trong Phật giáo Nguyên Thủy chính là
“kiến tánh” trong thiền tông vậy. Suzuki chỉ ra rằng “Cốt tủy của thiền Phật
giáo ở chỗ có được cái nhìn mới mẻ về cuộc đời và về mọi sự vật”[22].
Thiền tông hay Phật giáo Nguyên Thủy sẽ vô ích và vô nghĩa nếu không có sự giác
ngộ.
Prajaz (hay Pa– trong Pali) là “con mắt”
để thấy được thực tánh của chính mình và của các pháp. Hành động thấy cũng đồng
thời là hành động giải thoát, và chính tuệ quán đó chính là “tuệ nhãn”[23].
Con mắt mà một thiền giả nhìn thấy chính mình cũng chính là Prajazà[24].
Tuệ quán bao gồm một sự nhận thức đầy đủ về chính tâm mình, hay thực tánh của
chính tâm mình. Có thể tìm thấy sự giải thích chi tiết về điều này trong cuốn
“Thanh Tịnh Đạo Luận” (Visuddhimagga) (phần kiến tịnh – ditthivisuddhi).
Thấy tâm và thấy tánh cũng được các thiền sư giải thích tương tự.
“Một khi ánh sáng của trí tuệ soi thấu vào tự
tánh tâm địa, thì trong ngoài thảy đều sáng tỏ; mọi vật trở thành trong suốt,
và biết được bản tâm của mình. Biết bản tâm tức là giải thoát. Chứng giải thoát
tức là chứng Bát-nhã tam-muội (Prajaza-samàdhi). Ngộ Bát-nhã tam-muội tức
là vô niệm”[25].
Qua Việc Hành Thiền
Từ “Thiền” (Zen hay Chan) bắt
nguồn từ chữ Sanskrit Dhyàna chỉ những trạng thái thần bí đạt được qua
một quá trình dài thực tập định tâm. Mặc dầu có nguồn gốc như vậy, thiền tông
không dạy những trạng thái yoga thần bí hay dhyàna (Thiền Chỉ) mà lại
dạy Thiền Quán.
Thiền của thiền tông không phải là dhyàna
mà là thấy rõ thực tánh bên trong chính mình. Phật giáo Nguyên Thủy xem dhyàna
là pháp tu tiền Phật giáo và Đức Phật không xem nó như là mục đích tối hậu.
Điều này giúp ngài khám phá ra “một hình thức khác của thiền” được gọi là Vipassanà
(tiếng Phạn: Vipasyanà hay Vidarsanà), quán chiếu vào bên
trong của các pháp, dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn của tâm, đến sự giác ngộ
chân lý rốt ráo, Niết bàn[26].
Bodhidharma đã
không đem dhyàna (thiền) đến Trung Quốc mà chắc chắn ngài đã đem Thiền
Quán (Vipassanà) vốn khác hẳn với thiền. Những tác giả không thấy rõ sự
tương tự giữa thiền của thiền tông và thiền quán Vipassanà thường hay
nhầm lẫn giữa Vipassanà và dhyàna[27].
Cả Vipassanà lẫn thiền tông đều không
chủ trương hành giả phải ngồi thiền. Mặt khác cả hai đều không thấy có gì sai
trái trong việc ngồi thiền. Bài kinh “Tứ Niệm Xứ” (Satipatthàna) và
những bài kinh tương tự của Phật giáo Nguyên Thủy cũng khuyến khích việc ngồi
thiền, nhưng thông thường là thền trong mọi oai nghi, ngay cả trong khi làm tất
cả các hoạt động khác. Các vị thiền sư khuyên ngồi thiền (Zazen)[28]
cũng như thiền trong lúc làm các công việc hàng ngày. Đôi lúc các thiền sư định
nghĩa “ngồi thiền” chính là thiền trong mọi oai nghi[29].
Đốn Hay Tiệm?
Ngay từ ngày xuất
gia, Bồ-tát Siddhartha nỗ lực tu tập để tìm sự giác ngộ trong suốt sáu năm và
cuối cùng đã thành tựu. Thật sự thì sự giác ngộ của ngài chỉ diễn ra trong nháy
mắt. Một người tu tập phải trải qua một chặng đường thật dài, nhưng khi giác
ngộ thì lại giác ngộ một cách gần như đột ngột. Sự giác ngộ của trưởng lão
Cakkhupàla là một minh họa khác cho điều này. Ngài Cakkhupàla quá nỗ lực hành
thiền đến nỗi mắt ngài bị mù. Nhưng ngay trong sát na mắt ngài trở nên mù chính
là lúc ngài giác ngộ[30].
Những ví dụ này cho thấy giác ngộ thì nhanh chóng nhưng phải có một sự tiệm
tiến trong đời sống tinh thần để chuẩn bị cho giây phút quyết định đó.
Trong một vài trường hợp sự tiệm tiến không
thấy rõ mà giác ngộ lại quá đột ngột. Therik giác ngộ khi nhìn những ngọn rau
mà cô đang nấu trên bếp[31].
Lúc đó cô chỉ là một cư sĩ tại gia với tất cả những công việc bếp núc nội trợ.
Nhưng đột nhiên cô giác ngộ. Một vị vua của Vàrànasì giác ngộ khi nhìn những
chiếc vòng lắc nhịp nhàng trên tay của hoàng hậu khi bà đang nghiền trầm để làm
bột thơm[32].
Vị vua này chưa một lần bước đến thiền đường trước khi trở thành bậc giác ngộ,
và mặc dầu ở ngài không hề có tiệm tiến, sự đốn ngộ của ngài vẫn là một sự giác
ngộ hoàn toàn.
Tiệm ngộ hay đốn ngộ cũng là một vấn đề quan
trọng trong thiền tông. Dòng thiền của miền Nam Trung Quốc được gọi là “Đốn”
trong khi của miền Bắc là “Tiệm”. Kinh “Pháp Bảo Đàn” của thiền tông giải thích
hai khía cạnh, đốn và ngộ là không khác: “không có sự khác biệt giữa đốn ngộ
và tiệm ngộ. Tuy nhiên, có người thông minh và có người ngu độn. Những người si
mê hiểu từ từ còn những sáng suốt thì hiểu ngay”[33].
Phật giáo Nguyên Thủy cũng có cùng quan điểm. Không có gì khác nhau giữa đốn và
tiệm, cả hai đều có cùng một mục đích. Không những cả hai khía cạnh này mà ngay
cả sự kết hợp của chúng cũng tìm thấy trong Phật giáo Nguyên Thủy, và rõ ràng
với thiền quán Vipassanà nó đã được đem sang Trung Quốc. Hơn nữa, đốn
ngộ không chỉ xuất phát từ Trung Quốc như Suzuki đã lầm nghĩ[34].
Ngộ (Satori) Và Công Án
(Koan)
Một cuộc nói chuyện, một câu hỏi hay một sự
kiện khai mở cho tâm giác ngộ được gọi là công án trong thiền tông. Những cuộc
nói chuyện của Đức Phật đều là những ví dụ điển hình cho công án bởi vì hầu hết
các cuộc nói chuyện đó đều kết thúc bằng việc khai ngộ của người nghe. Tam tạng
và chú giải Pali có rất nhiều những sự kiện như vậy. Sau đây là những ví dụ của
công án từ cả hai truyền thống.
– Thiền tông: I-San hỏi Kyogen,
“Ngươi có thể cho ta biết một chữ từ ngươi trước khi ngươi ra khỏi bụng
mẹ, trước khi ngươi biết phân biệt được chăng?”[35]
– Phật
giáo Nguyên thủy: Trưởng lão Sariputta hỏi Kundakalesa, “Cái gì là một?”[36]
Mặc dầu cả hai
câu hỏi đều dường như làm cho rối trí, nhưng ngược lại cả hai đều đưa đến giác
ngộ.
– Thiền tông: Một hôm khi Kyogen đang
quét sân, một viên sỏi đụng vào khóm tre phát ra một tiếng động và chính tiếng
động ấy đã khai mở cho tâm trí của Kyogen[37].
– Phật
giáo Nguyên thủy: Một hôm khi Patàcàrà đang xối nước rửa chân, cô quan sát nước
chảy trên mặt đất và thấm dần vào lòng đất. Điều này đã khai mở cho tâm cô giác
ngộ[38].
Một sự kiện đơn giản như tiếng vang của viên
sỏi hay hiện tượng nước thấm vào lòng đất đôi lúc có khả năng giúp cho một
người thấy rõ thực tánh của tất cả các pháp.
– Thiền tông: Khi trời tối Ryutan thắp
một ngọn nến cho Tokusan nhưng khi Tokusan định cầm lấy thì Ryutan thổi tắt nó
đi. Bỗng nhiên Tokusan hoát ngộ[39].
– Phật
giáo Nguyên thủy: Một hôm đến phiên Uppalavanna quét dọn giảng đường, sau khi
đã làm xong công việc cô đứng một lát để ngắm ngọn đèn cô cừa mới thắp. Ngọn
đèn này đã thắp sáng ngọn đèn bên trong cô và cô trở thành một vị A-la-hán[40].
Khoảnh khắc giác
ngộ có khi mang đôi chút tính bi kịch. Sau đây là hai ví dụ.
– Thiền tông:
Jojaza hỏi Rinzai: “Cái gì là đại ý của Phật pháp?” Rinzai nhổm dậy, nắm lấy
Jojaza, tát tai và đẩy ông ra ngoài. Jojaza đứng yên. Một vị tăng đứng cạnh
bảo, “Jojaza, sao không lạy tạ đi?” Khi Jojaza cúi lạy, bỗng nhiên ông hoát ngộ[41].
– Phật giáo Nguyên thủy: Một hôm, trưởng lão ni
Dhamma đang trên đường trở về Ni viện, do quá gìa yếu bà té ngã giữa đường.
Quan sát cái té một lát bà đắc quả A-la-hán[42].
Những ví dụ trên đủ
để chứng minh rằng ngộ trong Thiền tông và trong Phật giáo Nguyên Thủy không
đòi hỏi một phương pháp nhất định và không có một lối hành thiền tiêu biểu nào
để đạt được giác ngộ, mà thay đổi tùy theo từng người. Tuy nhiên dần dần các vị
thiền sư trong thiền tông cũng như trong Phật giáo Nguyên Thủy đều vận dụng một
vài cách thức hành thiền như đếm hơi thở hay tập trung vào ánh sáng một ngọn
nến. Những điều này không cần phải giải thích ở đây.
Cách Diễn Đạt
Bởi vì mục đích của
Phật giáo Nguyên Thủy và của Thiền tông là “giác ngộ” nên hành giả của cả hai
truyền thống đều không coi trọng những pháp tu có tính cách bề ngoài như thờ
cúng tượng Phật. Mặc dầu Đại thừa phát triển giáo lý Tam Thân (Trikàya)[43] từ Phật thân, những người theo Phật giáo
Nguyên Thủy tin rằng thân Phật cũng là thân người, và nhìn ngắm, chiêm ngưỡng
hay lễ bái thân Phật ngay cả khi Đức Phật còn tại thế cũng không thể đem lại sự
giác ngộ. Khi tôn giả Vakkali rất thích nhìn ngắm thân Phật, Đức Phật khuyên
Vakkali như sau: “Có ích gì cho ông, này
Vakkali, cái thân nhơ bẩn này mà ông nhìn ngắm? Ai thấy pháp, người đó thấy Như
lai, vì thấy pháp tức là thấy Như lai, thấy Như lai tức là thấy pháp”[44].
Chính giáo pháp này
của Phật giáo Nguyên Thủy đã được Bodhidharma đem qua Trung Quốc. Và lời khuyên
sau đây của Bodhidharma gợi lại những gì được dạy cho Vakkali: “Nếu không
nhìn vào tự tánh thì niệm Phật cũng chẳng ích gì”[45].
Nếu thân Phật lúc
còn sống mà còn vô ích cho sự giác ngộ thì tượng Phật gỗ khỏi cần phải bàn. Các
bộ Ngữ Lục chứng tỏ rằng các vị thiền sư hiểu điều này một cách đúng đắn[46]. Tanaka, một thiền sư, đã hùng hồn phủ
định giá trị của tượng Phật khi chất lửa đốt tượng Phật bằng gỗ để tìm xá lợi (sarìra)
trong đống tro tàn[47].
Những câu nói của
các vị thiền sư bằng văn vần được gọi là kệ (gàthà). Điều này nhắc chúng
ta nhớ đến “Trưởng Lão Tăng Kệ” (Theragàthà), một tuyển tập các bài kệ của
các vị Trưởng lão và là một phần của Tam tạng Pali. “Trưởng Lão Tăng Kệ” cũng
như các bài kệ của thiền tông đều diễn tả niềm hỷ lạc trong kinh nghiệm tâm
linh, cũng như niềm vui trước cảnh đẹp thiên nhiên xung quanh.
Đời Sống Của Các Vị Tu Sĩ
Trên nguyên tắc đời
sống của một vị thiền sư giống với đời sống của một vị sư Nguyên Thủy trong một
túp lều trong rừng hay ở một trung tâm Vipassanà. Cần nhấn mạnh ở đây
rằng đời sống của một vị sư ở trong rừng hay ở một trung tâm Vipassanà ở
các nước Phật giáo Nguyên Thủy, như Sri Lanka chẳng hạn, khác hẳn với đời sống
của các vị sư ở trong chùa. Những vị thiền sư trong cả hai truyền thống đều là
những tấm gương sáng cho sự thanh bạch và giản dị ; họ sống độc thân và cạo
tóc. Mỗi vị chỉ có ba y, bình bát, dao cạo và những vật dụng thiết yếu nhất có
thể mang theo trong túi khi đi nơi khác.
Có những vị sư sống
trong thiền viện. Thức ăn của họ có thể được chuẩn bị ngay trong thiền viện hay
được thí chủ cúng dường. Khi tiếng chuông báo hiệu giờ thọ trai, chư tăng mang
bình bát xếp hàng một theo thứ tự hạ lạp, ngồi xuống trên những cái ghế thấp
trong trai đường và thọ trai. Sau khi tụng vài bài kinh chúc phúc họ thọ thực
trong im lặng. Trong suốt bữa ăn không hề có tiếng nói chuyện, chỉ ra dấu khi
cần thiết. Khi bữa ăn kết thúc quý sư lại tụng thêm vài bài kinh chúc phúc và
mang bình bát rời khỏi trai đường. Chư tăng không dùng cơm chiều. Đôi lúc họ
làm công việc quét dọn thiền viện, hành thiền riêng lẻ, hành thiền tập thể hay
làm một số công việc được giao.
Vị thầy (viện chủ)
rất được mọi người trong thiền viện cung kính. Có thể mỗi ngày mỗi vị sư và mỗi
cư sĩ trong thiền viện đều được thầy cho tham vấn. Trong những buổi tham vấn
này vị thầy thường hướng dẫn cho các đệ tử những điều cần thiết trong việc hành
thiền.
Ngoài những hoạt
động hàng ngày nói trên, còn có những lần thuyết giảng hay những khóa thiền đặc
biệt, như kỳ nhập hạ, được tổ chức trong thiền viện. Như vậy mục đích và lối
sống trong một thiền viện của thiền tông rất giống với một thiền viện của Phật
giáo Nguyên Thủy.
Kết Luận
Những điều vừa được
đề cập trong các phần trên chứng minh rằng Thiền tông là một nhánh của Phật
giáo Nguyên Thủy trong các nước theo Phật giáo Đại thừa. Những đặc điểm của
Thiền tông trên căn bản được tìm thấy không phải trong Phật giáo Đại thừa mà
trong Phật giáo Nguyên Thủy.
Trong thời kỳ lịch sử của các bậc tiền bối của Phật giáo Nguyên Thủy ở Nam
Á, Bodhidharma đã đi từ Nam Ấn đến Trung Quốc
để truyền bá nền Phật giáo chính thống này. Thiền Minh Sát Vipassanà trong
Phật giáo Nguyên Thủy chính là Thiền trong Thiền tông và “giác ngộ” trong Phật
giáo Nguyên Thủy chính là “ngộ” (Satori) trong Thiền tông. “Tiệm ngộ” và
“Đốn ngộ” đều tìm thấy trong cả hai truyền thống. Cách diễn đạt của những bậc
giác ngộ cũng rất giống nhau. Ngay cả nếp sinh hoạt của hành giả trong cả hai
truyền thống cũng tương tự. Vì vậy chừng nào mà Phật giáo Nguyên Thủy còn bị
lãng quên thì nguồn gốc của thiền tông vẫn còn chưa sáng tỏ.
■ Ni Sư Thích Nữ
Liễu Pháp biên dịch từ nguyên tác tiếng Anh “Zen is the Theravada Branch of
Buddhism in Mahayana Countries” của Shanta Ratnayaka, đăng trong tuyển
tập “Buddhist Studies in Honour of
Walpola Rahula” (Những Nghiên Cứu
Phật Giáo Để Tôn Vinh Hòa Thượng Wapola Rahula), Trường Đại Học Georgia,
Athens, Hoa Kỳ.
-ooOoo-
TRONG PHẬT GIÁO KARE A. LIE & CHAN KHOON SAN Biên dịch: Lê Kim Kha
Lời Tựa
Qua nhiều thế kỷ, những trường phái Bảo
Thủ của Phật Giáo đã bị hạ thấp bằng một từ “Hinayana”, được dùng để dán nhãn, chê bai một cách đầy phân biệt.
Trong tiếng Phạn và tiếng Pali, từ “Hinayana”
có nghĩa là “một cỗ xe thấp hèn, tiểu nhược, không đáng có, đáng khinh”.
(Hán-Việt gọi là “Tiểu Thừa”). Đây là một từ khinh miệt được đặt bởi những
người đầu tiên chủ trương Đại Thừa ở Ấn Độ vào thời xa xưa (vào khoảng vài trăm
năm sau khi Đức Phật Bát-Niết-Bàn–ND) nhằm gán tên cho những trường phái Bảo
Thủ nguyên thủy (hay còn gọi là những trường phái Kinh Bộ Nikaya còn có mặt ở
Ấn Độ lúc đó -ND) vì những trường phái này không tán đồng theo lý thuyết Đại Thừa.
Không có từ, trường phái hay tên “Hinayana” (Tiểu Thừa) trong Phật
Giáo. Về khách quan, chưa bao giờ có. Hinayana là một từ bôi bác và sai sự thật
về lịch sử Phật Giáo!.
Ngày
nay, pháp luật đã coi đó là tên gọi mang tính làm ô danh. Những Phật tử và
những người không phải Phật tử được khuyên nên dừng ngay việc dùng từ ngữ này
để gọi bất kỳ trường phái nào của
Phật Giáo, cho dù trường phái đó có còn tồn tạo hay đã biến mất. Không có lý do
hay sự biện minh nào để tiếp tục dùng từ ngữ đó. Cách gọi đó đã trở thành ấu
trĩ từ rất lâu!.
Lời
nói hay Ngôn từ nhẹ nhàng (ái ngữ) và sự Lễ độ là hai Pháp (Dhamma) mà Đức Phật
đã dạy để dẫn dắt chúng ta đến sự an lạc và hạnh phúc. Khi lời nói và thái độ
lịch thiệp được thực hành bởi những người theo Phật, thì đó là thiện chí; rồi
thì sẽ tạo ra sự hoà hợp và tương ái, cho dù họ có đang theo trường phái hay
cái ‘xe’ nào cũng vậy.
Tôi
xin cảm ơn học giả Kåre A. Lie đã cho phép đăng bài viết quý giá của ông có tên
“Giai Thoại Về Tiểu Thừa (Hinayana)” (“The myth of Hinayana”), đã đưa ra những
thông tin, luận cứ đúng đắn về mặt lịch sử của đề tài này.
Cảm
ơn sự giúp đỡ và những lời tư vấn quý giá của Ngài Nyanaramsi thuộc Hội Phật
Giáo Subang Jaya (SJBA).
Cảm ơn nữ đạo hữu Sis Wooi
Kheng Choo đã kiểm tra và góp ý hoàn thành bản thảo.
Ngày
3 tháng Chín, 2011
Chan
Khoon San
1. Giai Thoại Về “Hinayana”
(Tiểu Thừa)
– Tác
giả: Kåre
A. Lie –
Vào những thế kỷ xung quanh Công Nguyên Thiên
Chúa (CN), Phật Giáo đã phát triển sâu rộng ra từ nguồn gốc nguyên thủy. Trong
đó, một trường phái mới đã xuất hiện, và những người chủ trương theo nó gọi đó
là trường phái Đại Thừa (Mahayana). Maha: lớn, to. Yana:
chiếc xe. Mahayana: Chiếc xe lớn, (HV) Đại Thừa. Trường phái mới này khác biệt
với những trường phái nguyên thủy như thế nào, chúng ta có thể tìm thấy trong
lịch sử Phật Giáo. Ở đây, chúng ta tập trung vào một trong những kết quả của
cuộc phân ly, chia rẽ trong Phật Giáo: Đó là từ “Hinayana”.
Những người tuân
giữ những trường phái nguyên thủy cổ xưa đã không tán đồng và phê bình những người
Đại Thừa là sáng tạo ra các Kinh (sutras), làm giả những lời dạy của Đức Phật
lịch sử.
Còn những người Đại Thừa thì phản ứng lại,
cho rằng những người của những trường phái bảo thủ ‘không hiểu được’ những giáo
lý của Đức Phật và chỉ là những người ích kỷ với đầu óc hạn hẹp.
Cuộc tranh biện
đã đến lúc nóng bỏng và nhiều công kích, phê phán tuôn tràn ra từ cả hai bên.
Rồi thì sau đó, một số người bên trường phái Đại Thừa đã tạo ra một cặp tên
song đối là “Mahayana-Hinayana” hay “Đại Thừa- Tiểu Thừa” và từ đó từ “Hinayana” bị dính luôn. Họ gọi những
đối thủ của họ là “Hinayana” (Tiểu Thừa), và từ này được dùng công khai như một
sự sỉ nhục – bằng sự so sánh nghĩa đen đơn giản cũng như nghĩa bóng đối với từ
“Mahayana” (Đại Thừa) mà bất kỳ ai nếu để ý, phân tích đều thấy rõ.
“Hinayana” là một từ mang
tính bôi bác nặng nề. Nó không có nghĩa đơn giản là
“chiếc xe nhỏ”, “xe chở ít người” về mặt vật lý. “Hinayana” là từ ghép của hai
từ là “Hina” và “Yana”. “Yana”
có nghĩa là chiếc xe, cỗ xe. Nhưng từ “Hina” thì rất hiếm khi nào có nghĩa đơn
thuần là “nhỏ”, “nhỏ hơn”, “bé hơn” hay “ít hơn”. Vì nếu trong thông dụng nó có
nghĩa đó, thì trong tiếng Pali (hay cả tiếng Phạn) nó đã được dùng để diễn tả sự đối nghĩa với từ “Maha”,
có nghĩa là “lớn”, “to” hay (HV) “đại” rồi. Nhưng cả hai thứ tiếng kinh điển đó
không dùng “hina” theo nghĩa đó. Từ
đối nghĩa với “maha” là từ “culla” – “culla” có nghĩa là “nhỏ”,
“bé” về mặt vật lý, về mặt quy mô, kích thước.
♦ Một
ví dụ tương đương dễ thấy nhất trong tiếng Hán-Việt, cho trường hợp này luôn,
đó là từ “tiểu”. “Tiểu” vốn cũng dùng với nhiều nghĩa đen và nghĩa bóng khác
nhau. Trong tiếng Pali và tiếng Phạn, từ “culla” = tiểu = nhỏ, bé (nghĩa đen).
Từ “hina” = tiểu nhược, thấp hèn, đáng chê (nghĩa bóng). Bạn có thể vội vàng
cho rằng chữ “tiểu” trong “Tiểu Thừa” chỉ đơn giản có nghĩa là “nhỏ, bé, nhỏ
hơn, ít hơn”. Nhưng không phải vậy, chữ “Tiểu Thừa” trong Hán-Việt dịch từ
tiếng Hán vốn cũng đã được dịch từ tiếng Phạn theo nghĩa gốc của từ “Hina-yana”
(chứ không phải từ chữ “Culla-yana”), như bạn đọc sẽ thấy rõ trong phần giải
thích tiếp theo dưới đây của người viết. (ND).
Từ Hinayana
(Tiểu Thừa) chỉ là một tiếng vang vọng còn sót lại về một cuộc tranh biện của ngày
xa xưa đã không còn nữa – hay chỉ là một cuộc tranh biện mà chỉ có một bên, và
bên kia đã đi hay thậm chí đã “chết” từ lâu rồi. Còn một bên này cứ tiếp tục
gào thét, phân bua, cứ như là nói với gió vậy!.
Vậy ai là những đối thủ của Đại Thừa mà bị những
người Đại Thừa ngày trước dán nhãn đặt tên là “Tiểu Thừa” (Hinayana)?. Là Trưởng
Lão Bộ (Theravada) ư? Chắc là không phải rồi!
Bởi vì vào lúc Đại Thừa (Mahayana) ra đời, thì Trưởng Lão Bộ (Theravada)
đã “di cư” qua Tích-Lan rồi, cho nên Trưởng Lão Bộ không thể nào là được tính là trường phái chủ động hay
dẫn đầu trong các trường phái nguyên thủy bảo thủ ở lục địa Ấn Độ vào thời bấy
giờ, vào lúc cuộc tranh biện ‘Đại Thừa-Tiểu Thừa’ (Mahayana-Hinayana) đã diễn ra. Ngay cả những
từ “Theravada” hay “Theravadins” (Trưởng Lão Bộ / những người theo phái Trưởng
Lão Bộ) cũng hiếm khi được nhắc đến trong kinh điển của Đại Thừa.
Trong quyển Karmasiddhiprakarana (Đại Thừa Thành Nghiệp Luận) của
mình, ngài Vasubandhu (Thế Thân) cũng đã gọi người Trưởng Lão Bộ một cách tôn kính bằng cái tên “những
người Tamraparniyas đáng kính”. (Tamraparni là tên gọi của đảo quốc Tích-Lan và
Tamraparniyas có nghĩa là những người ở Tích-Lan, ý chỉ những người Trưởng Lão
Bộ), và đặc biệt là ngài chưa bao giờ gọi họ là “Tiểu Thừa” (Hinayana).
Trường phái ảnh hưởng nhất trong các trường phái cổ xưa vào thời đó là trường phái Sarvastivada (Nhất Thuyết Hữu Bộ), vì vậy có thể
họ chính là những người bị gọi là “Tiểu Thừa” (Hinayana), nhưng chắc chắn không
chỉ một mình họ là mục tiêu dán nhãn và hạ bệ bởi những người Đại Thừa. Nhiều
trường phái Kinh Bộ lúc đó không ủng hộ những lý thuyết và kinh sách của Đại
Thừa cũng vì vậy mà bị gọi chung một cách khinh khi là “Tiểu Thừa” (Hinayana).
Sau đó, trường phái Sarvastivada (Nhất Thuyết Hữu Bộ) và những trường phái
Kinh Bộ khác ở Ấn Độ đã không còn nữa, ngoại trừ trường phái Theravada (Trưởng
Lão Bộ), nhưng những cuộc tranh biện và hý luận vẫn còn được mang vào trong các
kinh Đại Thừa, ví dụ như việc khởi xướng và tuyên truyền bác bỏ hay chống tư
tưởng Tiểu Thừa (Hinayana) đã được ghi rõ trong Kinh Hoa Sen (Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh) – và ngày nay vẫn còn ngân vang trong trường phái Phật Giáo Đại Thừa
(Mahayana) và Kim Cương Thừa (Vajrayana).
Ngày nay, vẫn tồn
tại sự nhầm lẫn trong những người Đại Thừa và Kim Cương Thừa trong việc dùng từ
“Tiểu Thừa” (Hinayana). Sự nhầm lẫn được thể hiện rõ trong 03 cách sau đây:
1) Ý nghĩa lịch sử:
Họ ngộ nhận những người thuộc bất cứ trường phái nào trước Đại Thừa đều là “Tiểu
Thừa” (Hinayana).
2) Trường phái
Theravada (Trưởng Lão Bộ) cho đến ngày nay, mà trên thế giới thường gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy, cũng bị ngộ nhận
là “Tiểu Thừa” (Hinayana), mặc dù trong lịch sử những người trường phái Trưởng
Lão Bộ đã rời khỏi Ấn Độ qua Tích-Lan trước khi xuất hiện trường phái Đại Thừa.
3) Họ ngộ nhận rằng
từ “Tiểu Thừa” (Hinayana) là một danh từ được dùng để diễn tả trong một phần
giáo lý nội bộ của Đại Thừa và Kim Cương Thừa.
Bây giờ, chúng ta
hãy xem xét 03 vấn đề này một cách chi tiết hơn.
1) Nhiều người cho
rằng từ “Hinayana” là một từ dùng để gọi những trường phái Phật Giáo cổ xưa và
là cách dùng trong quá khứ xa xưa đó, chứ sau này không còn được dùng. Điều này
không đúng. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trong những tác phẩm hiện đại sau
này, ví dụ trong tác phẩm của H.V. Guenther, Buddhist Philosophy In Theory and Practice (Triết Học Phật Giáo về Lý Thuyết và
Thực Hành), bàn về những sách vở Phật Giáo Tây Tạng từ thế kỷ 18-20.
Và cho đến ngày nay cũng còn rất nhiều người kể cả Phật tử ở hầu hết
những nước có Phật giáo Đại Thừa vẫn còn dùng tên này để gọi phần còn lại của
thế giới Phật Giáo ngoài Đại Thừa.
2) Rất nhiều
người ngộ nhận rằng Tiểu Thừa (Hinayana) là Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada (Trưởng Lão Bộ). Riêng về mặt sách vở, tôi có thể
trích dẫn từ trong bộ Bibliography of Jane Hope (tạm dịch là “Thư Mục
Tham Khảo của Jane Hope”, Jane Hope là học trò của ngài Chogyam Trungpa
Rinpoche nổi tiếng của Phật Giáo Tây Tạng), trong quyển “Buddha for beginners” (Đức Phật Cho Những
Người Bắt Đầu) in năm 1995 (Tôi chỉ có bản tiếng Na-Uy, và hy vọng việc dịch
lại qua tiếng Anh của tôi không quá sai) như sau:
“Phật Giáo Tiểu
Thừa: Một dẫn nhập hay đến
với Phật Giáo Tiểu Thừa (Hinayana Buddhism) là tác phẩm What the Buddha Taught (Những Điều Phật Đã Dạy) của Hòa
Thượng Walpola Rahula… Từ quan điểm này và được viết bởi hai người phương Tây
vốn được đào tạo trong truyền thống Theravada, đó là… quyển Seeking
the Heart of Wisdom
(tạm dịch “Tâm Trí Tuệ), tác giả Joseph Goldstein & Jack Kornfield.”
(Như vậy, ở đây học giả này hiện đại này vẫn
xem “Hinayana” (Tiểu Thừa) là Phật giáo Theravada. (ND)
3) Rồi có sự nhầm lẫn thường xuyên là do dựa vào Phật
Giáo Tây Tạng. Một số người cho rằng từ “Hinayana” (Tiểu Thừa) và Mahayana (Đại
Thừa) là hai danh từ dùng để diễn tả hai thái độ tinh thần khác nhau trong Phật
Giáo, và trích dẫn trong Chương 7 (Chương về “Lòng Từ Bi”) của quyển sách kinh
điển của Phật Giáo Tây Tạng là “The Jewel Ornament of Liberation” (tạm dịch là “Pháp Bảo Của Sự Giải Thoát” được viết vào thế kỷ thứ 10,
trong đó tác giả Jé Gampopa diễn đạt từ “Hinayana” là “thiểu năng”, “khả năng kém
hơn” về quy mô, về số lượng, về khả năng ‘chuyên chở ít’, (tiếng Tây Tạng là “theg
pa dman pa”, tiếng Anh: “lower
capacity”).
Có đoạn đọc như sau:
“Dính chấp vào trạng thái an
lạc có được từ một sự tĩnh lặng (1) có nghĩa là thái độ thiểu năng (thấp kém),
mà (2) trong đó chỉ mong tập trung giải thoát cho riêng mình. Điều này ngăn cản
việc chăm lo cho người khác và vì vậy khó mà tăng trưởng được nhiều lòng vị
tha. […] Khi lòng từ ái và bi mẫn (từ bi) trở thành một phần trong con người,
thì sẽ khởi sinh rất nhiều sự chăm lo cho những
chúng sinh hữu tình khác mà một người khó đành lòng chỉ nghĩ đến chuyện giải thoát cho riêng mình. […] Sư
Manjushriikiirti đã nói rằng: “Một người Đại Thừa không thể không có lòng từ bi
dù trong một khoảng khắc”, và “Trái
với sự sân hận và khinh ghét, chính là lòng từ bi mới mang lại phúc lợi cho
người khác”.
Bên dưới chú thích (1) & (2) được ghi rõ:
(1) Trong tiếng Tây
Tạng, từ “zhi.ba” có nghĩa là sự bình
an, tĩnh lặng. Tiếng Anh là: “peace”.
Nhưng ở đây Gampopa dịch là “mere peace”,
ý chỉ sự chỉ lo nhắm vào sự an lạc của tầng Thiền Định, tức một sự an lạc vô
cảm, thiếu lòng bi mẫn dành cho kẻ khác, chỉ lo an lạc và giải thoát cho riêng
mình.
(2) Hinayana:
“thiểu năng”, thường được dịch và
hiểu là “chiếc xe chở ít hơn, chiếc xe nhỏ hơn”. Lúc này, từ “Tiểu Thừa”
hàm ý chỉ chỉ chiếc xe chỉ chở 1 người đến bờ giải thoát, chứ không chở được
nhiều người, chẳng hạn như là chiếc xe lớn (Đại Thừa).
Vấn đề ở đây là sự
giải thích, phân tích trên đây dĩ nhiên là do không căn cứ trực tiếp vào từ “Hinayana” trong tiếng Pali & tiếng
Phạn. Vấn đề chính là nằm ở đây.
Từ “Hinayana” không phải là tiếng Tây Tạng.
Nó cũng không phải là tiếng Trung Hoa, cũng không phải tiếng Anh hay tiếng
Bantu. Đó là tiếng Pali & tiếng Phạn, đều giống nhau. Vì vậy, muốn hiểu thì
chúng ta phải tìm hiểu ngữ nghĩa và ý nghĩa của từ “Hinayana” được dùng trong tiếng Pali & tiếng Phạn như thế nào.
Từ ghép thứ hai là “yana”, có nghĩa là chiếc xe, cỗ xe (tiếng Hán–Việt gọi là:
“thừa”). Riêng từ này thì không có gì phải bàn cãi. Vấn đề là ở chữ “hina”.
Thứ nhất, chúng
ta xem xét chữ “hina” được dùng như thế nào trong Kinh Điển Phật Giáo bằng
tiếng Pali. Mọi người đều biết rằng, trong “Bài Thuyết Giảng Đầu Tiên” của Đức
Phật, là “Kinh Chuyển Pháp Luân” (Dhammacakkappavattana
Sutta), mà
Đức Phật đã khai giảng cho 5 Tỳ kheo đầu tiên (nhóm của ngài Kiều-Trần-Như),
thì Đức Phật đã dạy:
“Này các Tỳ Kheo, có hai cực đoan mà những người xuất gia phải nên
tránh. Hai đó là gì? Sự mê đắm vào khoái lạc giác quan, điều đó thấp hèn (hina), phàm tục, là cách của
những người tầm thường, không đáng làm và không lợi lạc; và sự dấn thân vào
việc tự hành xác bản thân, việc đó chỉ mang lại đau đớn, không đáng làm và
không lợi lạc”.
Ở
đây, rõ ràng Kinh Điển Pali đã ghi lại lời Đức Phật dạy
điều đó là “hina”, tức là “thấp hèn, không đáng làm, đáng chê”.
Chúng ta cũng biết rằng trong các Kinh, Đức Phật thường hay dùng những
cách nói gồm nhiều chữ đồng nghĩa, để các từ đó định nghĩa bổ sung cho nhau và
nhằm mục đích củng cố, làm tăng chắc ý nghĩa Đức Phật muốn chỉ dạy. Tất cả
chúng ta đều biết rằng những tính từ “phàm
tục”, “là cách của những người tầm
thường”, “không đáng làm”, “không lợi lạc” là những tính từ bổ trợ
cho từ “hina” (thấp hèn) trong câu kinh đó.
Trong những kinh Pali khác và trong những luận giảng khác, từ “hina”
thường xuất hiện trong những cụm từ so sánh hay đối đãi như: “hina-majjhima-panita”,
có nghĩa là “xấu-trung-tốt”. Theo cách ghi chép này, từ “hina” trong cụm từ “hina-majjhima-panita” (hay đôi khi chỉ
hai từ đối đãi là “hina–panita”) luôn
luôn được dùng để chỉ tính chất “xấu”, “không đáng làm”, “không nên làm”, ví dụ
như những phẩm chất Tham, Sân, Si.
Rõ ràng nó có nghĩa là
“thấp hèn, không đáng làm, đáng khinh”, chứ không phải có nghĩa là “nhỏ” hay
“nhỏ hơn”, “ít hơn”.
Quyển Chú Giải Kinh
Đại Nghĩa Thích (Maha-niddesa-atthakatha),
một trong những luận giảng có ghi chép cụm ba từ so sánh này, có định nghĩa từ
“hina” như vầy: “hinattike hinati lamaka”, (nghĩa là: “Trong cụm ba từ có chứa “hina”, thì chữ “hina” có nghĩa là “lamaka”).
Bây giờ ta đối chiếu với Từ Điển của Hội Kinh
Điển Pali (Pali Texts Society–PTS) lại định nghĩa từ “lamaka” như vầy: “vô
nghĩa, kém tồi, thấp hèn, xấu, tội lỗi”– (tiếng
Anh: “insignificant, poor, inferior,
bad, sinful”). Từ đồng nghĩa thông thường của từ “lamaka” này là “papa”=“xấu”,
“ác”. Dường như cứ càng so sánh, thì ý nghĩa càng tiêu cực hơn. Trong Luận
giảng này có đưa ra một ví dụ và giải thích rằng: “…chính những tham muốn, dục
vọng là “hina”, là nguyên nhân dẫn đến tái sinh vào những cảnh giới thấp hèn
(niraya: như địa ngục…).
Bây giờ đến những
Kinh Điển của Đại Thừa! Trong Kinh Lalitavistara (Phổ
Diệu Kinh), chúng ta tìm thấy một bản của “Kinh Chuyển
Pháp Luân” (Dhamma-cakkappavattana Sutta), trong đó chữ “hina” cũng được dùng y
hệt như trong bản kinh bằng tiếng Pali.
Trong bộ “Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận” (Mahayanasutralankara) của ngài Vô Trước (Asanga), đây là một tác phẩm đại diện tiêu biểu
của kinh điển Đại Thừa, chúng ta có thể tìm thấy nhiều điều thú vị. Ngài Vô
Trước giảng rằng: “Có ba loại người: hina-madhyama- vishishta… (xấu-trung-tốt)”. Cách diễn đạt này thì giống y như
cách diễn đạt trong cụm ba từ tương tự trong tiếng Pali: “hina-majjhima-panita” đã nói trên.
Điều này đã nói lên một
điều rằng: Những người Đại Thừa trong
quá khứ xa xưa đã đóng dấu cái tên “hina-yana”, và dùng từ “hina” là một từ bôi
nhọ, dùng theo nghĩa “chỉ những phẩm chất tiêu cực” của nó trong tiếng Pali và
tiếng Phạn.
Một
đoạn ghi chép đáng quan tâm trong Kinh Catushparishatsutra, được ghi thành bốn cột
song song bằng tiếng Phạn, Pali, Tây Tạng và bằng tiếng Đức được dịch từ tiếng
Hán. Ở đây, lại một lần nữa, là một ghi chép của “Kinh Chuyển Pháp Luân”
(Dhammacakkappavattana Sutta). Chúng ta đã tìm hiểu và đối chiếu bản Kinh này
trong tiếng Pali và tiếng Phạn như đã nói trên. Phần tiếng Đức được dịch từ
tiếng Hán ghi rằng: “Erstens: Gefallen zu
finden an und anzunehmen die niedrigen und üblen Sitten der gewöhnliche
Personen”. Chúng ta không cần phải chỉ rõ ở đây từ nào trong hai từ là “niedrigen”
(đáng khinh) hay từ “üblen” (xấu, ác) là được dịch tương ứng với từ “hina”. Tuy
nhiên, điều đó đã rõ ràng một điều là từ “hina” đã được dịch vào tiếng Hán với
nghĩa thật là “tiêu cực”, nghĩa của những tính chất, phẩm chất xấu, đáng khinh.
Vì vậy, từ “hina” đã được dịch đúng theo nghĩa “tả về những tính chất tiêu cực”
của nó từ tiếng Phạn (giống hệt trong tiếng Pali) vào tiếng Hán.
Ở
cột tiếng Tây Tạng, chúng ta tìm thấy ghi là: “dman-pa”, là từ dịch nghĩa của từ “hina” trong tiếng Phạn, đúng với phần ghi và chú thích của Jé
Gampopa như đã nói ở đoạn trước. Nhiều người lại biện minh cho rằng việc gọi
tên “Tiểu Thừa” theo Phật Giáo Tây Tạng là mang nghĩa đơn giản, tức chỉ mang nghĩa
là “chiếc xe nhỏ”, “chiếc xe chở ít người” chứ không mang ý nghĩa “bôi nhọ” là
“tiểu nhược, thấp hèn, đáng khinh…” kia. Điều này là do sự nhầm lẫn trong các
Tự Điển Tạng-Anh của Sarat Chandra Das’ Dictionary có ghi rằng:
– “dman-pa:
thấp, kém về mặt phẩm chất và số lượng; ít, nhỏ”. Còn Từ Điển Jaschke’s
Dictionary ghi rõ hơn là:
– “dman-pa: 1. thấp, kém
về số lượng; ít, nhỏ. 2. về mặt phẩm chất: bình thường, thấp hèn (tiếng Phạn:
hina).”
Điều này có vẻ như là từ “hina” vốn chỉ có
nghĩa thấp kém, xấu về mặt “phẩm chất” trong tiếng Phạn đã được dịch qua tiếng
Tây Tạng thành từ “dman-pa” mang hai
nghĩa là thấp kém cả về hai mặt phẩm chất và số lượng. Điều này giải thích được
rằng vì sao dường như Jé Gampopa đã muốn nói rằng nhiều người Tây Tạng hiểu chữ
“hinayana” (Tiểu Thừa) theo nghĩa thứ hai, có nghĩa là “chiếc xe nhỏ”, “chiếc
xe chở ít” (chỉ số lượng).
Bây giờ chúng ta đã rõ lý do tại sao có sự nhầm
lẫn hay một số biện minh cho rằng chữ “hinayana”
(Tiểu Thừa) có hai nghĩa như chữ “dman-pa”
trong tiếng Tây Tạng. Điều nhầm lẫn hay biện minh này đã làm cho nghĩa gốc của
từ là “chiếc xe tiểu nhược, thấp hèn, đáng khinh” trở thành “chiếc xe nhỏ,
chiếc xe chở ít hơn”.
Nhưng đây chỉ là phương pháp nghiên cứu và giải thích sai lệch. Dù thế nào về
từ “Hinayana”, thì sự biện
minh đó về mặt ngôn ngữ học, về mặt thời gian lịch sử, cũng hoàn toàn không
đúng.
Từ
“Hinayana” không phải là tiếng Tây Tạng!. Từ “Hinayana” là tiếng Pali &
tiếng Phạn cổ xưa. Và về từ nguyên học, từ “hina” chỉ mang ý nghĩa bôi nhọ,
khinh khi, chê bai của những người Đại Thừa từ thời xa xưa dành để gọi những trường phái Phật Giáo bảo thủ, không tán đồng với những quan điểm và kinh sách của
những người Đại Thừa.
Vậy thì
“Hinayana” (Tiểu Thừa) là cái gì?. Là trường phái Phật Giáo Theravada (Trưởng
Lão Bộ)? – Điều đó có lẽ là không đúng trong lịch sử luôn. Nên từ “Hinayana”
nếu bị dùng để chỉ Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada (Trưởng Lão Bộ) ngày nay ở
Tích Lan, Miến Điện, Lào, Campodia…thì càng vừa sai và càng vẫn mang tính khinh
miệt đối với những Phật tử đương đại ở đó.
Đó có phải là xuất phát từ cách gọi hay chỉ
là hai danh từ diễn đạt về hai thái độ tinh thần (quả vị A-la-hán và quả vị
Bồ-tát) được diễn đạt trong giáo lý của Phật Giáo Đại Thừa và Kim Cương Thừa sau
này hay không? – Chắc chắn cũng là không đúng về mặt thời gian lịch sử và nguồn
gốc ngôn ngữ.
Vì vậy, không có từ
“Hinayana” (Tiểu Thừa)!. “Hinayana” (Tiểu Thừa) chỉ là một giai thoại! (Hay một
giai thoại đáng buồn và nhầm lẫn trong Phật giáo.-ND).
(“Giai thoại”: nghĩa là câu chuyện,
những điều mà người ta tin hay cố tin trong một thời gian lâu, nhưng chúng
không có thật, không tồn tại thật. Nó đồng nghĩa như tính chất hư cấu của “chuyện
huyền thoại” – Tác giả Kare A. Lie dùng từ tiếng Anh “Myth”để tả về câu chuyện
“Hinayana”, có nghĩa là chuyện như chuyện thần thoại, chuyện hoang đường, tưởng
tượng. – ND.)
Cho nên, nếu là
những người Phật Tử có trí thì nên dẹp bỏ từ ngữ đó vào một ngăn của một “Viện
Bảo tàng về Phân ly Tôn giáo” nào đó, và tìm những ngôn từ khác để diễn đạt những
thái độ tinh thần (của những trường phái Phật Giáo bảo thủ nguyên thủy cổ xưa) mà họ (những người Đại Thừa) muốn
định nghĩa.
Phật Giáo – Tác giả: Chan Khoon
San –
Theo Tỳ kheo ngài J. Kashyap1,
từ “Hinayana” bị những người theo
Đại Thừa (Mahayana) dán nhãn, đặt tên cho những trường phái Bảo Thủ của Phật
Giáo đã không tán đồng với những quan điểm và kinh sách mới của Đại Thừa.
Vào năm 1950, Hội
Phật Tử Thế Giới (World Fellowship of Buddhists) tổ chức đại hội ở thủ
đô Colombo, Sri Lanka (Tích Lan) và tất cả đại biểu đã thống nhất đề nghị không
tiếp tục dùng từ “Hinayana” (Tiểu
Thừa) để gán gọi nền Phật Giáo ở những nước như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện,
Cam-pu-chia, Lào, một phần của Việt Nam…v.v.
Mặc dù vậy, cho
đến tận bây giờ, vẫn còn nhiều người viết trong thời hiện đại vẫn còn tiếp tục
dùng danh từ mang tính khinh khi này và vẫn tiếp tục sai lầm dùng từ này để chỉ
Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada (Trưởng Lão Bộ), ví dụ như trường hợp trong
quyển sách nổi tiếng của Jane Hope như đã nói ở phần trước.
♦ Trong một bài viết nổi tiếng mang tên “Phật
Giáo Đại Thừa–Phật Giáo Theravada” (Theravada
– Mahayana Buddhism), Hòa thượng Tiến sĩ W. Rahula đã ghi rõ
rằng:
“Sau khi Hội Đồng Kết Tập Kinh Điển Lần Ba, con trai của Vua Asoka, là
ngài Mahinda đã mang toàn bộ Tam Tạng Kinh Tipitaka qua Tích Lan, cùng với những luận giảng được trùng
tuyên tại Hội Đồng Kết Tập Kinh Điển Lần Ba đó. Kinh điển được mang qua Tích
Lan vẫn còn được lưu giữ cho đễn ngày hôm nay, không bị mất một trang nào. Kinh
điển này được ghi chép bằng tiếng Pali, vốn là ngôn ngữ được dựa trên tiếng Magadhi
(Ma-kiệt-đà) mà Đức Phật đã chọn dùng (để giảng dạy). Vào lúc này vẫn chưa hề
có xuất hiện (tư tưởng hay trường phái) Đại Thừa nào cả.”….
“Chúng ta không nên nhầm lẫn cái tên “Hinayana”
(Tiểu Thừa) với Theravada (Trưởng Lão Bộ), bởi vì hai cái tên này
không đồng nghĩa với nhau. Phật giáo Theravada
đã di dời qua Tích Lan vào Thế kỷ thứ 3 Trước CN, vào lúc đó vẫn chưa có Đại
Thừa nào cả – (thì lấy ai mà gọi họ hay bất cứ ai bằng cái tên “Tiểu Thừa đó?. Đại
Thừa thì chỉ xuất hiện và phát triển sau này, vào khoảng giữa Thế kỷ 1 Trước CN
& Thế kỷ 1 Sau CN –ND).
“Hinayana” là tên gọi (do những người Đại
Thừa gọi -ND) những trường phái được phát triển ở Ấn Độ và họ không liên quan
gì đến hình thức Phật giáo Theravada ở Tích Lan”.
“Vì vậy, vào năm 1950, Hội Phật Tử Thế Giới…đã thống nhất không tiếp tục dùng từ “Hinayana” (Tiểu Thừa) để gọi nền Phật Giáo ở những nước như Tích
Lan, Thái Lan, Miến Điện, Cam-pu-chia, Lào, một phần của Việt Nam…v.v… Đó là lịch sử vắn tắt về Theravada, Mahayana (Đại Thừa) và Hinayana (Tiểu Thừa).” – (ND) ♦
Tôi đã đọc thông
tin trên internet một bài viết có nhan đề “Phật Giáo Theravada là gì?”
của tác giả Maung Kyauk Seinn, trong đó có ghi rõ ràng:
“Cái
tên “Hinayana” (Tiểu Thừa) bây giờ đã thuộc về dĩ vãng. Nếu bây giờ cái tên đó
vẫn còn được dùng thì nó có nghĩa là nói về bất kỳ hay tất cả những trường
phái, nhánh phái cổ xưa đã chìm vào quên lãng. Ngày nay, chỉ còn hai trường
phái còn tồn tại, đó là: Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada (Trưởng Lão Bộ) và
Phật Giáo Đại Thừa Mahayana. Hai trường phái này nên thân thiện hơn và chan hòa
với nhau hơn vì mục đích chung là đóng góp cho sự an lạc và thanh bình cho thế
giới”.
Điều đó muốn nói
là: “Hinayana” (Tiểu Thừa) vẫn được dùng ngày nay là để chỉ những trường phái
Phật Giáo Bảo Thủ cổ xưa đã không còn tồn tại. Sự thật là nhiều người viết cũng
còn dùng cái tên này với sự biện minh là đó chỉ là cái tên mà Phật Giáo Đại
Thừa dùng (cho nên họ phải dùng theo để diễn đạt lối viết của mình). Nhưng hãy
suy nghĩ lại mà xem, “Hinayana” là một từ sai và mang tính bôi nhọ.
Tự Điển Wikipedia2
& những Bách Khoa Toàn Thư khác đã định nghĩa nếu dùng ngôn ngữ sai lạc và
mang tính bôi nhọ để gọi một người khác thì đó là hành động phỉ báng
(defamatory). Cho nên trong tất cả ý nghĩa, kể cả về mặt pháp lý, không nên
tiếp tục dùng danh từ ấu trĩ và mang nghĩa tiêu cực này nữa!
Trong Kinh Kesaputta Sutta
giảng cho những người Kalama, Đức Phật đã khuyên dạy như vầy:
“Này
hỡi các người Kalama, các người có nghi ngờ và hoang mang là điều hợp lý thôi,
bởi vì sự nghi ngờ khởi lên từ một vấn đề còn đáng nghi ngờ. Này hỡi những
người dân Kalama, đừng bao giờ bị dẫn dắt bởi những lời thuật lại, hay bởi
những truyền thống hoặc những lời đồn đại. Đừng để bị dẫn dắt bởi những ảnh
hưởng của những kinh kệ, bởi những lý luận suy diễn, hay bởi những hình thức bề
ngoài, hoặc bởi những ý thích đưa ra những ý kiến đoán mò, hay bởi những khả
năng nhìn có vẻ hợp lý, hay chỉ bởi vì ý nghĩ: “Đây là thầy ta”.
“Nhưng này những người Kalama, khi nào các người
tự mình biết rõ những việc gì là không lành mạnh (akusala), và sai trái, và xấu xa (hina); bị những bậc trí hiền quở trách, những việc mà nếu khi áp
dụng và thực hiện nó thì sẽ dẫn đến khổ đau và nguy hại, thì hãy từ bỏ chúng…”.
Tôi tin chắc rằng những
bậc hiền trí cũng sẽ quở trách việc dùng từ “Hinayana”
mang nghĩa tiêu cực để gọi những trường phái Phật Giáo Bảo Thủ cổ xưa vì không
tán đồng theo lý thuyết và kinh sách của Đại Thừa.
Ngày
nay, rất nhiều Phật tử, và kể cả những Tăng Ni ở những nước có Phật Giáo Đại
Thừa, vẫn còn dùng tên “Hinayana” (Tiểu Thừa) để gọi những Trường phái Phật
Giáo khác với Đại Thừa. Một số là do được giáo dục bởi giáo lý Đại Thừa, một số
thì do không hiểu biết được nguồn gốc lịch sử, ý nghĩa ngôn ngữ của từ
“Hinayana” nên dùng một cách vô ý thức.
Đa
số lại bị sai lầm khi dùng từ “Hinayana” (Tiểu Thừa) để chỉ Trường phái Phật
Giáo Theravada (Phật Giáo Nguyên Thủy Trưởng Lão Bộ).
Phần
còn lại, khi nói về trường phái Phật Giáo Theravada ở các nước Đông Nam Á (như Tích
Lan, Thái Lan, Miến Điện, Cambodia,
Lào, một phần của Việt Nam…),
người hiểu biết và lễ độ thì gọi là “Phật Giáo Nam Tông”, người thiếu nhã nhặn
và tiếp tục sai lầm thì vẫn gọi là “Hinayana” (Tiểu Thừa).
Khi tôi được giới
thiệu là một Phật tử thuộc truyền thống Phật Giáo Tích Lan cho một người trong
Hội Phật Giáo Tây Tạng ở Thung Lũng Klang, Malaysia, thì lập tức người đó nói
rằng: “À, vậy ra là ngài theo Phật Giáo Hinayana (Tiểu Thừa)!”. Khi tôi nói với
người đó rằng “Hinayana” (Tiểu Thừa) là một từ không lịch sự và mang tính khinh
khi, thì người đó tỏ ra rất ngạc nhiên và nói rằng từ đó là do những sư thầy ở
Tây Tạng giảng dạy. Cho nên họ gọi tên “Tiểu Thừa” một cách thản nhiên và không
hề biết đó là một từ mang nghĩa xấu.
3. Hai Pháp (Dhamma)
do Đức Phật đã giảng dạy,
để dẫn đến an lạc và hạnh phúc
Ngôn Từ Nhẹ Nhàng & Sự Lễ Độ, (Cặp “hai Pháp” sākhalyañca patisanthāro
trong Kinh Sangiti Sutta (Kinh
Cúng Phụng), thuộc Trường Bộ Kinh) là một trong những “song pháp” được Đức Phật
giảng dạy để dẫn đến niềm an lạc và hạnh phúc cho mình cho mọi người. Đó cũng
là những phẩm chất, nhân cách chung được những bậc trí hiền trong tất cả mọi
tôn giáo, mọi sắc tộc và tín ngưỡng đều khen ngợi và khuyên làm, bởi vì những pháp này làm tăng thêm sự hòa
hảo và thanh bình cho nhân loại khắp nơi.
Vì vậy một điều
thật mỉa mai là đến tận bây giờ vẫn còn nhiều người thầy vẫn tiếp tục dùng từ
ngữ không lễ độ như tên “Hinayana” để
dạy cho những hàng đệ tử của mình. Điều đó vẫn luôn làm chạm lòng tự ái của
những người theo Phật Giáo Bảo Thủ Nguyên Thủy. Những sư thầy đó đi khắp nơi
trên đất nước họ và trên thế giới để giảng dạy về lòng bi mẫn, sự tử tế và an
lạc cho mọi người, mà trong khi đó vẫn dùng từ ngữ khinh miệt để gọi những Phật
tử đồng đạo thuộc trường phái chính thống khác, chỉ vì một lý do là những
trường phái này vẫn chủ trương bảo thủ theo lời Phật dạy trong các Kinh bộ
Nikayas, vẫn chủ trương theo đuổi quả vị A-la-hán
và đã không chấp nhận, tán đồng với luận thuyết mới của Đại Thừa.
4.
Dẹp Bỏ Từ ‘Hinayana’
(Tiểu Thừa) Để Làm Tăng Sự
Hòa Hợp Trong Phật Giáo
Trong Kinh Akkosa Sutta (Kinh Phỉ Báng) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Samyu Tiểu
Thừa 7. 2), Đức Phật đã chỉ dạy cách để ứng phó, để đáp lại những
lời sỉ nhục, không phải bằng cách im lặng, nhưng bằng cách đáp lại cho người
đang sỉ nhục mình. Đức Phật bảo với ông Bà-la-môn quá khích ấy rằng, nếu ông ấy
chuẩn bị đồ ăn, thức uống để mời những khách viếng thăm, nhưng họ không chấp
nhận dùng những loại đồ ăn đó, thì mặc nhiên những thứ đồ ăn thức uống đó được
trả lại cho ông Bà-la-môn. Và Đức Phật nói như vầy:
“Cũng
tương tự như vậy, này ông Bà-la-môn, rằng với những điều ông đã sỉ nhục ta,
người không sỉ nhục ông; với những điều ông đã nhạo báng ta, người không nhạo
báng ông; với những điều ông đã gây gỗ với ta, người không gây gỗ với ông: Ta
không chấp nhận (những điều đó) từ ông. Tất cả những điều đó là của ông, này
Bà-la-môn. Tất cả vẫn là của ông”.
“Ai mà
sỉ nhục lại kẻ đang sỉ nhục mình, phỉ báng lại kẻ đang phỉ báng mình, gây gỗ
lại với người đang gây gỗ với mình, thì ta gọi là đang ăn chung, đang ăn chia
với kẻ đó. Nhưng ta thì không ăn chung hay ăn chia với ông những thứ đó, này
Bà-la-môn. Tất cả là của ông”.
Tất cả những Phật tử được khuyên phải dẹp bỏ
từ ngữ hay cái tên “Hinayana” (Tiểu Thừa), một từ sai trái và mang tính phỉ
báng & bôi nhọ.
Ngày nay, mặc dù
thông tin rất dễ dàng được tìm thấy, được nghiên cứu khắp nơi, tuy nhiên, nhiều
diễn giả hay người viết về Phật giáo vẫn tiếp tục dùng từ “Hinayana”(Tiểu Thừa)
để chỉ những trường phái Phật Giáo Bảo Thủ ngày xưa (và cả trường phái Theravada còn lại bây giờ). Trong số đó chắc cũng
có nhiều người không có ý hay suy nghĩ phỉ báng khi dùng từ ngữ đó. Tuy nhiên,
họ vẫn không chịu đọc lại, tìm hiểu lại về nguồn gốc, ý nghĩa, từ nguyên để
biết được đó là một từ ngữ mang ý nghĩa phỉ báng, làm chạnh lòng những
người theo Phật giáo nguyên thủy Nam Tông. Nhiều người cứ tiếp tục dùng từ ngữ
khiếm nhã như vậy chỉ vì họ cứ tăm tắp nghe theo lời những thế hệ người thầy
của họ trước đó. Họ tiếp tục gọi “Tiểu Thừa” chỉ vì những người thầy của họ đã
dạy cho họ ngày trước như vậy.
“Vậy
thì, giống như một hàng người mù, người sau nắm đuôi áo của người trước; người
đầu tiên không thấy, người ở giữa cũng không thấy, người cuối cùng cũng không
thấy”.
“Thật
không hợp lý nếu một người khôn ngoan phải giữ mãi, duy trì (nghĩa gốc là:“bảo vệ”) một điều mà
đưa đến kết luận rằng: “Chỉ có những điều này là Chân lý, và tất cả mọi điều
khác là sai trái?”.
(Xem Kinh “Canki
Sutta” ví dụ về một hàng người mù mà Đức Phật đã giảng cho những
Bà-la-môn).
Tôi tin tưởng
rằng tất cả những người lịch thiệp và nhã nhặn, dù là Phật tử hay không phải là
Phật tử, sẽ ngưng dùng tên gọi “Hinayana” (Tiểu Thừa) để gọi những
trường phái Phật Giáo kinh bộ nguyên thủy, cho dù họ có còn tồn tại hay không,
sau khi họ biết đó là một cái tên mang tính bôi nhọ, không hay gì về mặt ngôn ngữ, từ nguyên và cũng không đúng
gì về mặt lịch sử, sự thật.
Thậm chí đa số dùng từ này với sự sai lầm rất
buồn cười. Ngay cả khi cố biện minh và tiếp tục diễn dịch từ “Hinayana” ra
nghĩa “chiếc xe nhỏ”, thì đó cũng là thái độ mang tính khinh miệt và tự đại vô
lý. Vì từ lúc Giác Ngộ cho đến hết 45 năm dài đi truyền bá Giáo Pháp, Đức Phật
đã chưa bao giờ giảng dạy điều gì về cái gọi là Tiểu Thừa hay Đại Thừa, xe lớn hay xe nhỏ cả. Đã đến lúc mọi người cần bỏ đi, và
dùng từ ngữ chính xác hơn mà giới Phật học thế giới đã quyết định và khuyên
dùng. Đó là “Phật Giáo Nguyên Thủy hay “Phật Giáo Bảo Thủ”, hay “Phật
Giáo Nam Tông” hay “Những Trường Phái Kinh Bộ Nikaya”.
► Còn khi muốn nói về những nền Phật Giáo ở các nước Đông Nam Á như Tích
Lan, Thái Lan, Miến Điện, Cambodia, Lào, một phần Việt Nam…, thì cái tên đúng là Phật Giáo Theravada (Trưởng Lão Bộ) hoặc ngày nay cũng
được gọi chung là “Phật Giáo Nguyên Thủy” hay là “Phật Giáo Nam Tông”, đó là tên của một trong những Trường phái Phật
Giáo Bảo Thủ Kinh Bộ (Nikaya) chính
thống và Theravada “Trưởng
Lão Bộ” đã di chuyển qua Tích Lan ngay trước cả khi Phật Giáo Đại Thừa xuất
hiện ở Ấn Độ.
Ngôn Từ Nhẹ Nhàng (ái ngữ) và Sự
Lễ Độ là “hai pháp” thực hành mà Đức Phật đã dạy để đem lại an lạc và phúc
lành cho mọi người. Điều đó làm gia tăng
sự tôn trọng, hòa đồng và thanh bình cho nhân loại. Nên nếu mọi người không còn
gọi tên hay viết từ “Hinayana” (Tiểu Thừa) nữa, thì đó sẽ là điều tôn trọng và
hòa hảo dành cho tất cả Phật Giáo Kinh Bộ cổ xưa và cả Phật giáo Theravada còn
tồn tại bây giờ.
♦ Nếu bạn không bỏ suy nghĩ mang tính hạ thấp
hay cách gọi họ một cách sai lạc & mang tính khinh khi là “Hinayana” (Tiểu
Thừa), vậy thì bạn vẫn tiếp tục những kiểu suy nghĩ gì về họ khi mà bạn vẫn
đang tiếp tục hành hương và thăm viếng những nền Phật giáo Nguyên Thủy đáng
ngưỡng mộ trên những đất nước hiền hoà của họ?
Điều đó
không thật buồn cười hay sao, khi mà những người còn tiếp tục khinh khi tôn
giáo của người khác là tiểu nhược và thấp hèn (hina) mà lại liên tục lai vãng,
thăm viếng và hành hương để chiêm bái nền Phật Giáo của họ ngay trên những đất
nước của họ?. (ND). ♦
5.
Ai Là Những Trường Phái Phật Giáo Bảo Thủ Kinh Bộ (Nikaya)?3
Theo học giả Warder4 về Phật Giáo Ấn Độ, Mười Tám (18) trường phái Phật Giáo Kinh Bộ Nikayas hình
thành trong khoảng thời gian từ 100-200 năm sau Bát-Niết-bàn (Parinibbana) của Đức Phật, tức là khoảng
thời gian giữa hai lần Hội Nghị Kết Tập Kinh Điển lần thứ Hai và lần thứ Ba. Những
trường phái này bị gọi là “Hinayana” hay “Tiểu
Thừa” (có nghĩa là “Chiếc Xe Tiểu Nhược, Thấp Kém), một từ được dùng bởi những người theo trường phái Đại Thừa, có ý
khinh khi những trường phái Phật Giáo nguyên thuỷ đó và tự đề cao trường phái Đại
Thừa của mình. Có một điều chúng ta luôn ghi nhớ rằng, Đức Phật chưa bao giờ dạy
cho những học trò của mình bất cứ từ ngữ nào về xe lớn, xe nhỏ hay tiểu thừa, đại
thừa gì cả. Chỉ có “Con Đường Bát Chánh Đạo” là diệt trừ khổ đau mà thôi.
Theo những ghi chép
trong cuốn Mahavamsa5(Đại Sử Tích Lan), sau lần Kết tập kinh điển lần thứ
Hai, các trường phái đã tách ra gồm 18 trường phái như sau:
(1) Mahasanghika (Đại Chúng Bộ), tách ra
khỏi Tăng Đoàn nguyên thủy và tạo ra hai trường phái là:
(2) Gokulika (Kê Dận Bộ) và
(3) Ekavyoharika (Nhất Thuyết Bộ).
Từ nhánh phái Gokulika
(Kê Dận Bộ), lại sinh ra nhánh phái:
(4) PannaTti (Thi Thiết Bộ),
(5) Bahulika hay Bahussutiya (Đa Văn Bộ) và
(6) Cetiya (Chế Đa Sơn Bộ), bao gồm cả bản thân
Mahasanghika (Đại Chúng Bộ) là (6) bộ
phái.
Từ trường phái (7) Theravada
(Thượng Tọa Bộ hay Trưởng Lão bộ), hai nhánh phái được tách ra, đó là:
(8) Mahimsasaka (Hóa Địa bộ) và
(9) VajipuTtaka (Độc Tử bộ).
Sau đó, lại từ bộ phái
thứ (9) VajjipuTtaka (Độc Tử bộ), lại tạo ra thêm 4 bộ phái khác là:
(10) DhammuTtariya (Pháp Thượng bộ),
(11) Bhaddayannika (Hiền Trụ bộ),
(12) Channagarika (Mật Lâm Sơn bộ) và
(13) Sammitiya (Chánh Lượng bộ).
Trong khi đó, từ bộ
phái thứ (8) là Mahimsasaka (Hóa Địa bộ), lại sinh ra thêm những nhánh phái
khác nữa là:
(14) Sabbathivada (Nhất Thiết Hữu bộ) và
(15) Dhammagutika (Pháp Thượng bộ).
Rồi từ nhánh (14)
Sabbathivada (Nhất Thiết Hữu bộ), lại sinh ra nhánh phái:
(16) Kassapiya (Ca Diếp bộ). Sau đó nhánh phái thứ
(16) (Ca Diếp bộ) này lại phân chia và tạo ra nhánh phái:
(17) Samkantika (Thuyết Chuyển bộ) và từ nhánh phái
thứ (17) này lại sinh ra nhánh phái:
(18) SuTtavada (Kinh Lượng bộ).
♦ Ghi Chú:
Trong một nghiên cứu khác của P.V. Bapat6, Mahasanghika (Đại
Chúng Bộ) đã sinh ra bảy (7) bộ phái và còn Theravada (Trưởng Lão Bộ) đã phái
sinh ra mười một (11) bộ phái. Chủ thuyết của từng bộ phái sẽ được tóm tắt ở những
trang sau.
Theo Tiến sĩ Rhys
Davids7, bằng chứng
ghi chép trong Bộ Mahavastu (Đại Sự) của
Phật Giáo giải thích rằng những kinh điển chính của bộ phái Lokuttaravadins [Thuyết
Xuất Thế bộ, một tiểu bộ phái bắt nguồn từ trường phái Mahasanghika (Đại Chúng
bộ) vốn là phái đầu tiên tách khỏi trường phái Theravada (Trưởng Lão Bộ)] có rất
ít những điều khác biệt với kinh điển của trường phái Theravada (Trưởng Lão Bộ).
Sự khác nhau nổi bật là về những vấn đề mang tính huyền thoại.
Thực chất, tất cả những
trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy đều đặt quả vị A-la-hán làm mục tiêu tu hành của một
Phật tử đạo hạnh, chứ không phải là quả vị Bồ-tát. Tuy nhiên, những quan niệm về
một A-la-hán và một số vấn đề dị biệt về
giáo lý của một số phái trong họ, như đã nói trước đây, có ít nhiều khác biệt so với trường phái Theravada
(Trưởng Lão Bộ), điều này đã dẫn đến sự biên soạn quyển Kathavatthu8 (Những Điểm Dị Biệt) do Ngài Đại Đức Moggaliputa Tissa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu) làm chủ trì tại
Hội Đồng Kết Tập Kinh Điển lần thứ Ba. Độc giả nên tham khảo quyển KathavaTthu(Những Điểm Dị Biệt) để thấy rõ
toàn bộ những bác bỏ đối với những quan điểm dị giáo, không chính thống của nhiều
trường phái, bộ phái khác nhau.
Trong hầu hết những trường hợp, những sự
khác nhau giữa một trường phái Kinh Bộ này và một trường phái Kinh Bộ khác có
thể là do những yếu tố khác nhau về mặt địa lý, chứ không phải là những
khác nhau về vấn đề học thuyết hay giáo lý. Những khác biệt đầu tiên trước “Cuộc
Phân Ly Giáo Phái” cho thấy những tu sĩ Phật Giáo có xu hướng tách ra thành một
nhóm ở miền Tây xung quanh tam giác Kosambi–Mathura–Ujjaini và nhóm miền Đông ở Vesali.
Ngay trong trường phái Theravada (Trưởng
Lão Bộ), trong những sự kiện xảy ra ở Hội Đồng Kết Tập thứ Hai, cho thấy rằng
những tu sĩ ở miền Tây, đặc biệt là những Tỳ kheo đến từ vùng Kosambi và Avanti làm chủ trì nhóm
trường phái này.
Nhóm đầu tiên tách ra khỏi Trưởng Lão Bộ chính là Mahasanghikas (Đại Chúng bộ), vẫn còn bám trụ lại
ở trong và xung quanh Pataliputta (Hoa
Thị Thành) như là trung tâm hoạt động của họ, trong khi đó phái Theravada (Trưởng
Lão Bộ) thì trụ lại tại Avanti và bắt
đầu phát triển nhanh về xuống phía Maharashtra, Andhra và xuống đến xứ Chola và
Tích-Lan (Ceylon).
Ngay sau kỳ Kết Tập lần thứ Hai, Mathura đã trở thành trung tâm hoạt động của trường phái Sabbathivada (Nhất Thiết Hữu Bộ) và từ
đó, ảnh hưởng của họ được lan truyền và phát triển khắp miền Bắc Ấn Độ, đặc biệt
là ở Kashmir và Gandhara.
Bộ phái Kassapiyas (Ca-Diếp
bộ) thực chất cũng là một nhóm những Tỳ kheo
thuộc trường phái Theravada nguyên thủy (Trưởng Lão Bộ), bị tách ra khỏi
bởi những người theo Sabbathivadins
(Nhất Thiết Hữu bộ) và sau một thời gian dài, họ vẫn giữ liên lạc với trung tâm
ban đầu của họ ở Sanchi gần Bhopal.
Mở rộng nhiều nhất là bộ phái Sammi-tiyas (Chánh Lượng bộ), họ mở rộng qua tận Avanti và Gujarat
và thành lập trung tâm hoạt động ở Sindhu,
những người Lokuttaravada (Thuyết Xuất
Thế bộ, một tiểu bộ phái) thì cũng mở rộng chi nhánh ra đến tận vùng Bactria xa xôi.
Hầu hết các phái trong 18 trường phái Kinh Bộ Nikayas đều không tồn tại lâu. Một số ít thì tăng trưởng và tồn tại trong vài
thể kỷ, nổi bất nhất đó là: Theravada,
Sabbathivada, Mahasanghika,
Sammitiya và Lokottaravada.
Ngài Huyền Trang (Hsuan Tsang) đã chiêm
bái Ấn Độ vào khoảng những năm 629-645 sau CN, đã ước lượng số lượng Tỳ kheo ở Ấn Độ và những xứ láng giềng khoảng
dưới 200 ngàn người, trong số đó khoảng ¾ thuộc trường phái bảo thủ 5 Kinh Bộ Nikayas và số ¼ còn lại thuộc nhóm trường
phái Đại Thừa. Cuối cùng, phái Đại Thừa đã mở rộng từ nguồn gốc phía Nam về
phía Bắc và Đông Ấn Độ, đến những vùng Trung Á và Trung Hoa, lấn lướt hơn những
trường phái Kinh Bộ Nikayas nguyên thủy.
Trong những trường phái
bảo thủ Kinh Bộ Nikayas còn lại, như
đã nói trên, thì trường phái Theravada (Trưởng
Lão Bộ) đã được thành lập và phát triển ở Tích-Lan (Sri Lanka) và Miến Điện
(Burma) và đã tồn tại cho đến tận ngày hôm nay, sau khi Phật Giáo Ấn Độ đã bị
biến mất sau cuộc chinh phạt của Hồi Giáo vào thế kỷ thứ 12 sau CN.
♦ Ghi Chú:
Những nhà hành hương lỗi lạc Trung Hoa là
Pháp Hiển (Fa Hsien) & Nghĩa Tịnh
(I-tsing) tu học theo trường phái Phật
giáo Kinh Bộ nguyên thủy “Chánh Lượng Bộ” (Sammitiya),
còn gọi là trường phái Phật Giáo theo Chánh Tri Kiến; còn ngài Huyền Trang (Hsuan Tsang) thì theo Phật Giáo Đại Thừa
(Mahayana) sau này.
6. Chủ Thuyết Của Những (18) Trường Phái Bảo Thủ
Kinh Bộ Nikaya
(A) Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) và những bộ phái liên quan:
Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) hay
còn gọi là trường phái “Đại Hội Đồng Tăng Chúng” (vì được tham gia bởi hàng
ngàn Tỳ kheo và cư sĩ dị giáo, yêu sách “10
Điều” sai biệt với chánh luật), được biết đến như là một trường phái Kinh Bộ
Nikaya đầu tiên ly khai khỏi
Tăng Đoàn sau Hội Đồng Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Hai. Họ có trung tâm hoạt động
tại Pataliputta (Hoa Thị Thành),
nhưng về sau họ di chuyển qua Magadha theo 2 hướng,
một theo hướng Bắc và một theo hướng Nam.
Nhóm đi về phía Nam ngừng lại ở Andhra Pradesh và trú ngụ xung quanh vùng Amaravati và Dhanakataka,
những chi nhánh nhóm này thì tập trung ở Nagarjunikonda, trú ngụ rải rác trên
những núi xung quanh.
Phiên
bản tiếng Pali được ra đời bao gồm những mẫu chữ viết, mẫu chữ khác được phát hiện ở khắp những vùng này, như là: Pubbaseliyas, Uttaraseliyas hay Aparaseliyas, SiddhaTthikas và Rajagirikas
– những địa danh này được gộp lại và được gọi bằng một tên chung là khu vực “Andhakas” bởi
Ngài Buddhaghosa (Ngài Phật Âm)
trong quyển luận giảng Kathavatthu
(Những Điểm Dị Biệt) của
Ngài.
Còn về những nhóm của
Đại Chúng Bộ di chuyển theo hướng Bắc, Ngài
đã kể đến những bộ phái như Ekabboharikas, Gokulikas, Pannattivadins và
Bahusuttika. Tuy nhiên, chỉ có bộ phái
Gokulikas và những quan điểm của nhóm này đã được nhắc đến trong quyển Kathavatthu
(Những Điểm Dị Biệt)
này, còn 3 bộ phái kia đã không được nhắc đến, có lẽ vì 3 bộ phái kia đã không
còn duy trì bất cứ ảnh hưởng hay sự phát triển nào đáng quan trọng cả.
1) Gokulika (Kukkulika) (Kê Dận bộ) — Triết lý
của bộ phái này xem cuộc đời là bể khổ, là bị thiêu đốt trong sự thống khổ và
không bao giờ có hạnh phúc, là một chảo lửa địa ngục (kukkula), vì họ đã hiểu lầm về ý nghĩa của Kinh Lửa.
2) Ekavyoharika (Ekavyavaharika)
(Nhất Thuyết bộ) — Bộ Phái này không được biết đến vào những thời kỳ sau
đó, có lẽ nó đã được nhập trở lại trong Đại Chúng Bộ (Mahasanghika).
3) Bahulika (Bahusrutiya)
(Đa Văn bộ) — trường phái này, như tên được gọi, nhấn mạnh vào tri thức
và sự uyên bác, trình độ hiểu biết về tôn giáo như là một điều quan trọng (bahusuTta
= học hành, uyên bác).
4) Cetiyavada (Chaitiyavada) (Chế Đa Sơn bộ) —
Bộ phái này nhấn mạnh vào sự quan trọng của việc thờ phụng, cúng bái (cetiya= đền thờ, bảo điện). Bộ phái này
cũng được nhận dạng chính là bộ phái Lokottaravada (Thuyết Xuất Thế bộ, một tiểu bộ
phái) bởi vì quyển Mahavastu (Đại
Sự), một văn bản được thừa nhận LÀ của bộ phái Lokottaravada NÀY, cũng nổi bật
việc thờ cúng các đền thờ cetiyas.
5) Pannattivada (Prajnaptivada)
(Thi Thiết bộ) — trường phái về giả thiết, khái niệm (pannaTti = giả thiết, khái niệm).
6) Purvasaila (Đông Sơn Trụ
bộ) và Aparasaila (Tây Sơn Trụ bộ) (= chính là “Uttarasaila”
= Đông Sơn Trụ bộ) — là những bộ phái ở vùng Andhra mà những người theo trường
phái này được gọi là “những người ở trên núi phía Đông, Đông sơn” và “những người
ở trên núi phía Tây. Họ là một phần của những trường phái ở khu vực Andhakas nói trên.
(B)
Theravada (Trưởng Lão Bộ) và những bộ phái liên quan:
Theravada có nghĩa là
giáo lý của những bậc trưởng lão và chính là Tăng Đoàn (Sangha) nguyên thủy của Phật
Giáo Ấn Độ từ thời Đức Phật còn tại thế, mà từ nó những trường phái bắt nguồn
và ly khai. Kinh điển của trường phái này được ghi chép bằng tiếng Pali, được
công nhận là ngôn ngữ được Đức Phật dùng để giảng dạy giáo pháp.
1) Mahisasaka (Hóa Địa bộ) — được đặt theo tên
của địa danh nơi mà bộ phái này được thành lập.
Cũng giống như Theravada, phái
Mahisasaka cũng theo quan điểm một A-la-hán
là bậc đã vượt qua mọi sự cám dỗ và không còn thối chuyển nữa.
2) Vajjiputaka (Vatsiputriya) (Độc
Tử bộ) — khả năng là trường phái
này được thành lập bởi những tu sĩ Bạt Kỳ (Vajjis), những người đã không tham
gia vào phái Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) mà tách riêng ra thành một
nhánh độc lập sau này. Chính họ đã xem duyệt lại phiên bản mới của Vi Diệu Pháp
Tạng (Abhidhmma) dựa vào niềm tin về sự tồn tại của một cá thể con người, niềm tin
này cũng được tán đồng bởi phái Sammitiyas (chính niềm tin này cũng được tán đồng
bởi phái Sammitiyas (Chánh Lượng bộ). Cả hai phái này cũng được gọi chung là những
người theo phái Độc Tử Bộ (Puggalavadins), tức những người theo phái Puggalavada, đồng nghĩa với Vajjiputaka.
3) Dhammuttarika (DharmoTtariya)
(Pháp Thượng bộ) — Một bộ phái thiên về những Giáo Lý (Dhamma) cao diệu hơn, đây là phái có nguồn
gốc từ bộ phái VajipuTtaka (Độc Tử Bộ) và được tìm thấy ở Aparanta gần vùng biển
Maharastra nơi có khu vực cảng biển Soparakal và những nơi gần đó.
4) Bhaddayanika (Bhadrayanika)
(Hiền Trụ bộ) — Chiếc xe của “Điềm Lành”,
cũng là một bộ phái xuất phát từ Vajjiputtaka (Độc Tử bộ). Những người
theo phái này chủ trương giáo lý “anupubbabhisamaya” – tức chủ trương việc
giác ngộ Tứ Diệu Đế là tiến trình phân khúc bắt buộc theo đúng trình tự tu hành.
5) Channagarika (Sannagarika) (Mật
Lâm Sơn bộ) — trường phái của 6 thành phố, một bộ phái sinh từ VajjipuTtaka (Độc
Tử bộ). Họ chủ trương giáo lý Dukkhaharoti, khi thốt ra chữ “dukkha” (khổ) thì sẽ thấy được tuệ
giác (nana).
6) Sammitiya (Sammatiya) (Chánh Lượng bộ) —
Tên của bộ phái này xuất phát từ chữ “samma ditthi” có nghĩa là
Chánh Kiến. Bộ phái này có nguồn gốc từ bộ phái Mahakaccana (Hóa Địa bộ), tuy
nhiên theo quyển Mahavamsa (Đại Sự), thì nó có nguồn gốc từ VajipuTtaka (Độc Tử
Bộ). Giáo lý nổi bật duy nhất của bộ phái này là xem bản chất của một con người
(puggala) là dùng để ‘chuyên chở’ 5 tập hợp Uẩn (skandha) từ lúc sinh cho đến
tái sinh. Giống như những người theo phái Sabbathivadins
(Nhất Thiết Hữu bộ), họ cũng thừa nhận có khoảnh khắc chuyển tiếp giữa lúc chết
và tái sinh, cũng được gọi là Trung Ấm (antarabhava).
7) Sabbathivada (Sarvastivadin)
(Nhất Thiết Hữu bộ) — tên của trường phái này bắt nguồn từ chữ “sabba
athi”, có nghĩa là “mọi thứ đều hiện hữu” hay ‘Nhất Thiết Hữu’, nói lên
giáo lý của trường phái này. Thật ra họ cũng đồng nhất về quan điểm về cuộc đời
con người & vũ trụ giống như trường phái Theravada, như là sự không có linh
hồn trường cửu, tức là vô ngã, mọi thứ đều theo luật Vô thường và Nghiệp quả (kamma). Tuy nhiên, trường phái
Sabbathivada (Nhất Thiết Hữu bộ) còn tin thêm về sự hiện hữu thật sự của Năm Uẩn
(khandha) cấu tạo nên một thực thể sống,
một cái ‘con người’, trong khi trường phái Theravada cho rằng Năm Uẩn là không
tồn tại hiện hữu. Vì vậy, những người bên phái Nhất Thiết Hữu Bộ chấp nhận rằng
Năm Uẩn (khandhas) tồn tại, hiện hữu
trong mọi lúc – quá khứ, hiện tại và tương lai.
8) Dhammagutika (Dharmagupta)
(Pháp Thượng bộ) — khởi đầu ở Gujarat và Sindhu và được
đặt theo tên của vị trưởng lão nhận sứ mạng đi
Hy Lạp là Dhammarakkhita hay Dharmagupta, Ngài được phái đi
ngay sau khi Hội Đồng Kết Tập kinh điển lần thứ Ba. Điều này giải thích tại sao bộ phái này đã không được
nhắc đến trong quyển KathavaTthu (Những Điểm Dị Biệt).
9) Kassapiya (Kasyapiya)
(Ca-Diếp bộ) — được đặt tên theo người sáng lập ra bộ phái này là KassapagoTta,
người đã cùng với Trưởng lão Majhima đã truyền bá Phật Giáo ở vùng Himalaya. Bộ phái này chính là cùng một phái với bộ phái Haimavata (Tuyết Sơn bộ) ở vùng núi cao
Hy Mã Lạp Sơn đó.
10) Samkantika ( hay Sautrantika)
(Thuyết Chuyển bộ) — trường phái này không chấp nhận giá trị của
toàn bộ Vi Diệu Pháp Tạng (Abhidhamma)
và chỉ thừa nhận những phần của nó ghi trong Kinh Tạng mà thôi. Vì thế, bộ phái
này rất gần gũi với những người của bộ phái SuTtavada (Kinh Lượng bộ),
những người chỉ theo giáo lý trong Kinh Tạng.
7. Sách & Tài Liệu Tham Khảo
(Của những chỗ đánh số chú thích trong quyển
sách).
(1) “Origin and Expansion of Buddhism” (Nguồn gốc & sự
Phát triển của Phật Giáo), tác giả Đại Đức J.Kashyap.
– “The Path of the Buddha” (Con Đường Của Đức Phật), do Kenneth W.
Morgan biên soạn, Nxb Motilal Banarsidass, Delhi, 1986.
(2) (a) en.wikipedia.org/wiki/Defamation
(b) www.businessdictionary.com
/definition/defamation
(3) “Buddhism Course” (Giáo Trình Phật Học), tác giả Bro. Chan Khoon San. Sách xb 2006-2011.
(4) Indian Buddhism (Phật Giáo Ấn
Độ), (Chương 1 & 10), tác giả A.K. Warder. Nxb Motilal Banarsidass Publishers Private Limited, Delhi 2000.
(5) “Mahavamsa – Great Chronicle of Ceylon”
(Đại Biên Niên Sử Tích Lan). Người dịch Wilhelm
Geiger. Nxb. Pali Text Society (Hội Kinh Điển Pali-(PTS)), London, 1912-1980.
(6) “2500 Years of Buddhism” (2500 Năm Phật
Giáo). Chương VI, “Những trường phái & Nhánh Phái Phật Giáo”, tác giả P. V. Bapat. Cục XB, Bộ Thông Tin &
Truyền Thông, Chính Phủ Ấn Độ, Xb 1987.
(7) Davids. T.
W. Rhys:
– “The Sects
of the Buddhists in Journal of the Royal Asiatic Society 1891, pp. 409-422”.
(Tiến sĩ Davids. T. W. Rhys: “Những Bộ Phái Phật Giáo”, đăng trên Tờ “Journal
of the Royal Asiatic Society”, Năm 1891, trang 409-422;
– “The
History and Literature of Buddhism” (Lịch sử Văn Học Phật Giáo). Nxb. Bharatiya
Publishing House, Varanasi, India 1975.
(8) “Points of Controversy
– A Translation of the Katha-Vatthu” (Những Điểm Dị Biệt – Bản Dịch Qua Tiếng
Anh), của Shwe Zan Aung & Bà
Tiến sĩ Mrs. Rhys Davids. Nxb. Pali
Texts Society (Hội Kinh Điển Pali -PTS), London 1979.
Lời Người Dịch
Đây là một quyển
sách nhỏ (booklet) được soạn thảo bởi tác giả Chan Khoon San (cũng là tác giả
soạn thảo những quyển sách Giáo Trình
Phật Học, Hành Hương Về Xứ Phật).
Trong đó, có trích đăng một bài nghiên cứu của học giả Kare A. Lie khá ngắn
gọn nhưng khá lý thú bằng những
giải thích về mặt từ nguyên và lịch sử xung quanh từ ngữ hay tên gọi “Hinayana” (Tiểu Thừa).
Cùng với sự cho phép, gửi gắm của tác giả và Trung
Tâm Thiền Phật Giáo “MAHASI Meditation
Centre” ở Yangon, Miến Điện, tôi đã soạn dịch quyển sách nhỏ này để ấn
tống cho những Phật tử gần xa.
Bên cạnh lời giới thiệu và phân tích của những học giả, bản thân
người dịch cũng đã chứng kiến rất nhiều Phật
tử xuất gia và Phật tử tại gia vẫn dùng từ “Tiểu Thừa” (Hinayana) để chỉ
Phật giáo ở những nước có “nền Phật giáo không theo Đại Thừa” và rất nhiều cách
nghĩ, cách dùng không đúng và nhầm lẫn về từ ngữ này. Trong đó, đa số sự nhầm
lẫn là:
(1) Hinayana
(Tiểu Thừa) là tên của Phật Giáo trước-Đại
Thừa ở Ấn Độ. (Điều này là sai).
(2) Hinayana
(Tiểu Thừa) là tên mà những nhà Đại Thừa đầu tiên dùng để gọi tất cả trường phái bảo thủ Kinh Bộ
(Nikaya) vì không theo chủ trương và kinh sách Đại Thừa. (Điều này chỉ đúng một
phần).
(3) Hinayana
(Tiểu Thừa) là tên để gọi Phật Giáo Theravada hay Trưởng Lão Bộ. (Điều này là sai).
(4) Hinayana
(Tiểu Thừa) là tên để gọi các nền Phật Giáo ở các nước như Tích Lan, Thái Lan,
Miến Điện, Lào, Campodia, một phần ở Việt Nam…(Điều này là sai, vì Phật giáo ở những nước này chính là Theravada).
(5) Hinayana
(Tiểu Thừa) chỉ mang nghĩa bình thường là “chiếc xe nhỏ”, không mang tính sỉ
nhục. (Điều này là sai, vì “Hinayana” là
có nguồn gốc từ tiếng Pali & tiếng Phạn, và được những nhà Đại Thừa đầu
tiên của Ấn Độ dùng, và “Hina” không phải
mang nghĩa là “nhỏ”, mà nó mang ý nghĩa xấu).
(6) “Hinayana” (Tiểu Thừa) là
tên dùng để chỉ tất cả những người chỉ lo tu một cách ích kỷ để giải thoát cho
mình chứ không giúp đỡ người khác cùng giải thoát và chủ trương quả vị
A-la-hán. (Điều này là sai và mang tính
phỉ báng, vì quả vị A-la-hán không phải là “hina” theo nghĩa của từ đó, và
không thể có ai với bản tâm ích kỷ mà trở thành bậc thánh A-la-hán trong sạch,
giải thoát & vô sanh như vậy).
Thật ra “Hinayana” (Tiểu Thừa) là không có thật,
không tồn tại trong Phật Giáo. Đó chỉ là sáng tác và cách đặt tên, dán nhãn mà những nhà Đại Thừa cổ
xưa dùng để gọi những trường phái Phật giáo nguyên thuỷ không tin và không tán
đồng với lý thuyết và kinh sách Đại Thừa mà thôi. Đáng buồn thay, đó là cách
gọi mang ý nghĩa khinh miệt và là vấn đề của những nhà Đại Thừa ngày xưa, nhưng
không may là vẫn còn lưu truyền đến bây giờ, cho dù những người hay trường phái
bị gọi tên như vậy đã đi xa thật xa…, chỉ còn lại những người mãi đứng gọi
tên theo những làn gió và mây trời ngàn năm vẫn thờ ơ không một lời đáp trả.
Xin chân thành cảm tạ thời gian và công đức của
thầy Thích Trúc Thông Tịnh (Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt) đã đọc lại bản thảo lần
cuối.
Cảm ơn Phật tử Nguyễn Thị Thu Nga đã góp phần
đánh máy bản thảo.
Cảm ơn anh Thanh Nguyên & Nhà sách Phật
học Văn Thành đã giúp đỡ trong việc chế bản, in ấn và gửi sách ấn tống đến cho
Phật tử & bạn đọc gần xa.
Sài Gòn, tháng 3, 2012 (PL: 2555)
Lê
Kim Kha
[1] D.T. Suzuki, Shin Buddhism (New York: Harper
and Row, 1970), p.90.
[2] Alfred Bloom, Shiran’s Gospel of Pure Grace
(Tucson: The University of Arizona Press, 1965), p. 45.
[3] D.T Suzuki, Essays in Zen Buddhism, (New York:
Harper and Brothers, 1949), 1st series, p.242.
[4] Ibid, p.171
[5] Một số bài kinh cầu an và chúc phúc được gọi
là Kinh Pirit.
[6] Philip
Kapleau, The Three Pillars of Zen (New York: Harper and Row, 1966), p.
246
[7] D.T Suzuki, Essays in Zen Buddhism (2nd
edition,; London:
The Buddhist Society, 1958), Third series, p. 164
[8] Itivuttaka, ed. by Ernst Windisch (2nd
edition, London:
Pali Text Society, 1948) pp. 78-79
[9] Apadaana-atthakathaa, ed. by C.E. Godakumbura (London: Pali
Text Society, 1954), p. 16
[10] Mahaanaama, The Mahaavamsa
or the Great Chronicle of Ceylon, trs. By Wilhelm Geiger (4th edition; Colombo: The Ceylon
Government Publication Bureau, 1960), p. 88
[11] R.D.M. Shaw, trans. and ed., The Blue Cliff
Records, The Hekigan Roku (London: Michael and Joseph, 1961), p. 171
[12] Suzuki, Essays I, p. 177
[13] Winston L. King, “A Comparison of
Theravada and Zen Buddhist Meditation Methods and Goals,” History of
Religions, IX, 4, (May 1970), p. 305
[14] B.C. Law, Buddhaghosa, (Nugegoda, Sri Lanka:
Spartan press, 1963), p. 29
[15] H. Dhammaratana, Buddhism in South India (Kandy, Sri Lanka: Buddhist Publication
Society, 1968), pp. 6-45
[16] Xem chú thích 12
[17] Lankaavataara
Sutra, viết bằng ngôn ngữ Sanskrit, không có trong Tam Tạng Pali, nhưng
cho rằng được Đức Phật thuyết cho vua của xứ Sri Lanka, một nước theo Phật giáo
Nguyên thủy từ thế kỷ III trước công nguyên, và Phật tử ở Sri Lanka tin rằng
Đức Phật đã viếng thăm xứ sở của họ ba lần.
[18] Mahaanaama, Mahaavamsa, pp. 16-17
[19] The Questions of King Milinda, Part I, trans.
By T.W. Rhys Davids, The Sacred Book of the East, Vol. XXXV (New York: Dover
Publications, Inc. 1963), pp.. 28-29
[20] Buddhaghosa, Visuddhimagga (Sri
Lanka: Vidyasadhaka press, 1914), p.70
[21] Shaw, Blue Cliff, p. 267
[22] Suzuki, Essays I, p. 227
[23] “Yato daanam udapaadi – paddacakkhu
anuttaram Yassa cakkhussa patilaabhaa sabbadukkhaa pamuccataati”, Itivuttaka,
p. 52
[24] D.T. Suzuki, Studies in Zen, London: Buddhist Society,
1955), p. 120
[25] Suzuki, Essays III, p. 36
[26] Walpola Rahula, What the Buddha Taught, (New
York, Grove Press, 1962), p. 68
[27] Suzuki, Studies, p. 163
[28] Kapleau, Three Pillars, p.46
[29]
Hui-neng, The Platform Sutra of the Sixth Patriarch, trans. by Phillip B.
Yampolsky (New York: Colombia University press, 1967), p. 140
[30] Buddhaghosa, Dhammapada-atthakathaa I,
ed. by Kahawe Ratanasara, Simon Hewavitarana Bequest Series, Vol. V (Colombo:
The Tripitaka Publication Press, 1919), p. 6
[31] Dhammapaala, Paramatthadaapanaa or
the Commentary of the Therigaathaa, ed. by B. Dewarakkhita, Simon Hewavitarana
Bequest Series, Vol. III, (Colombo: The Tripitaka Publication Press, 1918), pp.
4-5
[32] Buddhaghosa, Paramatthajotikaa or
the Commentary to the Suttanipaata, ed. by Sumangala, Simon
Hewavitarana Bequest Series, Vol. VII (Colombo: The Tripitaka Publication
Press, 1920), p. 64
[33] Hui-neng, The Platform Scripture, trans. by
Wing -Tsit-Chan, Asian Institute Translations, No. 3 (New York: “St.
John’s University Press, 1963), p. 49
[34] Suzuki, Essays III, p. 34
[35] Suzuki, Studies, p. 161
[36] Dhammapala, Commentary of the Therigaathaa,
p. 81
[37] Suzuki, Essays I, pp. 240-41
[38] Dhammapala, Commentary of the
Therigaathaa, p. 89
[39] D.T. Suzuki, An Introduction to Zen Buddhism
(New York: Grove Press, 1964), p. 89
[40] Dhammapala, Commentary of the Therigaathaa,
p. 150
[41] Shaw, Blue Cliff, p. 119
[42] Dhammapala, Commentary of the Therigaathaa,
p. 18
[43] Kaaya và saraara đều có
nghĩa là “thân”
[44] Psalms of the Early Buddhists, Part II,
trans. by Mrs. Rhys David (London: Pali Text Society, 1964), p. 198
[45] Suzuki, Essays I, p. 231
[46] Shaw, Blue Cliff, p. 287
[47] Suzuki, Essays I, p. 328
Gia quyến Lê Kim Kha thành tâm ấn tống
Liên hệ: 0903753550
“Nguyện
cho công đức Pháp thí này được
hồi hướng đến những người thân quyến
& tất cả chúng sinh”
Sabbadanam dhammadanam jinati!
Món quà
về Chân Lý là món quà cao quý nhất!
Discussion about this post