được
xem nhiều kinh lưu trữ trong Thư Viện Hoa Sen, trong đó
có những kinh được quý thầy cho biết là kinh liễu nghĩa
và kinh bất liễu nghĩa. Ví dụ như kinh Bát Nhã là kinh
liễu nghĩa và kinh Địa Tạng hay kinh Nhân Quả Ba Đời là
những kinh không liễu nghĩa. Vậy xin vui lòng cho tôi biết
thế nào là kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa. Xin cảm ơn quý ban biên tập.
TRẢ
LỜI: Liễu Nghĩa là thực nghĩa hiển liễu phân minh
thuyết thị cứu cánh. Là nghĩa đã trọn, đã
hết. Đối nghịch với liễu nghĩa là bất liễu nghĩa
tức là nghĩa chưa trọn vẹn, chưa hết nghĩa. Liễu
nghĩa và bất liễu nghĩa là tên gọi khác của Cứu Cánh
(liễu nghĩa) và Phương Tiện (bất liễu nghĩa). Trong kinh điển Phật giáo có Liễu Nghĩa Kinh và Bất Liễu
Nghĩa Kinh. Cho nên Phật dạy; phải y vào kinh Liễu Nghĩa (Kinh
Đại Bát Niết Bàn – Phẩm Tứ Y).
Nói
một cách giản lược, kinh liễu nghĩa là kinh điển trình
bày về chân lý tuyệt đối, bản thể chân tâm, đúng mức
và rốt ráo. Kinh không liễu nghĩa là những kinh phương
tiện, chỉ nói về chân lý tương đối, chưa đúng mức, chưa
hết nghĩa. Ví dụ như nói: Như Lai nhờ sự ăn mà
sống còn, đó là lời (kinh) không liễu nghĩa. Nếu nói
Như Lai thường trụ không biến đổi, đây gọi là lời (kinh)
liễu nghĩa. Nếu nói Như Lai nhập Niết Bàn như củi
hết lửa tắt, đó là lời (kinh) không liễu nghĩa. Nếu
nói Như Lai nhập Pháp tánh, đấy là lời (kinh) liễu nghĩa.
Đối
với Phật Giáo Nam Tông, bất cứ kinh nào có hiện diện của
ba pháp ấn: vô thường, vô ngã và khổ là chỉ cho kinh
liễu nghĩa. Hành giả nào vâng theo những lời dạy trong
kinh liễu nghĩa này mà thực hành tu tập thì sẽ đưa đến
chỗ đắc đạo và, nếu kinh nào mà không có sự hiện hữu
của ba pháp ấn này thì kinh điển đó không phải là kinh
liễu nghĩa. Ba pháp ấn là ba phạm trù dùng để ấn chứng,
công nhận những kinh điển nào phù hợp với những lời dạy
của đức Đạo sư, phù hợp với sự thật thì những lời
dạy ấy đích thật là của trí tuệ.
Ý
niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành
với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương Đối
và Sự Thật Tuyệt Đối. Sự Thật Tuyệt Đối
tương đương với liễu nghĩa, thuật ngữ Phật học gọi
là Chân Đế, Đệ Nhất Nghĩa Đế; còn Sự Thật Tương
Đối là Tục Đế, cũng còn gọi là Sự Thật Công
Ước. Trong sự thật công ước, tất cả mọi hiện
tượng đều diễn bày thật một cách công ước, có nghĩa
là, chúng cũng thật như thể một giấc mộng. Chúng xuất
hiện và vận hành qua tiến trình duyên khởi tạo nên bởi
tâm vọng tưởng. Ngược lại, trong sự thật tuyệt đối,
tất cả mọi hiện tượng đều không có tự tính và vượt
trên mọi khái niệm, vượt trên mọi phân biệt nhị nguyên
đối đãi. Một vị Thiền sư cho một ví dụ rất
hay khi đề cập đến hai sự thật này là ở trong một căn
nhà, người ta muốn thờ Phật ở tầng trên và ngủ ở tầng
dưới, tại vì nếu thờ Phật ở tầng dưới, đi đứng,
nằm ngồi ngủ nghỉ ở tầng trên thì có cảm giác mang tội. Đó là một sự thật tục đế được mọi người công
ước. Mình tin rằng thờ Phật ở tầng trên và mình
ở tầng dưới, nhưng khi quả địa cầu quay ngược lại,
thì mình ở trên và nơi thờ Phật lại ở dưới. Thành
ra ý niệm về trên và dưới là một ý niệm tương đối. Đối với sự thật tuyệt đối thì không có trên dưới.
Tuy
nhiên, chúng ta cần biết, chúng ta đang sống trong thế giới
công ước, sống trong những thật tại tương đối, mặc dầu
không hoàn toàn, không tuyệt đối, nhưng nó rất là quan trọng
vì nhiều khi chúng ta phải nương vào nó để hiểu, để tới
thế giới tuyệt đối. Đối với kinh, khi thấy một
lời kinh (hay) một quyển kinh không liễu nghĩa, không nên
cho rằng kinh này là sai, không phải là kinh của Phật,
không phù hợp với tinh thần giáo lý của Phật. Không
nên nói và nghĩ như vậy, vì có thể những kinh đó đã được
nói ra đễ dẫn dắt những người mới bước chân vào đạo
hay những người chưa đủ căn cơ để tiếp nhận giáo pháp
cao hơn. Mặc dầu kinh đó chưa diễn bày hết nghĩa lý
thâm sâu của Phật, nhưng nó có tác dụng đưa người ấy
ra khỏi cảnh khổ, ra khỏi vũng bùn lầy lội hiện tại.
Một
Phật tử được khuyên bảo là “vì lòng từ bi với
muôn loài chúng sinh nên đừng sát sinh và ăn chay là tránh
sát sinh. Mục đích đích thực của việc ăn chay trong
đạo Phật là tôn trọng và bảo vệ sự sống. Tôn trọng
sự sống không những bằng cách giúp nhau để sống còn, mà
còn có khi phải hy sinh sự sống để bảo vệ sự sống, nghĩa
là có khi tiêu cực như ăn chay để cứu muôn loài, có khi
tích cực như “thay khổ cho chúng sanh” để cứu vạn loại”.
Mặc dầu nghe rất hay nhưng sao thấy chuyện đó xa vời quá
nên vị Phật tử này không quan tâm đến việc thực hành
ăn chay. Cho đến khi có một người bạn thân lấy một
đoạn kinh Bắc Truyền nói rằng “ăn miếng thịt trả
miếng thịt, giết mạng sống đền mạng sống”, thế
là vị Phật tử này nghe liền và ăn trường chay luôn. Vậy thử hỏi ai khuyên đúng? Ai khuyên sai? Thật ra không có
ai nói sai hay nói đúng hết. Chỉ có vấn đề có phù
hợp với căn cơ người nghe không mà thôi.
Đức
Phật là một vị đại lương y, trước khi Ngài diễn nói,
Ngài quán sát thính chúng, biết căn cơ của người nghe pháp
để đưa ra những giáo pháp thích hợp nhằm chữa cho họ
hết tâm bệnh. Cố nhiên khi Phật nói với người này thì
người khác cũng có thể nghe nhưng họ không hiểu được,
không cảm nhận được vì họ không cùng hoàn cảnh, không
cùng căn cơ. Vì vậy từ xưa và đến ngày nay vẫn có một
số người hiểu lầm Ngài, tỏ vẻ chống báng, chỉ trích. Cho nên, Chúng ta nên biết rằng mỗi lời Phật nói nhắm vào
một mục đích tương đối nào đó, dành cho một đối
tượng thính chúng nào đó và ở một quốc độ hay thời
gian nào đó, để tháo gỡ cái kẹt cho họ. Nếu chúng
ta thấy được hoàn cảnh của họ mới mong hiểu được lời
tuyên bố của Phật. Vì Phật muốn độ chúng sinh
mà phương tiện nói pháp
Ngày
xưa Tổ Triệu Châu nói với đệ tử về Phật tánh: Con
chó có Phật tánh hay không? Trong các kinh Phật
đều nói rằng “trên từ chư Phật dưới tới con sâu con
kiến đều có Phật tánh” Theo đó thì con chó thế nào
cũng có Phật tánh, nên một hôm đệ tử biết chắc như vậy
bèn hỏi để thầy ấn chứng cho sở học của mình: “Thưa
thầy, con chó có Phật tánh hay không? Tổ trả
lời: Không. Cũng chính Tổ hôm trước nói
con chó có Phật tánh mà, sao hôm nay lại nói không! Vì Tổ biết vị đệ tử này tin chắc chắn con chó có Phật
tánh nên Tổ mới nói không nhằm phá chấp có của đệ
tử, tháo gỡ cái vướng mắc “có không” của
thế giới nhị biên, đối đãi. Nếu chúng ta căn cứ
vào lời nói mà bảo rằng Tổ này nói đúng, Tổ kia nói sai,
là không đúng. Đúng là đúng với ai? Sai là sai với
ai? Có khi nó đúng với người này mà nó sai với người khác. Các Ngài nói với từng người một, mỗi người có căn cơ
riêng, có hoàn cảnh riêng. Một vị Bác sĩ trước khi
cho thuốc phải khám nghiệm, chẩn mạch, phải biết được
tình trạng cơ thể bệnh nhân.
(Ban
Biên Tập TVHS)
Discussion about this post