MỤC LỤC
1. Lời giới thiệu
2. Bồ Đề Đạo Tràng
3. Khổ Hạnh Lâm và nơi nàng Sujātā dâng sữa
4. Thăm thạch động của ngài Mahā Kassapa tại Kê Túc Sơn– Kukkuṭasampāta
5. Chiêm bái thạch động Kāḷasilā – Động Đá Đen của Ngài Moggallāna – Mục Kiền Liên
6. Viếng các di tích tại Rājagaha – Vương Xá
7. Thăm đại học Nālandā và ngôi làng của ngài Sāriputta – Xá Lợi Phất
8. Chiêm bái các di tích tại Vesālī
9. Đến Nepal, chiêm bái các di tích tại Kapilavatthu
10. Chiêm bái Lumbinī và bảo tháp Rāmagāma
11. Chiêm bái thánh tích Kusinārā – Câu Thi Na: nơi Đức Phật Niết bàn
12. Chiêm bái các di tích tại Sāvatthī
13. Chiêm bái các di tích tại Kosambī
14. Thánh tích Sarnath, nơi Đức Phật Chuyển Pháp Luân)
15. Lời bạt
1. Lời giới thiệu
Tại vùng đất cổ xưa nơi khởi nguồn triết lý tâm linh cùng tín ngưỡng Vệ Đà và nhiều giáo phái của Ấn Độ giáo, nơi của những âm vang cầu nguyện không bao giờ dứt và là nơi chứng kiến hành trạng một nhân cách vĩ đại nhất giữa tam giới – Đức Phật Sakyā Gotama. Cuộc đời Ngài là một cuốn phim dài sống động. Với từ bi và tuệ giác, Ngài đem đến cho tất cả chúng sanh đang chìm trôi trong bóng tối của vô minh một con đường đầy ánh sáng thiêng liêng, mầu nhiệm. Suốt 45 năm đầu trần, chân đất Ngài rong ruổi từ núi cao cho đến xóm gần, từ thành thị cho đến những miền quê hẻo lánh, Ngài độ cho những ai hữu duyên, cho những ai có trí để hiểu và có lòng muốn hướng về nguồn cội. Năm 80 tuổi, sau những năm tháng dài dẫn lối cho vô vàn chúng sanh tìm về ánh sáng, tại Kusinārā Ngài nhập Niết-bàn an nhiên như mặt trời kia lặng chìm sau bóng núi. Màn đêm buông, nhưng vầng dương thì có bao giờ tắt chẳng phải thế sao!
Uớc nguyện được một lần trở về Ấn Độ chiêm bái và đảnh lễ 4 thánh tích luôn là tâm nguyện của tất cả những thế hệ người con Phật. Về để tri ân, để tận mắt thấy, để cảm nhận niềm tịnh tín phát sanh và tăng trưởng vững chắc trong tâm mỗi người như lời Đức Phật đã dạy trong kinh Mahāparinibbāna trước phút giây Ngài nhập Niết-bàn: “Này Ānada, có bốn thánh tích nơi chư tỳ kheo tăng, ni, các thiện nam tín nữ đến đây đảnh lễ và chiêm bái. Họ sẽ suy niệm như vậy: Đây là nơi Đức Phật đản sanh (Lumbinī), đây là nơi Ngài thành đạo (Bodhgāya), nơi này Ngài chuyển pháp luân (Sarnath), đây là nơi Ngài nhập Niết-bàn (Kusināra)và rồi họ tín tâm, hoan hỷ”.
Và hơn thế chúng tôi còn muốn về đây “theo dấu chân Phật” lần mò theo mỗi con đường, dòng sông, ngọn núi để thấu hiểu tấm lòng từ bi mênh mông mà suốt quãng đời mình Ngài đã dành cho sanh chúng. Với ước nguyện đó, đầu năm mới chúng tôi tháp tùng theo một đoàn du tăng đầu đà người Thái Lan sang Ấn Độ. Đoàn hơn 120 vị sẽ bắt đầu khởi hành từ Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ chậm rãi bộ hành về Lâm-tỳ-ni, Nepal. Chặng đường đi và về ước tính 1500 cây số xuyên qua bốn thánh tích, những làng mạc xa xôi, những vương triều nay chỉ còn là phế tích. Trong dịp này ban biên tập chùa Huyền Không Sơn Thương xin chia sẻ những hình ảnh và chú thích các địa điểm chính, những nơi Đức Phật từng đi qua nhằm giúp cho những ai đã phát tâm nhưng chưa từng được đến đều có thể thấy và đồng phát sanh tín tâm, hoan hỷ.
2. Bồ Đề Đạo Tràng
“Đêm. Dòng sông Nerañjarā lấp lánh ánh trăng. Gió thổi rì rào xuyên qua rừng cây trầm mặc. Hương hoa cỏ dịu dàng thoang thoảng giữa không gian. Siddhattha Gotama sau khi chiến thắng nội ngoại ma, ngài ngồi yên tĩnh theo dõi hơi thở với tâm và trí hoàn toàn tỉnh thức và thanh khiết…Thế là một vầng nhật nguyệt vừa xuất hiện trên thế gian. Lừng lững. Vằng vặc. Trí tuệ và từ bi. Còn soi sáng đêm ngày cho đến hết năm ngàn năm cùng nhân duyên với chúng sanh hữu trí.”(*)
Chúng tôi đến Bodhgāya vào một chiều mờ sương. Trời se lạnh. Khói bốc lên cao từ một vài quán bán trà sữa truyền thống. Các mặt hàng lưu niệm, chăn bông và những tấm nệm rẻ tiền được bày la liệt. Rất nhiều người thuộc giai cấp thấp tập trung về nơi này làm các công việc chân tay và xin ăn. Phía sau những hàng quán là những mái nhà tạm bợ, liêu xiêu. Dăm ba người với làn da ngăm, đôi mắt sâu hun hút đang ngồi hơ tay trên bếp lửa đã tàn. Khu rừng trầm mặc với hương hoa dịu dàng giờ đã không còn. Dòng sông Nerañjarā cũng dường như nằm ngủ. Lịch sử sang trang, thời gian biến hoại, khu rừng xưa đã hóa thành xóm làng, thành thị. Dòng sông linh thiêng xưa cũng chỉ còn là một dải cát chảy dài trắng xoá, như minh chứng hùng hồn cho việc mọi thứ rồi sẽ đổi thay. Từng đoàn người hành hương vội vàng đi về phía Nam của dòng sông nơi có bảo tháp Đại Giác uy nghiêm giữa trời chiều sương lạnh.
Bảo tháp Đại Giác (Mahābodhi) hay tên gọi khác Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgāya) thuộc quận Bodhgāya là nơi đánh dấu chỗ xưa kia Đức Phật thành đạo.
Phía sau bảo tháp là cội bồ đề (Bodhi) và bồ đoàn Kim Cương (ratanapallaṇka). Theo những nghiên cứu khảo cổ mới nhất, bảo tháp Đại Giác có thể được xây dựng vào thế kỷ thứ 2 TL. Nhiều di tích khác được xây dựng tại Bodhgāya qua các thời kỳ khác nhau. Đại đế Asoka đã viếng thăm nơi này lần đầu tiên cùng với gia đình và quần thần. Đại đế đã cho xây tháp, điện thờ, tịnh xá v.v.. điều này được chứng minh bằng những bia ký khai quật được. Trải qua vô vàn biến đổi của thời gian và nhất là sự tàn phá của các tôn giáo ngoại tục mà bảo tháp đã được kiến tạo và trùng tu nhiều lần. Một điều chắc chắn là cội bồ đề và bảo tháp luôn ở một vị trí như lần đầu tiên. Điều này được khẳng định qua nhiều sử ký của các nhà hành hương trên khắp thế giới tiêu biểu như: Học giả châu Âu ông Buchanan Hamilton đến đây vào năm 181; ngài Pháp Hiển đến địa danh này năm 408; ngài Huyền Tráng năm 637. Các đoàn hành hương khác từ Srilanka và Miến Điện cùng với rất nhiều triều đại vua chúa cũng đã nhiều lần viếng thăm và tu sửa. Tất cả đều có để lại bia ký.
Từ phi trường Gaya đoàn đầu đà chúng tôi bộ hành về Bồ Đề Đạo Tràng. Dòng người nối tiếp nhau trong sự tín thành. Chúng tôi xếp thành hàng tư, nhiễu quanh cội bồ đề và bảo tháp ba vòng theo hướng cánh hữu. Chỗ này, chỗ kia có nhiều nhà sư Tây Tạng cùng các Phật tử khắp nơi trên thế giới, đang trang nghiêm chiêm bái và cầu nguyện trong khung cảnh vô cùng thiêng liêng.
Nhìn cội bồ đề uy nghiêm, vươn thẳng lên giữa bầu trời đêm tối. Lòng tôi xúc động lạ lùng. Niềm hỷ lạc nhẹ nhàng lan toả khắp toàn thân. Tôi chợt hiểu ra rằng, không có gì thật sự biến mất dẫu cho thời gian hay bão táp phong ba quần xé, khi mà vẫn còn đó ngọn lửa niềm tin vẫn cháy mãi trong tâm những người con Phật trên khắp năm châu, bốn biển.
(*) Trích từ MCĐMVNN của MĐTTA.
3. Khổ Hạnh Lâm và nơi nàng Sujātā dâng sữa
Chúng tôi dừng lại bờ Bắc sông Ni Liên. Từng căn lều tiện lợi được dựng trên một thửa ruộng khô, cách không xa Khổ Hạnh Lâm, nơi xưa kia Bồ Tát và năm anh em Kiều Trần Như hành đạo. Chúng tôi cần ở lại đây bốn, năm ngày để chiêm bái các Thánh tích quanh Bodhgāya.
Trời rét đậm. Vài nhóm người đang đốt lửa giữa đêm khuya thanh vắng (có lẽ vì lạnh các Sư không ngủ được). Co mình trong chiếc y Tăng-già-lê, như mơ như thực tôi nghe có tiếng nước chảy rạt rào vọng vào từ phía dòng sông. Vài tiếng mái chèo khua động, gõ vào mạn thuyền. Nước từ trên cao theo mái chèo rơi trở lại dòng sông tí tách, tí tách… Tôi thấy một dáng người khô gầy, chỉ còn xương và da. Người ngồi tĩnh lặng giữa núi rừng hoang vu. Một tiếng nói đầy ma mị, huyễn hoặc cất lên:
“Có đáng gì chứ! Hãy trở về với đời sống sung sướng của một vị Thái tử. Người sẽ chết mà chẳng được gì. Từ bỏ, từ bỏ đi.”
Lưng hơi còng vì kiệt sức nhưng Người vẫn ngồi uy nghiêm, mắt không mở. Người nói:
“Hãy thôi đi những lời đường mật, ta đã biết ngươi rồi, này Ma Vương, nhưng ngươi nói đúng một điều. Ta sẽ chết mà không đạt được gì nếu còn khổ hạnh thế này. Ngươi hãy trở về với ngai vàng bóng tối của ngươi đi thôi “.
Gió qua. Từng phiến lá lay động. Khu rừng vừa trở lại yên tĩnh bỗng có một tiếng đàn vang vang. Âm thanh chùng, thấp không nghe ra giai điệu gì. Âm thanh từ thấp chuyển thành vút cao, chát chúa chợt như có gì đứt gãy. Rồi âm thanh từ từ chuyển sang vừa phải. Giai điệu mượt mà, du dương như tiếng nhạc trời vang lên trong màn đêm tối… Người mở mắt ra và mỉm cười. Không nói gì, Người chậm rãi đi về phía dòng sông. Mặt nước sông Ni Liên lấp lánh, mềm như dải lụa vàng Kashmir. Sáu năm dài khổ hạnh, kham nhẫn tận cùng những nỗi đau về thân, đêm nay, Người đã thấu hiểu. Trăng trôi bàng bạc, toả ánh sáng dịu êm. Nhẹ nhàng xả buông, xả buông Người trầm mình xuống mặt trăng phía dưới.
Sương rơi nhiều, ướt cả lều trại. Cái lạnh thấm vào người làm tôi tỉnh giấc. Ôi! Một giấc mơ kỳ diệu. Ngồi dậy và tôi thấy mình khóc!
Đã bước vào tháng cuối năm, lúa xanh rì mặt đất. Lúa lún phún cao chừng gang tay. Lúa thoảng hương bùn đất gợi nhớ quê nhà. Vài ruộng cải đã trổ hoa vàng ngút mắt. Bông cải cao ngã xuống chèn cả lối đi. Từ bờ sông, băng qua cánh đồng chúng tôi tìm về thăm nơi xưa kia nàng Sujātā dâng Đức Phật bát cháo sữa. Cảnh trí thật bình giản, đơn sơ. Một ngôi miếu nhỏ có lối đi vòng quanh. Hai bức tượng mộc mạc được tôn trí cho mọi người chiêm bái. Hình ảnh xa xưa như thoáng hiện về: nàng Sujātā dịu hiền kính cẩn quỳ dưới chân Bồ Tát. Nàng dâng lên “Vị Thần Linh Chói Sáng” thức ăn mà mình đã dày công chuẩn bị. Chắc hẳn nàng cũng không biết, chút vật thực ấy là nhân duyên kỳ diệu góp phần tạo nên một nhân cách vĩ đại nhất giữa tam giới. Quả báu mai này nàng nhận được vô cùng rực rỡ khắp ngàn thiêng. Chúng tôi xếp bằng tụng một thời kinh. Gió đưa hương đồng len qua từng tấm y sờn cũ. Hương vương vào y. Hương vương vào mắt. Hương vương vào tâm hồn nhẹ nhàng, dung dị.
Tôi phân phát chút ít vật thực, bánh trái vừa nhận được từ một đoàn hành hương người Thái cho những người hành khất quanh đó.
Đoàn lại bộ hành về phía xa xa. Quay lại nhìn ngôi miếu lần nữa tôi khẽ ngâm hai câu thơ của Thầy mình:
Một chút lòng mai sau là phấn trắng
Điểm tô đời ai biết những màu thi!
4. Thăm thạch động của ngài Mahā Kassapa tại Kê Túc Sơn– Kukkuṭasampāta
Từ Bodhgāya theo hướng Đông, chúng tôi bộ hành về thành Vương Xá. Trời rất lạnh, chỉ khoảng sáu, bảy độ. Chúng tôi thức dậy vào hai rưỡi sáng. Sương trắng bàng bạc. Tự giác, mọi người xếp đặt lại lều trại đã ướt sũng. Công việc luôn được làm trong im lặng và tỉnh thức, cố không tạo âm thanh nào quá lớn. Vệ sinh cá nhân xong, chúng tôi quy tụ về một gốc cây to nhất tụng một thời kinh an lành, hồi hướng đến chư thiên cùng muôn loài chúng sanh khác. Sau đó, mọi người tuần tự lấy một ít nước nóng đã được phân công nấu sẵn vào bình. Cúi đầu tri ân nơi trú ngụ thêm lần nữa, chúng tôi bắt đầu chuyến bộ hành trong ngày khi bầu trời vẫn một màu đêm tối.
Đường về Kê Túc Sơn xuyên qua những cánh đồng cải vàng xen lẫn mạ non và cây thốt nốt. Sương mù giăng mọi lối. Khung cảnh thật bình dị và nên thơ. Thi thoảng đoàn lại băng qua một vài xóm nghèo. Những căn nhà tuềnh toàng, tạm bợ. Nhiều người dân hiếu kỳ kéo nhau ra xem “đoàn du tăng nước ngoài kỳ lạ”. Từng cặp mắt đen, sâu hun hút nhìn chúng tôi với vẻ ngạc nhiên. Vài em bé cố đu người, chồm qua khỏi vai mẹ, len lén nhìn. Chim chóc líu lo. Đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ. Thoảng trong không gian là mùi hương ngây ngấy của món trà sữa đang sôi, lan ra từ một quán nhỏ ven đường. Hạnh phúc đến trong tôi thật khẽ khàng như chùm hoa đêm xuân vừa hé nụ. Ôi! Yêu xiết bao cái bình yên đến chân thật này.
Càng đến gần Kê Túc Sơn mọi người càng chánh niệm. Bước chậm dần do đôi bàn chân đã phồng rộp. Lúc này đây, tôi cảm nghe cái thọ như thật sanh diệt qua mỗi bước đi rõ hơn bao giờ hết; cái tâm yếu đuối như một kẻ lắm lời dây dưa hoài không dứt. May mắn thay, tôi vẫn kịp đến chân núi để hạ trại và đi bát độ thực.
Kê Túc Sơn, tên như là núi. Xa xa nhìn lại ngọn núi như một cái chân gà có ba móng chụm lại. Đây cũng là nơi ngài Mahā Kassapa trú ngụ và thực hành mười ba pháp đầu đà qua nhiều năm tháng. Thời đức Phật còn tại thế, núi không như bây giờ. Năm một trăm hai mươi tuổi, ngài Mahā Kassapa thấy phận sự đã xong (Ngài là người đứng ra chủ trì cuộc kết tập lần đầu tiên), nhân duyên với chúng sanh đã hết. Ngài đến chân núi Vebhāra, thành Vương Xá, nhiếp tâm thị hiện nguyện lực để nhập diệt. Ngài nguyện cho ba ngọn núi ghép vào nhau, phủ lên thân xác ngài. Do nhân duyên như vậy mà có Kê Túc Sơn ngày nay.
Đầu giờ chiều chúng tôi bắt đầu leo núi. Một ngàn bảy trăm bậc cấp không nhiều nhưng quả là cam go cho ai cổ chân đang sưng tấy. Những bước đi khó nhọc, nặng nề dần. Tưởng nhớ hình dáng xưa, khi tuổi đã quá già, ngài Mahā Kassapa vẫn một mình lần mò lên xuống, khất thực gieo duyên cũng trên chính con đường này, lòng tôi ngậm ngùi, xót thương tấm gương cao cả của ngài biết mấy. Tín tâm kiên định, cuối cùng chúng tôi cũng lên tới đỉnh.
Nơi vách đá cô liêu, lạnh ngắt, chúng tôi quỳ đảnh lễ chân dung ngài. Có lẽ vì đã nằm suốt những đêm sương giá, đi qua những chặng đường đã để lại máu rơi; quỳ nơi đây, nhìn nụ cười bao dung của ngài mà chúng tôi không ngăn được nước mắt. Những giọt nước mắt tri ân sâu sắc dành cho bậc trưởng thượng – Người đã vì tăng trưởng đức tin, tinh tấn cho hàng Sa môn hậu học đã không ngại gian nguy thực hành đủ mười ba pháp đầu đà cho đến trọn đời. Lặng yên giây lát, chúng tôi tụng kinh rồi hành thiền. Chúng tôi ngồi rất lâu, rất lâu, như muốn tìm chút hình dáng xưa của Người còn vương sót quanh đây!
Chiều dần trôi, chúng tôi đảnh lễ từ giã khi sương đã bắt đầu rơi nặng hạt. Tâm bình an và kiên định, đường về sao quá đỗi thêng thang. Gió lùa qua từng kẽ đá như nhắn gửi lời ngài
Trong thửa ruộng mênh mông
Của đệ tử Đức Phật,
Ngoại trừ bậc Vô Thượng
Ta tối thắng đầu đà
Không ai bằng ta được.
Ta phụng sự Bổn Sư,
Lời Phật dạy làm xong,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.
Là con bậc Gotama
Không tham đắm tam y
Chỗ ở hay thức ăn,
Như đoá sen thanh tịnh
Chí nguyện hạnh xuất ly
Vượt lên cả tam giới.
Với bậc đại ẩn sĩ,
Cổ dựng trên niệm xứ,
Tay dựa trên chánh tín,
Đầu viên mãn thánh trí
Du hành thật thanh lương.
5. Chiêm bái thạch động Kāḷasilā – Động Đá Đen của Ngài Moggallāna – Mục Kiền Liên
Tìm về thăm thạch động của ngài Moggallāna – Mục Kiền Liên, đoàn dừng lại nghỉ ngơi và độ thực phía sau một ngôi trường nhỏ. Toạ cụ bằng ni lông được trải ra đây đó. Đã gần giữa trưa nhưng sương mù vẫn còn bàng bạc. Chúng tôi cố tránh những gốc cây, tìm cho mình một khoảnh đất trống để ngồi, mong muốn chút nắng đầu ngày sẽ tô vàng cho làn da đang còn tím tái. Vài tốp học sinh hiếu kỳ, rủ nhau ra xem. Từng gương mặt ngây thơ, thân hình gầy gò run run trong những bộ áo quần mỏng manh, bạc thếch. Có mấy em mạnh dạn lân la đến gần các sư bắt chuyện. Vì không hiểu ngôn ngữ nhau nên câu chuyện đôi bên thường kết thúc trong những tiếng cười ngu ngơ, vui vẻ. Tựa như một bếp lửa cháy giữa trời đông, gương mặt ngây thơ và nụ cười hồn nhiên khe khẽ ấy cũng làm ấm lòng cho kẻ ruổi rong trên những con đường đầy sương và gió.
Sau khi độ thực và nghỉ ngơi, một giờ chiều, đoàn lại chuẩn bị để tiếp tục lên đường. Chúng tôi điểm danh lại từng người thì thấy thiếu mười sáu vị. May mắn thay, sau một lúc đợi, các sư cũng đến kịp. Những bàn chân tuy đã phồng rộp, sưng tấy, bước đi nặng nề nhưng không vì thế mà làm giảm đi nét kiên định và tín tâm hằn sâu trên những khuôn mặt. Các sư đã tới và cũng đã lỡ mất bữa cơm duy nhất trong ngày!
Cánh đồng nối tiếp làng quê, làng quê liền kề đồi núi…, và cứ như vậy chúng tôi đi; những đôi chân như chưa bao giờ muốn ngừng lại, thế rồi ngọn núi Isigiri cũng dần hiện ra trước mắt. Xưa kia, Isigiri là một trong năm ngọn núi lớn bao quanh kinh thành của vua Bimbisāra như một bức tường thành tự nhiên vững chãi. Ngài Mục Kiền Liên đã tu tập và chứng đạo tại một hang động phía trên ngọn núi này.
Đoàn dừng lại nghỉ ngơi giây lát rồi tiếp tục bộ hành leo núi. Trúc mọc xen kẽ với đá, khóm to, khóm nhỏ trải dài đến tới chân núi, rất đẹp. Nhìn xa xa lên phía trên, một vài tảng đá nhô ra tạo nên một cái đầu con voi sống động như thật. Mọi người bước nhanh, cố theo cho kịp vị trưởng đoàn. Đường lên núi chỉ toàn đá và đá. Đến gần đỉnh núi, rẽ vào một lối nhỏ khác, chúng tôi đã thấy được thạch động Kāḷasilā của Ngài. Trưởng đoàn ra hiệu cho mọi người tuỳ nghi tìm chỗ ngồi xuống, chờ những vị lên muộn. Lạ lùng thay là thạch động, nơi tu tập của vị Đại Đệ Tử được Đức Phật xưng tán là Đệ Nhất Thần Thông-phải chăng, do năng lực tu tập của Ngài vẫn còn dư sót lại ở chốn này, mà động đá lại ấm áp một cách kỳ diệu. Ngồi chừng mươi phút, sự an bình bao phủ toàn thân, thư xả một cách vô thức đưa chúng tôi nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ. Giấc ngủ ngon của một hài nhi yên lành trong vòng tay mẹ. Chúng tôi choàng tỉnh bởi tiếng bước chân của những vị đến sau. Cùng nhau quỳ xuống, cả đoàn đảnh lễ và bắt đầu tụng một thời kinh dài. Âm thanh dội vào vách đá nghe vang vọng trầm hùng. Sau thời kinh chúng tôi ngồi thiền, khoảng hai mươi vị có sức khoẻ tốt được phân công xuống núi gánh bức tượng Đức phật bằng sa thạch nặng hai trăm rưỡi ký lên. Tôn trí tượng Đức Phật một nơi cao ráo giữa thạch động, một lần nữa chúng tôi nghiêm trang cúi đầu đảnh lễ.
Từ giã thạch động Kāḷasilā, chúng tôi lại tiếp tục bộ hành qua những ngày sương trắng.
6. Viếng các di tích tại Rājagaha – Vương Xá
Xuất phát từ Bồ Đề Đạo Tràng, tránh những con đường lớn, những xa lộ ồn ào, chúng tôi men theo những lối mòn nhỏ, qua núi đồi, qua cánh đồng, qua những ngôi làng đơn sơ, hẻo lánh. Chọn đi những con đường khúc khuỷu, gian nan, chúng tôi ngầm hiểu từ tận đáy lòng ấy là cho bản thân một cơ hội, một món quà giản đơn để được cảm nhận một cách chân thật những khó khăn và tấm lòng từ bi vô bờ của Đức Phật và chư vị Thánh Tăng thời ấy. Vì lẽ đó nên quãng đường chúng tôi đi, luôn dài hơn so với đi đường chính rất nhiều lần. Mọi người thường thức dậy lúc tinh mơ và chỉ hạ trại nghỉ qua đêm khi trời đã nhá nhem tối. Nước vùng này cũng khan hiếm, những giếng nước ven đường hoặc trong xóm làng cái thì hư hỏng, cái thì đã khô, cộng với thời gian vội vàng nên hầu như không ai trong đoàn kịp tắm rửa, giặt giũ. Những tấm y giờ đã ngả màu vì bụi đường và sương gió. Những miếng rách đã xuất hiện lỗ chỗ do vướng phải cây dọc đường. Những mảnh rách lớn, dài thường do trượt té.
Sau khi từ giã thạch động của ngài Mục Kiền Liên, Đoàn lại bộ hành xin vào tá túc tại một ngôi chùa của người Thái trong thành Vương Xá để tiện cho việc nghỉ ngơi và nhất là để giặt giũ và khâu vá lại y. Chúng tôi dành ba ngày để đến chiêm bái các di tích, nơi đánh dấu những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Đức Phật cũng như sự phát triển của Giáo Pháp tại Vương Xá thành này. Đoàn lần lượt viếng: Tịnh xá Veḷuvana , suối nước nóng Tapoda, hang Sattapaṇṇī, miếu thờ rồng Maṇiyara, vườn xoài Jīvaka, nhà giam đức vua Bimbisāra, hang động Sonabhandara, hang động Thất Diệp và hương thất của Đức Phật trên đỉnh núi Gijjhakūṭa. Sẽ còn lại gì sau cát bụi của thời gian! Một triệu đại huy hoàng, phồn hoa được trị vì bởi đức vua Bimbisāra anh minh giờ đã mất. Cảnh tượng một ngàn lẻ ba vị thánh tăng cùng với Đức Phật từ từ bộ hành vào thành. Các tầng lớp người dân, giáo sĩ đứng chật cả hai bên đường, xì xào to nhỏ, bình phẩm về một tăng đoàn trang nghiêm, thanh tịnh mà lần đầu tiên họ thấy. Xa xa phía trước là đức vua Bimbisāra cùng với thân quyến, quan thần, tướng lĩnh, các thương gia giàu có và uy tín- Họ kính cẩn với nước thơm và tràng hoa cung nghinh Đức Phật và tăng đoàn vào cung điện- Tất cả đó chỉ mãi là một hình ảnh đẹp trong tưởng tượng của những người hành hương. Rồi trải qua thời gian niên sử, một vài trường đại học, viện bảo tàng, chùa tháp được xây dựng theo nhiều phong cách khác nhau đã mọc lên trên mảnh đất này. Những tầng lớp nông dân nghèo khổ tập trung về. Họ sống bằng đủ loại công việc chân tay và nhờ lòng hảo tâm của những người hành hương rộng lòng từ ái. Cảnh vật Vương Xá thành không quá đẹp, nên thơ nhưng cũng đủ cho những ai đến đây cảm nhận được sự yên bình, chân chất.
Đảnh lễ, tụng kinh và hành thiền tại hương thất của Đức Phật trên đỉnh Linh Thứu xong, trên đường bộ hành về, chúng tôi bắt gặp một tử thi để bên đường, được che sơ sài bằng một tấm vải vàng. Người dân Ấn Độ là vậy: Họ sống đời dị giản hơn phần lớn phần còn lại của thế giới. Họ thích thú truy cầu sự thăng hoa nội tâm hơn là sự tiến bộ của khoa học (ít nhất là những nơi tôi đã đi qua). Sáng uống trà sữa, trưa là mấy chiếc bánh Jabati kẹp với móm khoai tây hầm nhừ, chiều tối và tinh mơ là thời gian dài họ dành cho cầu nguyện và lễ lạy. Họ quý trọng tất cả sự sống dù nhỏ nhất nhưng lại xem thường sự chết của chính mình. Có lẽ họ hiểu được rằng: Sự chết của mình chỉ là một điểm khởi đầu cho một hành trình khác. Cả đoàn dừng lại tụng một thời kinh quán tưởng bên xác chết rồi lại lặng lẽ lên đường.
Đỉnh Linh Thứu mờ dần phía sau lưng chúng tôi. Mỗi bước chân đi là để trở về. Trở về trong khoảng cách mỗi lúc một ngắn hơn và lắng sâu mãi trong nỗi niềm biết ơn vô hạn.
7. Thăm đại học Nālandā và ngôi làng của ngài Sāriputta – Xá Lợi Phất
(Thăm đại học Nālandā và ngôi làng của ngài Sāriputta – Xá Lợi Phất)
(Từ Bồ Đề Đạo Tràng đến thành Vương Xá dài 80 Km và từ thành Vương Xá (Rajgir) đến Nalanda dài 12 km)
Đoàn rời thành Vương Xá với nụ cười hé nở trong tâm. Bên tai tôi còn vang vọng lời bài hát của một nhạc sĩ vô danh thuở nọ:(*)
“Hôm nay giữa đất trời thanh lương tú lệ
Tại kinh thành của đức vua hiền thiện, anh minh
Chuẩn bị hoa hương và lễ phẩm cung nghinh
Đức Giác Ngộ và một ngàn sa-môn thánh chúng
Đức Phật ấy có hào quang xán lạn
Có ba mươi hai quý tướng và tám mươi vẻ đẹp
Hãy hát lên, hãy tụng ca đạo lộ vô thượng của Người
Hãy hát lên, hãy tụng ca công đức sáng ngời
Trong tam giới không có ai bì được
Người đã giải thoát luân hồi sinh tử
Người đã lên đường với chân trần, gót bụi độ sinh
Người với bi mẫn, từ tâm giáo hoá chúng hữu tình.
Thật là duyên lành hy hữu
Chúng ta mới được làm đệ tử của Người
Thật là hạnh phúc làm sao
Khi chúng ta theo dấu chân của Đức Tự Tại
Bước theo con đường xuân thắm hoa hương
Bước theo con đường trí tuệ và tình thương
Vô cùng vinh quang và vô cùng diệu vợi…” (*)
Tôi thả hồn bồng bềnh theo những ruộng vàng hoa cải, nghe mùi hương dịu dàng lưu luyến trong tim. Như được tiếp thêm sức mạnh từ thiên nhiên êm ả, lòng tôi hỷ hoan. Chặng đường về Nalanda dẫu còn nhiều dặm vẫn cứ ngờ như trước mắt, tôi yêu quá nơi này nên chỉ muốn chặng đường cứ như thế hoài xa. Đường bờ ruộng bé quá, người sau nối chân người trước nên dẫu muốn dừng lại đôi chút chân tôi vẫn phải bước tiếp. Rồi xa dần, xa dần, chỉ còn hoa vàng nhạt nhoè bay trong nỗi vấn vương!
Đoàn đến được vùng Nālandā vào một chiều hửng nắng. Nơi này cách không xa đại học Nālandā, chỉ chừng hai cây số. Vị trưởng đoàn ra hiệu hạ trại. “Quen tay hay việc” chúng tôi chỉ mất một lát là mọi thứ đã xong. Mọi người tuỳ nghi ngồi nghỉ. Sau nửa giờ, chúng tôi đắp lại y áo chỉnh tề rồi bộ hành về phía đại học Nālandā.
Một thời danh tiếng vang xa, với hơn mười ngàn giáo sinh và hai ngàn giáo thọ, đại học Nālandā xưa giờ chỉ còn là những nền gạch xanh rêu giữa trời chiều hoang lạnh. Vài sư chợt ngồi xuống ôm từng viên gạch khóc rưng rưng. Tôi không hiểu vì sao các vị ấy lại khóc. Khóc cho một thời Phật Giáo huy hoàng đã phải tàn lụi trong binh đao, hay các vị ấy cảm thương bởi vì lòng gắn bó do đã từng sống tại nơi này trong tiền kiếp xa xưa? Lòng tôi hơi chùng xuống khi nghĩ đến bao nhiêu mưa máu của các tăng sĩ trẻ đã rơi, những ước nguyện thanh cao phải vội vùi chôn dưới chân của đội quân Hồi Giáo. Sự sụp đổ của đại học Nālandā như vết mực cuối cùng đánh dấu cho sự sụp đổ hoàn toàn của Phật Giáo ngay chính trên quê hương mình. Nhưng tôi không buồn, cũng không khóc. Tôi tin tưởng và hiểu lời Đức Phật dạy “Vạn pháp là vô thường, có sinh tất phải diệt, diệt mất rồi sẽ lại hồi sinh”. Như một năm có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông; như một ngày có hai buổi: Sáng, Tối – Tất cả chỉ là sự luân chuyển, đổi thay trong nhân quả của nghiệp và các định luật của trời đất. Hiện tại đây, một chồi non đại học Nālandā khác đang vươn mình cũng chính trên mảnh đất này. Và kia, những sa-môn đầu đà chân chính, họ chẳng phải là người tiếp nối cho những ước nguyện thanh cao bị chôn vùi nơi đây đó sao!
Bỏ qua những suy nghĩ quẩn quanh trong đầu mình, tôi tách đoàn, rẽ vào lối đi khác. Tôi đến trước bảo tháp thờ ngài Xá Lợi Phất, không cầu nguyện hay van xin điều gì chỉ một mình ngồi đó rất lâu. Lòng tôi chợt ấm áp lạ thường như có ai đang dang vòng tay che chở. Dựa sát vào chân tháp tôi cảm thấy gần gũi và an bình như đang ngồi trong ngôi nhà của mẹ mình thuở bé. Tôi nhớ Ngài. Ừ! Tôi cũng nhớ mẹ tôi nhiều nữa! Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng chói. Thánh hạnh của Ngài đỏ thắm như chu sa. Ngài luôn quan tâm, dìu dắt và chỉ bày cho những tăng sĩ đến sau. Bằng thân giáo, bằng ngôn hành Ngài đã độ hoá cho cha và các em mình đều cùng hưởng hương vị của pháp mầu. Lúc tuổi đã già, biết thọ mạng của mình sắp hết, Ngài quỳ lạy dưới chân Đức Phật xin được về quê hương để nhập niết bàn. Lần trở về cuối cùng này, Ngài cũng đã tận tuỵ trợ duyên cho mẹ mình bằng nhiều cách, khiến cho thân mẫu từ bỏ tà kiến, nhẹ nhàng bước chân vào dòng thánh đạo. Ôi! Kỳ diệu và trọn vẹn làm sao là cách hiếu đáp ân sinh thành của Vị huynh trưởng khả kính, một vị Đại Đệ Tử của Đức Phật. Kính mến Ngài chừng nào tôi lại tủi thẹn cho mình chừng đó “Một kiếp làm người đã mỏi, nói làm chi những chuyện cao xa”. Bần thần, chợt nhớ ra rằng: Đã quá lâu rồi tôi chưa về thăm mẹ. Mùa xuân nữa đang về rồi, chắc chừ, mẹ vẫn tựa cửa đứng chờ trông!
Sáng sớm hôm sau, đoàn chúng tôi ôm bát vào làng Nāḷāka (quê của ngài Xá Lợi Phất) để khất thực. Tốp năm, tốp ba mấy đứa nhỏ ra cửa đứng nhìn (Lúc mới sang đây, tôi gặp cảnh này còn thấy ngộ ngộ, gặp nhiều thành ra quen lại thấy gần gũi). Đường làng sương sớm giăng giăng, xa xa phía trước, có thằng bé trai đang vật lộn với một con heo nhỏ, đứa bé gái bên cạnh thì cố giữ chặt đầu hai con dê vì sợ nó thấy chúng tôi nhiều người lại gần sẽ chạy mất. Đoàn được một người đàn ông trung niên thỉnh vào nhà để xin được đặt bát. Căn nhà nhỏ không đủ chỗ cho một trăm hai sáu vị tỳ khưu. Chúng tôi ngồi đầy sân, tràn ra cả hai bên đường vắng. Không lâu lắm, từng ly sữa nhỏ đã được mang ra. Người gia chủ tốt bụng đi tới mọi nơi, dâng lên từng người với nét mặt vô cùng tín tâm và hoan hỷ. Tôi cầm ly sữa nhỏ nóng hổi trong đôi bàn tay đang lạnh. Nước màu nâu trong ly sóng sánh, phả khói nghi ngút. Tôi nghe trong đó có vị của sữa bò tươi, của trà, của gừng và cả mùi vị của tấm lòng thôn dã. Từ biệt và không quên chúc phúc cho vị gia chủ kính mến, đoàn lại ôm bát, dạo bước trên đường làng. Chúng tôi nhận thêm được ít bánh Chabati, khoai tây hầm và vài vắt cơm sữa truyền thống từ nhiều người dân. Sau khi Đạo Phật biến mất khỏi Ấn Độ, các truyền thống của Phật Giáo cũng bị lãng quên cho đến tận ngày nay, nên chúng tôi vô cũng hoan hỷ với chút ít vật thực nhận được từ những Phật Tử bản địa này.
Gần trưa, đoàn quay lại nơi dựng trại để độ ngọ. Vật thực được đổ chung vào một cái xoong lớn rồi chia đều ra cho mỗi vị ( Đoàn quá nhiều người, những vị đi sau thường sẽ không nhận được gì). Tuỳ nghi, tìm cho mình một chỗ phù hợp, chúng tôi chắp tay quán tưởng về vật thực thọ dụng. Mọi người trầm lắng, độ thực một cách chậm rãi hơn mọi khi, như sợ sẽ bỏ sót điều gì!
(*) Thiên chủ Đế Thích vì muốn trợ duyên cho Đức Phật độ hóa Đức Vua và dân chúng trong thành Vương Xá nên đã hóa thân thành một nhạc sĩ vô danh.
(*) Trích từ Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt của Minh Đức Triều Tâm Ảnh.
8. Chiêm bái các di tích tại Vesālī
Đã hơn một tháng kể từ khi khởi hành, đoàn chúng tôi hạ trại tại một bìa rừng quang đản cách không xa làng mạc. Chúng tôi dừng lại nơi này từ trưa hôm qua. Sau khi độ thực và nghỉ ngơi, tranh thủ lúc mặt trời còn ấm áp, mọi người vào làng xin nước để tắm giặt và cạo tóc. Chúng tôi cần làm lễ bố-tát vào sáng nay trước khi tiến về chiêm bái các di tích tại Vesālī.
Sau khi tụng giới và độ ngọ xong, chúng tôi quét dọn lại khu vực nghỉ ngơi trước khi lên đường. Đã quen lắm những cánh đồng cải vàng-đến đỗi, có sư trong đoàn nhất định gọi chuyến hành trình này nên đổi tên thành “Đi Qua Mùa Hoa Cải” thay vì “Theo Dấu Chân Phật”. Thế nhưng, cứ mỗi khi băng qua những cánh đồng rực rỡ hoa vàng ấy, tôi luôn bắt gặp trong lòng mình những điều mới mẻ. Tôi quên luôn cả việc chánh niệm trên mỗi bước chân. Lòng miên man trôi theo những ký ức ở phía cuối chân trời xa tít tắp. Nơi đó có thằng bé tôi lon ton, những chiều ba mươi tết ngồi cạnh mấy vồng hoa cải mà thơ thẩn. Nơi đó có dáng ông tôi còng lưng xới đất, gieo xuống những hạt cải li ti. Dăm ba hôm sau, hạt nẩy mầm, thành những vồng xanh mơn mởn. Cây nhỏ thì ông nhổ vào làm rau sống, lớn chút thì luộc với nấu canh. Ông luôn để lại vài khóm tốt nhất, gần tết sẽ ra hoa. Ông thường bảo “chỗ này để dành, không được ăn để còn thu lại hạt giống, qua năm sau có cái mà gieo tiếp”; và đương nhiên, thằng bé tôi nghe lời ông, không nhổ mấy khóm cải ấy! Căn nhà ba người: ông, bà và cháu quá đơn sơ, mùa xuân về có thêm mấy khóm hoa vàng-sẽ rất đẹp! Và biết đâu, vì hoa đẹp mà người bé tôi mong nhớ sẽ về!
Chúng tôi còn thấy cả một đàn nai bên kia ruộng lúa mạch, xa xa cứ tưởng là trâu vì chúng to và đen lắm, nhưng khi đến gần nhìn cặp sừng mới biết là nai. Mất rừng, chúng về đồng sống với người dân. Thấy người mà chúng vẫn cứ điềm nhiên lạ. Vài ba chú nai con thì hơi e dè, nép mình sau lưng bố mẹ chúng như sợ có ai đó trong chúng tôi sẽ bất chợt lao ra ôm nó chạy mất… Những vùng đất chúng tôi đi qua, dân chúng thiệt nghèo, nhưng họ không khổ. Có lẽ, họ vẫn còn thiếu miếng cơm để no bụng, thiếu mảnh áo để ấm thân, nhưng tình thương yêu, tôn trọng dành cho mọi sự sống luôn dạt dào trong tim. Họ chia cho cánh chim trời hạt thóc, chia cho đàn thú rừng một khoảng bình yên. Nhìn muôn thú vui vầy quanh mình không lo âu, họ thấy cuộc đời mình đầy đủ.
Chúng tôi cũng đến được Vesālī vào buổi chiều hôm đó. Cả đoàn hạ trại tại một khoảng đất trống. Theo như chỉ định của vị trưởng đoàn, chúng tôi sẽ ở lại đây ba đêm để chiêm bái các di tích Phật Giáo nơi này.
Vesālī thưở xưa là một thành phố lớn, dân cư đông đúc và được cai trị bằng một nền dân chủ cộng hoà phồn hoa thịnh mậu. Đức Phật đã nhập hạ tại đây hai lần: hạ thứ năm và hạ cuối cùng trong cuộc đời của Ngài. Đây cũng là nơi đánh dấu cho sự khởi nguồn của hội chúng tỳ khưu ni. Vesālī ngày nay được xác định là vùng đất có tên Basadha, thuộc phía bắc bang Bihar. Người không, cảnh không, tất cả giờ chỉ còn là những vết dấu điêu tàn của thời gian, nhưng chúng tôi không buồn vì điều đó. Chúng tôi đến đây không phải vì tìm kiếm chút gì của ảo ảnh xa xưa. Đến, đi chỉ để chúng tôi tìm về ý nghĩa đích thực của sự lang thang, du tử, học bài học đầu tiên của một đời sống sa môn hạnh- giản đơn, vô sản. Chúng tôi dành hai ngày để lần lượt chiêm bái, tụng kinh và hành thiền tại các di tích: Bảo tháp Ānanda, trụ đá Asoka, hồ Markata-Hrida (tương truyền hồ này được 500 con khỉ đào để trữ nước dâng cúng lên Đức Phật), tháp Licchavī (đây là bảo tháp do bộ tộc Licchavī xây dựng để thờ cúng xá lợi của Đức Phật), pháo đài Visāla (đây là dấu tích còn sót lại của nước cộng hoà Vajjī).
Sáng sớm ngày thứ ba, chúng tôi ôm bát vào làng khất thực. Sau khi nhận được chút ít khoai tây hầm, bánh japati nóng và gạo chúng tôi chào từ biệt Vesālī mà không quên gởi lại tấm lòng tri ân sâu sắc đến mảnh đất khô cằn mà quá đỗi thân thương này.
“- Bình bát, cơm ngàn nhà
Thân chơi muôn dặm xa
Mắt xanh, xem người thế
Mây trắng, hỏi đường qua
Mây trắng đến miền xa
Vui sao cảnh không nhà
Bánh cơm ngoài cuộc thế
Thong dong tháng ngày qua
Con đường này muôn lối
Đi nơi nào thì đi
Dặm trần không tên tuổi
Mây trời bay vô vi…!”
9. Đến Nepal, chiêm bái các di tích tại Kapilavatthu
(Từ Nalanda đến thành Tỳ Xá Li (Vaishali) dài 150 km nếu đi xe hơi mất khoảng 6 tiếng. Và từ thành Tỳ Xá Li đến Kushinaga (Câu Thi Na) nơi Đức Phật Niết Bàn dài 230 km, nếu đi xe hơi mất khoảng 6 tiếng.)
Chúng tôi thức dậy lúc mờ sương và ra đi trong lặng lẽ. Từ bỏ con đường chính hướng thẳng về Kusinārā, chúng tôi rẽ sang hướng Bắc, băng qua những rừng cây xiêm gai, cây mây và táo dại-tiến về Nepal. Thi thoảng, chúng tôi phải lội qua những đoạn sông dài để sang bờ bên kia. Nước sông mùa này chỉ còn lưng lửng. Nước không xanh như dòng sông nên thế, nước đen ngòm, nặng mùi, nên nước chẳng buồn trôi. Dân cư vùng này thưa thớt, nghèo nàn. Vài ba căn nhà tạm bợ chỉ đủ che nắng, về mùa lạnh và mưa hẳn mọi người chỉ biết nép vào nhau, co ro trong một góc – là tôi hình dung như thế. Tuy phải sống trong cảnh “tuyết lạnh giá sương” thiếu cái ăn, cái ở, lại thêm nguồn nước ô nhiễm nhưng trên gương mặt những người dân ấy vẫn không thiếu đi vẻ chất phác, đơn thuần và tấm lòng không quên mất sự bao dung!
Hành trình lội sông, băng rừng gian khổ này dài khoảng hai mươi hai cây số, dẫu rất mệt mà ai cũng hoan hỷ. Nghĩ tưởng đến Đức Phật, chư Thánh Tăng ngày xưa, có lẽ các Ngài phải đi qua những con đường còn khó khăn hơn, chúng tôi như được vỗ về, tiếp thêm một nguồn sức mạnh to lớn để tin tưởng hơn vào con đường mình đang đi và những nơi mình sẽ đến.
Đi sâu vào những khu rừng và ruộng mía, lẩn khuất trong đó là những nền móng của chùa tháp, trụ đá còn lại của triều đại vua Asoka. Càng đi chúng tôi càng cảm thán và tri ân tận đáy lòng mình đối với những công đức lớn lao mà vua Asoka để lại. Tôi không đọc được tiếng Ấn, lại không hiểu hết những gì vị trưởng đoàn giảng bằng tiếng Thái, nên tôi không biết những nền móng này là dấu tích của của di tích nào. Những đồi đất, gạch vụn và trụ đá lặng thinh-là những gì còn lại minh chứng cho một thời đại huy hoàng đã từng hiện hữu nơi đây. Ở những nơi như vậy, chúng tôi thường ở lại một hôm để tụng kinh và hành thiền, hôm sau lại đi. Trong những di tích tại khu vực này, bảo tháp Kesaliya là công trình ấn tượng nhất tôi từng thấy. Xa xa trong sương mờ, bảo tháp lớn như một ngọn đồi thấp. Bảo tháp đã hoang phế qua nhiều triều đại, thế mà hiện tại vẫn còn cao bốn mươi hai mét và rộng tám mươi bốn mét. Bảo tháp đã mất đi phần đỉnh, mất đi luôn cả những hào quang xa xưa, nhưng tôi vẫn cảm nghe sự thiêng liêng của nó dường như đang hiện hữu nơi đây – âm thầm nuôi giữ cho hàng triệu tín đồ Phật giáo một ngọn nguồn để khơi dậy đức tin.
Bỏ lại sau lưng những ngày sương trắng, chúng tôi đã đến Nepal vào một ngày nắng đẹp. Nắng như reo ca trên từng ngọn gió thổi qua cánh đồng. Nắng mơn man, như đứa trẻ nghịch ngợm, đùa vui trên những tấm y sờn rách. Mọi người hân hoan, vui như trẩy hội.
Chúng tôi sẽ ở lại Nepal mười ngày. Đầu tiên, chúng tôi tiến thẳng về cổ thành Kapilavatthu. Nơi đây không còn lại gì nhiều, một bức tường thành đổ nát bao quanh một diện tích đất khá lớn. Cây cối mọc dày bên trong. Một vài nền móng di tích dường như đang khai quật hãy còn dang dở. Cây và gạch chen nhau nên cũng khó nhìn ra được đâu là những công trình to lớn cho một kinh thành xa xưa. Chúng tôi tình cờ bắt gặp một lễ hội gì đó của dân bản địa đang diễn ra trong khuôn viên này. Người già, trẻ nhỏ, nam thanh, nữ tú xiêm áo đàng hoàng, họ mang theo nồi niêu xoong chảo, nhóm lửa, họ đang nấu những món ăn. Dường như mỗi nhà mỗi món, tôi thấy họ tất bật chuẩn bị những món lễ phẩm để kịp cúng dâng lên một vị thần nào đó. Một người đàn ông lớn tuổi đang ngâm ca trước một điện thờ đã đầy hoa trái. Tôi không hiểu bài tế tự đó nói gì nhưng giọng ca nghe rất trầm và ấm. Thấy chúng tôi mọi người không ngạc nhiên như tôi hằng tưởng, vài người đứng lên mỉm cười lịch sự, vài người khác xin được đặt bát cho chúng tôi bằng những chiếc bánh nóng hổi mới vớt ra từ trong chảo.
Sau khi tụng kinh tại cổ thành Kapilavatthu, chúng tôi xin hạ trại và nghỉ ngơi tại một ngôi chùa Thái gần đó. Ngày hôm sau, chúng tôi lần lượt chiêm bái hai nơi Đản Sanh của các vị cổ Phật trong quá khứ, đó là Phật Kakusandha (Cù Lưu Tôn) và Phật Konāgamana (Câu Na Hàm Mâu Ni). Một địa điểm nằm hướng Nam, và một địa điểm nằm hướng Đông – hai nơi này ở không quá xa cổ thành Kapilavatthu, chỉ chừng hơn hai cây số đường bộ, và cả hai đều còn trụ đá và chữ khắc phía trên do vua Asoka để lại. Hôm sau nữa, chúng tôi tiếp tục bộ hành đến chiêm bái chùa Nirodhārāma. Đây là ngôi chùa xưa kia Đức Phật từng cư ngụ và thuyết pháp độ cho thân quyến của Ngài. Tại đây chúng tôi còn thấy được một bức tranh chạm khắc cảnh di mẫu Gotamī đang cúng dường tấm y quí đến Đức Phật. Chúng tôi còn đến tụng kinh, hành thiền tại khu vực dòng họ Thích-ca bị thảm sát, và hai bảo tháp tưởng niệm song thân của Ngài là hoàng hậu Mahāmāyā và đức vua Suddhodana.
Đoàn dừng lại đây thêm một ngày để được vị trưởng đoàn giới thiệu chi tiết những sự kiện quan trọng liên hệ đến Đức Phật đã xảy ra trong các các di tích này trước khi bộ hành về Lumbini – một trong bốn thánh tích quan trọng nhất của Phật giáo.
10. Chiêm bái Lumbinī và bảo tháp Rāmagāma
(Từ Kushinaga (Câu Thi Na) nơi Đức Phật Niết Bàn đến Lâm Tỳ Ni nơi Đức Phật Đản sanh dài 165 km, nếu đi xe hơi mất khoảng 4 tiếng.)
Con đường về Lumbinī ngập ngừng hoa nắng. Chúng tôi thong thả bộ hành xuyên qua những xóm làng đầy gió,bụi. Mất hai ngày dưới cái nắng oi ả cả đoàn mới đến được Lumbinī. Cứ ngỡ Lumbinī cũng giống như bao Thánh Tích mà chúng tôi đã đi qua- hoang tàn, trơ trụi vậy mà Lumbinī lại khác. Một vùng đất lớn có dựng tường rào bao quanh. Các cổng chính vào ra được đánh số để dễ phân biệt và có người bảo vệ cả ngày lẫn đêm. Lumbinī như một công viên rộng lớn với cây to, cây nhỏ, những hồ nước trong và những hàng liễu rũ xanh rì rào. Từng còn đường rộng được trải nhựa. Những nóc chùa, tháp nhiều màu sắc và kiểu dáng của từng nước được xây dựng công phu với nét văn hoá đặc trưng riêng.
Chúng tôi xin được ở lại trong khuôn viên của một ngôi chùa Thái, mọi người nhanh tay sắp xếp mọi thứ để chuẩn bị cho kịp giờ độ ngọ. Phần đa mọi người đều dựng lều quanh những gốc cây để tránh bớt cái nóng như thiêu đốt. Tôi chọn cho mình góc nhỏ không có tán cây, nhưng lại gần mấy luống rau của chùa: sà lách, cải, đậu, dưa leo. Chúng xanh mơn mởn, nhìn thôi cũng đã mát!
Cả đoàn dành thời gian hết buổi chiều hôm đó để chiêm bái nơi Đức Phật Đản Sanh. Công tác xây dựng và trùng tu còn đang được tiến hành nên chúng tôi phải xếp hàng một khi tiến vào Điện Thờ Hoàng Hậu Māyā Devī – Đây là một trong ba công trình chính được đức vua Asoka cho xây dựng khi viếng thăm nơi này. Dấu tích cổ xưa chỉ còn là những nền gạch đất cũ. Điểm chính của công trình là bức tượng mô tả cảnh hoàng hậu Māyā vin cành sāla và hạ sanh Hoàng Tử.
Vin cành lộc thắm – mẹ khai duyên
Bảy bước, nhân gian trổ phước điền
Ngưỡng vọng, Phạm thiên che lọng trắng
Tín thành, Long chúa cúng mưa tiên
Cỏ cây bát ngát hương tinh khiết
Mây nước lung linh sắc diệu huyền
Mở chốt càn khôn, thông hữu hạn
Nắm vầng nhật nguyệt, tỏ vô biên
Hoa đơm mật hạnh thơm ba cõi
Pháp thắp bi tâm sáng sáu miền
Mệnh hậu, Māyā chơi Đẩu Suất
Vô ưu từ đó nở không viên! (*)
Chúng tôi không được phép dừng lại quá lâu vì còn phải nhường chỗ cho nhiều đoàn hành hương và khách tham quan khác phía sau. Một khoảnh lặng yên ngắn ngủi giữa chốn thiêng liêng, nơi khởi nguồn của một kiếp sống vĩ đại, đầy chân thật mà mầu nhiệm của một vị Phật cũng khơi dậy lên trong chúng tôi niềm hỷ an, tịnh tín lạ thường. Tôi thấy một vị sư già trong đoàn quỳ lặng lẽ nơi một góc khuất. Đôi vai rủ nhẹ. Ánh mắt đau đáu nhìn vào bức tượng. Trên gương mặt xạm đen,dạn dày mưa nắng ấy lại bừng lên nét hồn nhiên ngây dại như ánh mắt của một kẻ tha hương, đày đoạ, mong nhớ nay bỗng thấy mình ngồi lại giữa cố hương!
Thời gian còn lại, chư tăng chiêm bái, tụng kinh và thiền hành tại hồ nước Sakyan và tại trụ đá của vua Asoka. Đoàn ở lại Lumbinī thêm một ngày để mọi người có thời gian tham quan chùa tháp của các nước xây dựng tại đây rồi lại ra đi khi trăng khuya vẫn còn vằng vặc sáng
Đoàn đến được Rāmagāma là chiều muộn ngày hôm sau. Vài sư trong đoàn bị lạc đường và phải đến gần chín giờ đêm mới đến. Trăng đêm như một dải lụa kashmir vàng nhạt khoác lên miền quê yên ả này một lớp áo lóng lánh, thanh thiết. Giọng sư trưởng đoàn nhẹ nhàng hoà quyện cùng tiếng giun dế réo ca vang lên trong một không gian huyền ảo như một bản hợp âm hoàn hảo. Dù không rành tiếng Thái nhưng tôi vẫn hiểu vị trưởng đoàn đang nói cho mọi người về nguồn gốc của tháp Rāmagāma. Đây là công trình thờ một trong tám phần Xá- Lợi Phật nguyên thuỷ. Vị ấy còn nói về câu chuyện Thần Rồng đã hiện ra ngăn cản không cho vua Asoka khai mở bảo tháp lấy Xá -Lợi phân chia ra nhằm tôn trí lại khắp nơi vì Tộc Rồng muốn phụng thờ và bảo vệ ngôi bảo tháp này. Sau phần giới thiệu lịch sử chúng tôi cùng nhau đọc một thời kinh dài an lành. Chúng tôi ngồi thiền và đi kinh hành quanh bảo tháp cho đến tận khuya, sương rơi ướt cả tăng bào mọi người mới trở lại lều của mình để nghỉ ngơi.
Sáng sớm, chúng tôi ôm bát vào làng gần đó để khất thực gieo duyên. Dân quanh vùng này nghèo nhưng dễ mến. Thấy các sư họ rất cung kính. Họ gọi mọi người trong nhà ra chào hỏi và xin được đặt bát. Vật phẩm cúng dường chủ yếu là gạo. Họ đặt vào mỗi bình bát nhiều gạo lắm. Gạo không trắng trong chỉ đùng đục, còn lẫn cả vỏ trấu nhưng gạo rất thơm. Gạo thơm mùi bùn đất. Gạo thơm mùi cực nhọc. Gạo thơm mùi của những tấm lòng chân quê mộc mạc… Cả đoàn chậm rãi tụng kinh phúc chúc cho từng người, từng nhà.
Từ giã Nepal, từ giã Rāmagāma thiêng liêng, từ giã vùng đất bình yên đầy gió này chúng tôi lại cất bước, bộ hành thẳng tiến về Kusinārā. Bước chân dần xa. Lòng tôi vẫn nhớ như in những mặt người khắc khổ, những tấm lòng rộng rãi, những nụ cười trong veo, những bàn tay đen xù xì, chai sạn, những chân chất, những hồn nhiên, những chân thành… Những hạnh phúc giản đơn chưa cạn đến đáy đã lại đầy nơi những người dân này!
11. Chiêm bái thánh tích Kusinārā – Câu Thi Na: nơi Đức Phật Niết bàn
Từ Kushinaga hay Kushinara (Câu Thi Na) nơi Đức Phật Niết Bàn đến Lâm Tỳ Ni nơi Đức Phật Đản sanh dài 165 km, nếu đi xe hơi mất khoảng 4 tiếng.)
Mặt trời xuống núi, nắng vàng cuối ngày trải dài trên khắp không gian. Những tia nắng yếu ớt len lỏi qua những ngôi nhà tranh tuềnh toàng của sơn thôn nhỏ. Vài ba cây hoa gạo nở bông đỏ ối tạo nên một bức tranh quê yên bình nhưng đườm đượm buồn.
Từ Lumbini chúng tôi ngược đường trở lại đất Ấn Độ. Sau khi ghé thăm và chiêm bái cổ thành Kapillavatthu, thăm căn nhà của người Thợ Rèn Cunda, thăm dòng sông Kakuttha nơi Đức Phật tắm rửa lần cuối, đoàn dừng lại ngoài một ngôi làng nhỏ. Không vội vã, chúng tôi chọn những khoảnh đất khá bằng phẳng để dựng lều nghỉ qua đêm trong một vườn xoài cổ thụ. Nửa hành trình với sương trắng và mưa lạnh đã qua, trời mùa này chuyển sang nắng nóng và oi bức, vậy nên mọi người thức khuya hơn thường ngày. Đâu đó dưới những gốc cây, vài sư đang yên tĩnh toạ thiền. Một nhóm nhỏ các tỷ kheo mới xuất gia đang ngồi nghe vị sư già nói Pháp. Lác đác vài ba nhóm các sư khác đang tâm tình, khe khẽ kể cho nhau nghe về chuyện đời mình, đời người. Thi thoảng vài cơn gió mồ côi thổi qua, xào xạc những tán lá. Không gian dịu mát hơn rồi từ từ chìm vào đêm vắng.
Sáng sớm, sau khi nhận được chút ít vật thực từ người dân trong làng, đoàn bộ hành tiến về Kusinārā. Kusinārā ngày nay thuộc quận Kusinārā bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Rất nhiều chùa tháp lớn, nhỏ của các nước được xây dựng quanh nơi đây. Nhiều nhà nghỉ và hàng quán mọc lên để phục vụ cho khách hành hương khiến vùng này trù phú hơn so với những thánh tích khác mà chúng tôi đã đi qua. Xin tá túc trong khuôn viên một ngôi chùa Thái Lan, buổi chiều chúng tôi xếp thành hàng một tiến về chiêm bái nơi xưa kia Đức Phật đã nằm an nhiên, đầu quay về hướng Bắc, chân duỗi thẳng hướng Nam – Tịch lặng Ngài đi vào Niết Bàn.
Nơi Đức Phật nhập Niết Bàn ngày nay được quy hoạch thành một công viên sạch đẹp với các dấu tích xưa xen lẫn giữa những thảm cỏ xanh mướt. Rất đông Phật tử khắp nơi hành hương về đây, thấy đoàn chư tăng nối dài mọi người hoan hỷ nhường một lối đi nhỏ. Cả đoàn chậm rãi tiến vào bảo tháp Mahāparinibbāna theo bước chân của vị trưởng nhóm. Chúng tôi thành kính nhiễu ba vòng về phía tay phải quanh bức tượng Ngài nhập Niết Bàn. Trong không gian thiêng liêng thành kính ấy, chúng tôi tụng to chín Hồng Danh cao cả của Ngài rồi lặng tìm cho mình một góc nhỏ, yên tĩnh ngồi xuống. Đâu đó có tiếng khóc của các sư cao hạ. Tôi ngồi lọt thỏm trong một góc hơi chếch lên phía trên một chút, đối diện khuôn mặt từ ái của Ngài. Khi ánh mắt tôi chạm vào khuôn mặt đó – tôi cũng khóc! Những giọt nước mắt lăn xuống thật hồn nhiên, nhanh đến nỗi phải vài giây sau tôi mới nhận ra là mình khóc. Những giọt nước mắt hạnh phúc của sự hỷ hoan. Những giọt nước mắt tri ân vô bờ bến dành cho Đấng Cha Lành – người đã nỗ lực không ngừng nghỉ trong suốt bốn A-tăng-Kỳ cùng trăm ngàn đại kiếp thực hành Ba – la -mật để đến kiếp cuối cùng khai mở một dòng suối mát lành giữa hoang vu khổ đế. Những giọt nước mắt hổ thẹn cho tấm thân nhiều vô minh và dể duôi của chính tôi đang ngồi đối diện trước tấm lòng từ bi bao la của Ngài!… Sau đó, chúng tôi tụng một thời kinh và cùng nhau choàng nhẹ nhàng tấm y đã chuẩn bị sẵn lên thân Ngài.
Trong suốt tám ngày lưu lại đây, chúng tôi dành phần lớn thời gian để ngồi và thiền hành quanh bảo tháp Mahāparinibbāna. Cảm giác thân thuộc và gần gũi khiến cho mọi người cứ muốn được mãi ở lại nơi này. Trước khi lên đường, chúng tôi đến chiêm bái bảo tháp trà tỳ Ramabhara – nơi hoả thiêu nhục thân của Đức Phật.
Tôi nhớ có người nói rằng: “Nếu như Thánh tích Lâm Tỳ Ni, nơi thiên nhiên và muôn vật hoan ca chào đón sự Đản sanh của Đức Phật, thì Kusinārā lại là nơi trời người và muôn vật rơi lệ u buồn tiễn biệt Ngài. Nếu Bồ Đề Đạo Tràng là nơi đạo tràng thiêng liêng, bừng tỏa ánh sáng giác ngộ, thì Kusinārā là nơi ánh đạo huy hoàng của Ngài đã tắt lịm”. Riêng với tôi Kusinārā luôn là mái nhà chung, nơi có Đấng Cha Lành đang dõi mắt, mỉm cười hiền từ nhìn từng đàn con với tín tâm và trí tuệ bước đi trên con đường giải thoát, như vầng nhật nguyệt trên cao vẫn mãi chiếu sáng cho thế gian chưa bao giờ lặn tắt.
12. Chiêm bái các di tích tại Sāvatthī
Những bàn chân dày cui chai sạn sau lộ trình gần hai ngàn cây số mà chúng tôi đi trong hơn hai tháng đã phồng rộp dưới cái nắng bốn mươi độ. Cây cối hai bên đường héo úa, dường như càng ủ rũ hơn theo tiếng quạ kêu trưa. Do dừng lại khá lâu tại Kusinārā nên chặng đường về Sāvatthī chúng tôi phải đi sáu mươi cây số một ngày. Trời không một chút gió và trên đầu không một đám mây, mọi người phải bước nhanh trên những đôi chân đã rướm máu ấy.
Chúng tôi đến Sāvatthī đã hơn bảy giờ tối mà trời vẫn hưng hửng sáng. Vài quán nước lụp xụp ven đường thoảng mùi bột chiên thơm nức. Đoạn đường dài làm mọi người mệt nhoài và đói. Tìm được khoảng đất phù hợp vị trưởng đoàn ra hiệu dừng lại để nghỉ qua đêm. Mọi người dựng lều trong lặng lẽ và chia nhau làm luôn phần cho những vị sức khoẻ yếu hay chân đau nhiều còn tụt lại đằng sau. Các giếng mùa này khô hạn, chỉ đủ nước rửa mặt tuy vậy không ai tỏ ra khó chịu vì dơ.
Chúng tôi có cuộc họp Tăng lúc chín giờ tối. Vị trưởng đoàn nói về sự kham nhẫn, tinh tấn mà một vị đệ tử Phật cần có trên con đường tầm cầu giải thoát để động viên mọi người. Rồi sau đó, sư ấy giới thiệu sơ lịch sử những di tích Phật Giáo tại Sāvatthī cho những người mới như tôi. Mười giờ, cuộc họp tan. Trăng huyền treo nghiêng nghiêng trên đỉnh đầu. Mọi người trở lại lều rồi nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ mặc những tiếng khỉ xa xa đang réo rắt gọi bầy.
Đức Phật đã thuyết gần chín trăm bài kinh và sống tại Sāvatthī qua hai mươi lăm mùa An Cư nên di tích Phật Giáo còn lại rất nhiều. Sáng hôm sau, cả đoàn đến chiêm bái Kỳ Viên Tịnh Xá. Móng, nền và tường gạch thấp còn lại trong một khuôn viên rộng lớn đủ để chúng tôi mường tượng về những gì từng hiện diện nơi đây. Bước đi trên những con đường được lót gạch, tôi nhớ đến vị cận sự nam Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) với tín tâm bất động đã dùng vàng rải khắp khu đất này để mua và xây dựng nên Kỳ Viên Tịnh Xá cúng dường Đức Phật. Tịnh xá đã tồn tại đến giữa thế kỷ mười hai sau Tây Lịch dù phải trải qua nhiều thăng trầm, biển đổi của thời gian. Phật Giáo luôn phát triển mạnh tại Sāvatthī dưới sự hộ độ của các vua Gaharawala. Nhiều bia ký về các vị vua trên được tìm thấy tại di tích này. Chúng tôi tụng kinh và hành thiền rất lâu tại hương thất của Đức Phật và cội bồ đề Ānanda. Đây chính là cây Bồ Đề được ngài Ānanda trồng theo sự đồng ý của Đức Phật để thiện nam, tín nữ có nơi đảnh lễ những khi Ngài vắng mặt. Bồi hồi nhìn thân cây to lớn vươn lên giữa trời xanh tôi như thấy hình dáng Người Cha Hiền Từ đang mở rộng đôi vòng tay che chở cho những đứa con của mình trên bước đường ngược dòng sinh tử.
Những ngày sau đó, đoàn lần lượt đi chiêm bái tháp thờ Anāthapiṇḍika và bảo tháp thờ vị thánh tăng Aṇgulimāla. Tôi dừng lại khá lâu bên một tấm bảng nhỏ ghi những câu kinh của Ngài Aṇgulimāla “Này Bà chị, vì rằng tôi từ khi sanh ra trong dòng Thánh chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn, và sanh đẻ được an toàn!”. Ngài Aṇgulimāla từng là một tướng cướp hung bạo, giết người cắt ngón tay xỏ làm tràng hoa đã bỏ ác hành thiện khi được Đức Phật độ hoá. Mọi người trang nghiêm tụng kinh và cúng dường hoa lên bảo tháp rồi ra về khi mặt trời chìm dần vào cuối chân trời. Tôi nán lại chép những câu kinh ấy lên một bức tượng nhỏ luôn mang theo bên mình như một món quà ý nghĩa cho riêng tôi.
Đoàn giã biệt Sāvatthī. Dặm lữ và bụi đường sẽ cuốn chúng tôi đi rất xa nhưng những câu chuyện và lời dạy của Đức Phật tại vùng đất này mãi là tư lương cho mọi người trên con đường Tìm Về Chính Mình!
13. Chiêm bái các di tích tại Kosambī
Con đường vắng người qua lại. Càng đi thời tiết càng trở nên khốc liệt. Trời oi 40 độ, không gió, không mây, không cây, không làng mạc phố xá. Những con bò lang thang cũng sùi cả bọt trắng lên miệng vì nắng nóng và khát. Trên đường về Kosambī, đoàn dừng lại qua đêm trên một cánh đồng vắng. Mọi người tranh thủ tắm rửa dưới một cái kênh mà nước chỉ còn tính bằng vũng. “Máy- mi – phôn – tốt” (nghĩa là: không có mưa) tôi nghe giọng các sư người Thái nói với nhau nhiều lần. Có lẽ niềm mong muốn lớn nhất của mọi người lúc này là một cơn mưa. Nhưng không có tiếng sấm nào đáp lại ước nguyện đó, chỉ thấy mặt trời đỏ hồng cuối chân trời xa như đang cười trêu chúng tôi trước khi trốn vào bóng núi.
Mọi người tranh thủ ngủ sớm để có sức cho chặng đường dài ngày mai. Đêm tĩnh mịch dần. Có tiếng quạt giấy lạch phạch vang ra từ vài căn lều như muốn xua đi cái oi bức đang len lỏi vào cả những giấc mơ. Tưởng sẽ phải trải qua thêm một đêm khó ngủ như thế thì mưa lại đến. Mưa lúc gần một giờ sáng. Mọi người thức dậy ngay khi những hạt mưa đầu tiên rơi xuống, hoan hỷ bước ra khỏi lều hứng những giọt nước mát lạnh, ngọt lành.
Nhân gian thường nói “trời chẳng cho không ai cái gì bao giờ” quả là có lý. Niềm vui của chúng tôi dài chửa tày gang thì mưa như một dòng thác từ trên cao ào ạt tuôn xuống. “Hạnh phúc bất ngờ” làm tất cả bối rối, quýnh quáng gọi nhau thu dọn lều trại. Sau những giây phút nỗ lực thì tất cả dừng lại, không một ai buồn thu dọn đồ đạc vì “có chạy đằng trời” thì cũng không biết trốn đi đâu được giữa chốn đồng không, đêm tối. Mọi người đứng yên, ướt sũng, nhìn lên bầu trời rồi nhìn nhau cười như mếu. Vậy là chúng tôi có một đêm thức trắng bởi chính hồi đáp éo le cho ước nguyện của chính mình!!!
Đường về Kosambī càng lúc càng gần sau mỗi bước đi. Nhà cửa thưa dần, những ruộng vàng hoa cải mà chúng tôi đi qua khi bắt đầu hành trình 2600km này giờ chỉ trơ những gốc. Chim công, khên khên, khỉ tụ thành từng đàn ung dung kiếm ăn khắp nơi. Chúng vẫn nhởn nhơ khi thấy chư Tăng tiến đến. Người Ấn Độ những nơi đoàn đi qua đa phần còn nghèo khổ và lạc hậu. Thế nhưng, cách họ tôn trọng mọi sự sống làm tôi cảm mến vùng đất và con người nơi đây quá đỗi.
Băng qua một ngôi làng nhỏ mà nhà toàn được làm từ đất, qua thêm những vườn xoài cổ thụ vài trăm tuổi chúng tôi đến được Kosambī. Trong kinh điển Phật Giáo, Kosambī được nhắc đến là một kinh thành lớn, giàu có bên cạnh các thành nổi tiếng khác như Rājāgaha, Sāvatthī, Vārāṇasi v.v.. Đức Phật đã ở tại Kosambī vào hạ thứ nhất và thứ chín. Không có nhiều di tích còn sót lại nên chúng tôi chỉ dừng lại đây hai ngày.
Đoàn ghé chiêm bái thánh tích Ghosita, đây là tịnh xá Ngài đã cư ngụ vào hạ thứ chín của mình. Trong kinh còn nhắc đến Ghosita về câu chuyện: Có hai nhóm tỳ khưu vì bất hoà giới luật mà sinh ra cãi vã. Khi sự việc xảy ra, Đức Phật đã cố gắng hoà giải nhưng mọi nỗ lực của Ngài điều bất thành. Nhận thấy chưa thể làm lắng dịu những sân si của các vị ấy, Đức Phật đã lặng lẽ một mình vào rừng Pārileyyaka (kỳ hạ thứ 10), để lại hai nhóm tỳ khưu với những tranh cãi đúng, sai. Cuộc tranh cãi càng lúc càng lớn dẫn đến việc tăng chúng ở Kosambī chia rẽ sâu sắc. Đức tin giảm sút, thiện nam, tín nữ chán ngán nên không còn hộ độ tứ sự đến tỳ khưu nơi này nữa. Mãi đến sau này khi tâm đã lắng dịu, hai nhóm tỳ khưu trên mới đến quỳ dưới chân Đức Phật và mong được sám hối. Với từ tâm Ngài đã dạy rằng:
Pare ca na vijānanti
mayamettha yamāmase,
ye ca tattha vijānanti
tato sammanti medhagā.
Luận tranh chẳng có ích gì!
Tranh cường, hiếu thắng lắm khi phiền hà
Ai người suy ngẫm sâu xa
Nói năng tự chế, bất hòa lặng yên!
Chúng tôi còn đến tụng kinh tại các dấu tích khác của tịnh xá Kukutārāma, Pāvārikambavana, Badarikārāma và trụ đá Asoka cách đó không xa. Hầu hết những dấu tích kinh thành đã tan biến theo thời gian. Tuy nhiên, có rất nhiều gạch, ngói xen lẫn trong đất canh tác trên một vùng rộng lớn đủ cho mọi người hình dung về một thời huy hoàng xa xưa.
Trước khi rời Kosambī, chúng tôi tụng đọc giới bổn Patimokkha trên một di tích cạnh sông Yamunā. Thuở còn tại thế, Đức phật đã nhiều lần lấy hình ảnh con sông này để giáo giới đến các hàng đệ tử. Mọi người cùng sám hối lẫn nhau cho những lỗi lầm do cố ý hay vô tình đã phạm phải, rồi ngồi xuống lắng nghe vị trưởng lão trong đoàn tuyên đọc 227 giới dành cho chư tăng. Đây là những điều học, những hàng rào bảo vệ thân, khẩu, ý cho được trọn lành trước tham, sân, si mà chúng tôi cần tự nhắc nhở và thực hành mỗi ngày.
14. Thánh tích Sarnath, nơi Đức Phật Chuyển Pháp Luân)
Chúng tôi đến Sanath sau những ngày bộ hành vội vã. Hàng hoá bày bán hai bên đường đa dạng và đẹp mắt: dấu hiệu nhận diện đầu tiên của vùng đất có kinh tế phát triển. Khách hành hương tấp nập, đến từ nhiều quốc gia khác nhau nhưng khuôn mặt ai cũng thấp thoáng nụ cười hoan hỷ và mộc mạc. Với sự tín thành và lòng cung kính, mọi người chậm rãi tiến về con đường Vārāṇasī-Gazipur. Và không xa phía trước là bảo tháp Dhammeka uy nghiêm vươn cao giữa nền trời xanh thẳm, đó chính là nơi mà mọi khách hành hương đang hướng đến.
Sarnath là một trong bốn thánh tích quan trọng đối với hàng đệ tử Phật. Cũng như những Thánh Tích lớn khác, Sarnath (còn gọi là Vườn Nai hay vườn Lộc Giả) được quy hoạch thành một công viên sạch đẹp với những nền móng còn lại của rất nhiều liêu thất và bảo tháp. Các di tích cổ nhất được khai quật tại đây vào thời đại đế Asoka. Đức vua Asoka cùng hoàng gia đã đến chiêm bái nơi này khoảng 300 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn. Đức vua cho xây dựng rất nhiều công trình, trong đó có hai bảo tháp lớn là Dhammeka và Dhammarājika. Một trụ đá cao với đỉnh trụ là tượng bốn con sư tử cũng được đức vua cho dựng cạnh hương thất Mūlagandha của Đức Phật. Ngoài ra, rất nhiều tượng Phật và các bức phù điêu hoạ tiết được tìm thấy khiến nơi đây thành điểm thu hút cộng đồng khách quốc tế nhờ bản sắc tôn giáo cùng với sự phong phú về di sản nghệ thuật.
Hoà theo dòng người trong sắc trời hoàng hôn nhạt nắng, chúng tôi đến chiêm bái và tụng kinh tại hương thất Mūlagandha. Sau đó, đoàn chậm rãi nhiễu ba vòng quanh bảo tháp Dhammeka trong niềm kính ngưỡng và xúc động sâu xa. Chính tại nơi đây, sau khi giác ngộ, Đức Phật đã thuyết giảng bài pháp đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân cho năm anh em Kiều Trần Như (kodañña): “Hỡi nầy các Tỳ Khưu, có hai cực đoan (anta) mà hàng xuất gia phải tránh: Sự dể duôi trong dục lạc… Sự thiết tha gắn bó trong lối tu khổ hạnh…Từ bỏ cả hai cực đoan ấy, Như Lai đã chứng ngộ con đường Trung Đạo (Majjhima Patipada), là con đường đem lại nhãn quan, tri kiến, đưa đến an tịnh, giác ngộ và Niết Bàn…”. Lời kinh ấy như tiếng hống con mãnh sư vang lên giữa khu rừng hoang vu của nhận thức và truyền thống. Lời kinh ấy đã lần đầu tiên vén mở một đạo lộ bất tử giữa tam giới khổ đau bằng con đường trung đạo tám nhánh có khả năng dẫn lối cho chúng sanh tìm về nơi trong sáng, tịch tịnh của tự tánh. Lời kinh ấy chính là tinh yếu của trí tuệ và từ bi đã được Ngài hun đúc qua hơn 20 A-tăng-kỳ bằng thân, tâm của chính mình… lời kinh ấy sau 2500 năm vẫn như còn được nghe thấy từ những nền gạch đá rêu phong này!
Trời tối nhanh. Khách hành hương thưa dần. Một đàn cò trắng vội vàng bay về phía dãy núi xa xa cắt ngang hoàng hôn một vệt khói bạc. Chúng tôi vẫn quỳ lại nơi đó rất lâu, rất lâu…
Sarnath là thánh tích cuối cùng trong chuyến hành trình Theo Dấu Chân Phật của chúng tôi. Không phải hiện tại, mà dường như có cái gì đó trong sâu xa thôi thúc gắn kết tôi với mảnh đất này, tự dưng lại thấy buồn khi mà chặng đường còn lại có thể đếm được bằng những bước chân.
Ôi! Những bước chân ngàn năm có một
Theo gót Người mà cứ ngỡ chiêm bao
Dấu Chân Phật giữa nhân gian bất diệt
Du tăng đầu-đà hướng ánh trăng sao!
Tạm biệt Sarnath!
Tôi sẽ xa nhưng rồi sẽ trở lại nơi này.
Tôi đã dự định rằng mình sẽ viết một bài cuối về Đức Tin và những điều mà tôi đã chiêm nhiệm được trên những tháng ngày Theo Dấu Chân Phật. Vậy nhưng, bần thần suốt nhiều hôm liền, kể cả khi đã đã kết thúc hành trình đặt chân về lại Việt Nam tôi vẫn không thể viết gì được. Tôi thấy nó rất rõ trong lòng mình lúc này nhưng cố tình diễn đạt thì nó lại tan ra, mờ ảo như sương khói xa xăm. Cứ như những tán cây trơ cành hôm qua và bỗng nhiên sáng nay bạn bắt gặp những mầm xanh nho nhỏ, dạo dạt sức sống trong nắng mai, bạn có thể thấy những chồi lá xanh non hiện hữu một cách sống động nhưng lại không thể diễn đạt tiến trình nó đến. Dù sao cái quan trọng nhất chúng tôi muốn trao gửi đến mọi người trong chuyến hành hương này chẳng phải là những gì thấy, nghe hay cảm nhận của cá nhân, vì mỗi một người sẽ học cho mình được những bài học khác nhau trên cùng Miền Đất Phật Thiêng Liêng ấy. Những điều đã viết trên từng chặng đường có chăng đó chỉ như những bông hoa nhỏ điểm tô trên một chiếc bánh thật ngon mời gọi mọi người tự mình một lần cầm lên để nếm thử. Lumbinī (Đức Phật Đản Sanh), Bhodgaya (Đức Phật Chứng Đạo), Sarnath (Đức Phật Chuyển Pháp Luân) và Kusinārā ( Đức Phật Nhập Niết Bàn – Đó là bốn nơi lưu giữ trong mình những vết tích lịch sử cùng với thời gian dành cho tất cả những người con Phật đến để kiểm chứng sự thật. Hãy tự mình một lần đến Tứ Thánh Tích này, hãy nếm thử và rồi bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thơm của của chiếc bánh, sẽ thấy được Đức Tin và Niềm An Lạc tăng trưởng trong lòng mình như chính lời Đức Phật đã dạy…
Tạm biệt Ấn Độ. Tạm biệt quê nhà của Người Cha Chung, thêm lần nữa chúng tôi sẽ lại tìm về!
Discussion about this post