SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH
(The Snow Lion’s turquoise mane, Surya Das)
Nguyễn Tường Bách dịch
Nhà xuất bản: Nxb Tổng hợp TP.HCM
Lời người dịch
Tập sách bạn đang cầm trên tay là bản dịch Việt ngữ của
cuốn ‘The Snow Lion`s Turquoise Mane’. Cuốn này do Surya Das tập hợp các mẩu
chuyện do các vị Lạt-ma Tây Tạng kể lại, được xuất bản năm 1992 tại Mỹ.
Các mẩu chuyện ngắn này nhắc nhở đến những chuyện liên
quan đến các vị đạo sư, từ đức Thích-ca cho đến các vị hiện nay còn sống như
Đạt-lai Lạt-ma. Phần lớn các mẩu chuyện này toát ra nhiều đạo vị, nhất là gián
tiếp chỉ cho người đọc thấy triết lý của toàn bộ đạo Phật, đó là nhận chân ra
rằng mọi hiện tượng muôn hình muôn vẻ của tâm vật chẳng qua đều là biến hiện
của tự tính trong tâm thức mọi loài. Đó là tự tính vô thủy vô chung, bất sinh
bất diệt, lại không hề rời xa con người, nhưng trực nhận ra điều đó là một quá
trình tu học gian nan mà các mẩu chuyện này cũng có nhắc đến.
Mặc dù mang nội dung phức tạp như thế, các mẩu chuyện này
lại hấp dẫn người đọc vì chúng nói về những nhân vật lịch sử, về những con
người đã sống thật trên trái đất này. Các mẩu chuyện này cũng thú vị ở chỗ
chúng không giống các mẩu chuyện Thiền tông Trung Quốc vốn sâu thẳm nhưng đầy
tính nghịch lý khắc khổ còn ở đây nó mang đầy sự hóm hỉmh, tỏa ra một tắm lòng
vô cùng nhân hậu. Nếu nhìn sâu xa, các mẩu chuyện này biểu lộ tính cách
của Phật giáo Tây Tạng, mang nặng tính chất Mật tông, hay nói đúng hơn là Kim
Cương thừa. Các mẩu chuyện nhắc nhiều đến nhiều phép tu học kỳ bí, đến các vị
đạo sư lạ lùng, các loại trì chú đặc biệt hay các thần thông khó tin. Thế nhưng
tất cả những phép tu đó đều là cách tu học của Dzogchen (Đại Thành)hay
Mahamudra (Đại Ấn quyết), đó là phép tu truyền tâm nhằm trực nhận Phật tính
trong tâm thức, nếu so với Thiền tông Trung Quốc thì không hề khác. Vì
những lẽ đó, các mẩu chuyện này vừa mang tímh chính thống của đạo Phật, vừa thú
vị với người đọc.Qua tập truyện này, người đọc sẽ hiểu pháp môn thì thật vô vàn
khác nhau nhưng chúng chỉ muốn chỉ đến một tuệ giác duy nhất, thứ tri kiến nằm
ngoài mọi ngôn từ, đó là chỗ đồng quy của mọi môn phái Phật giáo.
Xuất phát từ Ấn Độ, Phật giáo truyền qua được hai trung
tâm lớn là Trung Quốc và Tây Tạng. Tại Ấn Độ, Phật giáo đã suy tàn sau thế kỷ
13 thì xem như đã không còn. Tại Trung Quốc sau một thời kỳ hoàng kim khoảng
năm thế kỷ, Thiền tông đã khô kiệt từ thế kỷ 11. Ngày nay, trong thế kỷ 20 chỉ
còn Phật giáo Tây Tạng là tiếp tục giáo hóa và bất ngờ thay, đang có những phát
triển mạnh mẽ tại phương Tây. Nguyên bản cuốn sách này là một trong vô số kinh
sách đang lưu hành. Vì những lẽ đó mà người dịch không ngại khả năng hạn
chế của mình, cố dịch ra Việt ngữ để cống hiến cho độc giả Việt Nam. Ngoài
nguyên bản cần phải dịch, chúng tôi đã đưa thêm vào một số hình ảnh minh họa thêm
cho câu chuyện. Phần lớn các hình ảnh này được trích từ ‘Buddhistische Bilderwelt’
của Hans Wolfgang Schumann. Phần cuối cùng là ‘Chú thích của người dịch’ do
chúng tôighi thêm nhằm giúp người đọc tra cứu.
Nếu tập truyện này mang lại vài giây phút trầm tư an lạc
cho người đọc thì đó là niềm vui cao quý cho người dịch.
Cộng hòa Liên bang
Đức, tháng giêng 1997.
Nguyễn Tường Bách
1. Người quay bánh xe
Tại Tây Tạng, ‘mani’ hay bánh xe cầu nguyện là một loại
bánh xe với vô số mật chú và văn tự bí ẩn, thường được quay xung quanh một
trục, cùng chiều kim đồng hồ. Nhiều ‘mani’ nhỏ như đầu ngón tay út, có thứ to
như cả một căn phòng. Từ xưa, người Tây Tạng thường đặt bánh xe này trong dòng
nước chảy để bánh xe được quay mãi với thời gian, để công đức của lời cầu
nguyện lan tràn trong xứ sở. Tương truyền rằng, ai quay bánh xe hay treo cờ cầu
nguyện trong gió, người đó sẽ thực hiện được ước nguyện của mình.
Tỉnh Kham tại Tây Tạng cũng được ví như miền Tây hoang dã
của nước Mỹ ngày xưa. Dân miền Kham vốn là dân kị mã và chuyên nuôi ngựa. Chỉ
cách đây khoảng trăm năm, Kham gồm có nhiều tiểu quốc biệt lập có quân đội
riêng. Ở đây người dân phải thi hành nghĩa vụ quân sự, không có thanh niên nào
được miễn.
Ngày xưa, ở miền Đông tỉnh Kham có một ông lão, người ta
gọi tên ông là ‘lão quay bánh xe’, vì tay ông suốt ngày quay bánh xe cầu
nguyện. Bánh xe này mang mật chú đại bi, Án Ma Ni Bat Mê Hồng, và do ông lão tự
đẽo lấy.Bà lão vợ ông đã chết từ lâu, sau một cuộc đời đáng quý trọng và đã tái
sinh trong một cảnh trời. Từ ngày đó, ông lão sống trong một lều đá với đứa con
trai duy nhất mà ông hết lòng thương yêu. Đứa con này có một con ngựa tuyệt
vời, và nó yêu con vật này hơn mọi thứ trên đời.Một ngày kia, con ngựa bỗng
biến đâu mất, không còn gặm cỏ trên thảo nguyên, tìm đâu cũng không thấy. Nhiều
người tốt bụng cũng đi tìm ngựa giúp ông, cuối cùng không tìm ra, họ bắt đầu
than van cho số phận hẩm hiu của ông. Còn ông lão lại bình thường như không.
Tay ông quay bánh xe và niệm chú ‘Án Ma Ni Bat Mê Hồng’, như người Tây Tạng hay
thầm đọc mật chú đại bi này của chư Phật thương xót loài hữu tình. Ông nói với
người hàng xóm thường than thở thay ông: ‘Bạn thân mến, than thở làm gì… Bạn
biết không, cái đến, cái đi đối với tôi, tôi đều thầm cảm tạ cả. Cứ đợi đi ta
sẽ thấy’.
Chỉ vài ngày sau, con ngựa bỗng quay trở về như một phép
lạ. Và cùng với nó có hai con ngựa hoang đẹp tuyệt. Ông lão và đứa con trai bắt
đầu sắm sửa đai cương cho ngựa. Hàng xóm mừng rỡ đến vỗ vai chia vui. Ông lão
lại quay bánh xe và nói: ‘tôi hết lòng cảm tạ sự may mắn này, nhưng ai biết
đâu, đợi đấy. Ta sẽ thấy’.
Vài tuần sau, đứa con trai cưỡi ngựa hoang bị té gẫy chân.
Hàng xóm mang đứa con về, than khóc cho sự rủi ro này, đứa con không làm việc
được nữa. Ông lão ngồi im lặng thì thầm trước giường con, nhưng không hề than
thở. ‘Cảm tạ đức Quan Thế Âm, dù sao con tôi cũng còn ở bên tôi. Hãy đợi xem’.
Không đầy một tuần trăng sau, lính tráng nhà vua đi lùng
sục bắt thanh niên nhập ngũ để chiến đấu chống quốc vương láng giềng. Chỉ đứa
con nằm liệt giường kia mới khỏi bị kêu đi. Hàng xóm vui mừng cho ông, vì ông
là người duy nhất còn có con trai bên mình. Ông lão mỉm cười, đặt bàn tay nhăn
nheo lên đốt chân gãy của đứa con, đưa mắt nhìn ba con ngựa đang gặm cỏ ngoài
đồng. Ông lão hát bài kệ tặng con:
nước. Thân này đã hiện hữu bao lần,
quay tròn vô tận, Thân này đã lấy hàng ngàn dạng
hình khác nhau Mỗi loại dạng hình lại huỷ
hoại, lại hình thành Như đất sét ướt thành hình
trên bánh xe người thợ gốm Cái thấp sẽ lên cao, cái cao
lại xuống thấp, Rồi một ngày, cứ đợi đi, Cái tối tăm sẽ sáng tỏ; người
lắm của Sẽ mất gia sản; mọi hình thái
sẽ thay đổi, Trong trò nhảy múa vô tận của
hai mặt nhị nguyên. Con ơi nếu con là một đứa trẻ
đặc biệt, Người ta sẽ khám phá ra con
thuộc một dòng tái sinh Và cho con vào tu viện với các Lạt-ma. Nếu con khôn ngoan và ăn nói trôi chảy Người ta sẽ cho con làm việc văn phòng Và cột mình sau cái bàn viết. Mỗi con ngựa tặng con một đống việc phải làm, Mỗi giàu sang chấm dứt bằng sự tranh chấp, Ai biết được, ngày mai nghiệp nào sẽ ào tới. Ngày hôm nay gieo gì, một kiếp nào nó sẽ chín, Và sẽ gặt trọn vẹn, đó là điều chắc chắn. Vì thế hãy tốt với mọi điều – vô tâm không phán
đoán, Không tham cầu điều ác xấu. Tất cả, thêm hay bớt, được hay thua, Đều chỉ là ảo ảnh. Đừng hy vọng, cũng đừng sợ hãi, con ơi, Đừng mong cầu, và vì thế cũng chẳng thất vọng. Chấp nhận tất cả, nó đến hay nó đi, Và sống thuận theo lưới trời lồng lộng. Hãy thật giản dị, chẳng lo âu Và sống thuận tính đang ở
trong con, Và yên nghỉ trong niềm vui của
tự tính. Con có thể bắn bầu trời bằng
bao nhiêu mũi tên, Bao nhiêu cũng được con à Nhưng chúng sẽ rơi trở lại xuống đất tất cả.
2. Lời cuối cùng của Milarepa
Jetsun Milarepa(1)
là một vị Tăng phiêu bồng nổi tiếng nhất Tây Tạng, đồng thời là một du ca. Ngài
sống cách đây khoảng chín trăm năm trong một hang đá ở Hi-mã-lạp sơn và đặt
những bài ca kệ một cách bất ngờ, không suy nghĩ, người đời sau viết lại thành
sách và ngày nay, trong thế kỷ 20, sách này đã được in ra nhiều thứ tiếng, để
lại cho chúng ta.
Tương truyền
rằng, Milarepa là người đạt giác ngộ hoàn toàn chỉ trong một đời làm người, và
bằng cách tu tập thiền định trong một cuộc sống độc cư hàng chục năm trời.Trong
thời gian tu tập ngài sống bằng một loại rau mọc hoang, ví vậy da ngài mang màu
xanh. Vì lẽ đó mà học trò ngài, bên cạnh những cái tên tôn quý tặng ngài, còn
gọi là ‘tu sĩ màu xanh’.Đạo sư của Milarepa có tên là Marpa (2), một nhà tiên
tri nổi tiếng, đã từng thiền định mười bảy năm tại Ấn Độ và là người mang giáo
pháp ‘Đại Pháp Ấn ‘ từ Ấn Độ qua Tây Tạng. Một trong những học trò giỏi nhất
của Milarepa là Gampopa(3) mà câu chuyện sau đây kể về ông.
Gampopa là một
y sĩ và đã là một Lạt-ma thông thái. Một ngày kia, ông bỗng thấy linh ảnh của
một vị Tăng sĩ màu xanh, tóc tai rối bù. Trong ảnh đó, vị Tăng sĩ nhìn ông
cười, mắt sáng long lanh và nhổ nước bọt vào mặt ông.Không bao lâu sau đó,
Gampopa bắt đầu du phương, đó là một điều mà các vị Lạt-ma thỉnh thoảng vẫn
làm. Trên đường đi, ông bị lạc vào một vùng hẻo lánh của Hi-mã-lạp sơn và quả
nhiên gặp một người có da màu xanh, trông rất ốm yếu.Gampopa đi từ từ đến vị
Tăng sĩ ở trần, chắp tay chào hỏi, đó là người đầu tiên ông gặp sau mấy ngày đi
lạc.Milarepa nhếch mép cười khi thấy Gampopa ngần ngừ bước vào. Không nói gì
cả, Milarepa đưa cho Gampopa một cái sọ người đựng đầy tràn một loại bia và yêu
cầu Gampopa uống hết, theo cách của Mật giáo bày tỏ phép tâm truyền tâm giữa
thầy và trò. Gampopa từ chối không uống, ông không thể uống rượu vì giới luật
không cho phép. Milarepa cười lớn, giống như trong linh ảnh đã hiện, và nói
ngay rằng, theo học một vị Phật đang hiện tiền tốt hơn bám giữ vào một giới
luật. Ngay tại chỗ, Gampopa uống cạn một hơi. Sau đó Gampopa nhìn vào mắt
Milarepa và nhận ra rằng, linh ảnh đã biến thành sự thật: vị Tăng sĩ giác ngộ
này xem như đã nhổ vào mặt ông và đã trao truyền năng lực cho kẻ thông thái
nhưng chưa thực sự thức tỉnh đó. Cũng trong phút đó, Mirarepa biết đã tìm ra
truyền nhân của mình.
Sau đó, Gampopa
ở lại với thầy mình nhiều năm, tu tập thiền định và nghe giảng pháp. Một ngày
kia, Milarepa cho hay Gampopa đã chín, đã tới lúc rời thầy ra đi. Tới ngày từ
giã thầy và xa thầy mãi mãi, Gampopa quì dưới chân Milarepa, để cho vị đạo sư
để hai chân lên đầu mình và nhận một luồng chân khí, nhờ đó Gampopa đạt được
tâm thức Đại viên cảnh trí của Phật.Sau buổi lễ này, Gampopa xin thầy cho một
lời nhắn nhủ cuối cùng. Milarepa nhún vai và nói: “Ngồi thiền thì ngươi còn
phải ngồi nhiều và thường xuyên, còn học thì tuyệt đối không còn gì để học
nữa”.Sau đó, Milarepa không nói gì nữa. Gampopa xuống núi, vừa đi qua khởi một
con suối thì nghe phía sau Milarepa kêu réo: “Ta còn một lời dạy cuối cùng”,
tiếng kêu lẫn trong tiếng suối reo. “Và lời này thật sự là bí mật và thâm sâu,
riêng giành chỉ dạy cho những bậc xuất sắc nhất trong giới thượng căn”.
Gampopa yên
lặng nín thở, tim đập thình thình. Milarepa quay lưng lại, vén váy lên và cho
Gampopa thấy mông đít đã đóng thành sẹo sau nhiều năm ngồi trên đá. “Lời dạy
cuối cùng của ta đây hãy nhớ”, Milarepa kêu to.
3.
Qua sông
‘Dakini’ là
những năng lực giác ngộ nữ tính, có thể hiện hình với những hình dạng bất kỳ và
được người Tây Tạng tôn là ‘nữ thần nhảy múa’, vì các vị đó đại diện cho sự
‘nhảy múa’ của một nữ tính cơ bản, đó là thể tánh mà tự đó mọi hiện tượng mang
tính không gian và thời gian xuất phát và sau cái chết lại qui hoàn. Vajra
Yogini, ‘Nữ thần Kim cương’ được xem là chúa của tất cả Nữ thần.
Một ngày kia,
hai vị Tăng trên bước đường du phương đến bên một dòng suối nước chảy xiết, bên
bờ có một bà cụ, mang bệnh hủi chờ ai đến giúp. Bà lão rên xiết, giơ hai bàn
tay cùi hủi cầu khẩn hai vị Tăng giúp qua được bên kia suối.Vị Tăng đầu tiên
quay mặt đi, tỏ vẻ kinh tởm mùi tanh hôi của thứ bệnh truyền nhiễm này. Vị đó
vén váy và lội qua bên kia dòng. Qua rồi, vị đó đứng lại và đưa mắt tìm lại
người bạn đồng hành.Vị Tăng thứ hai thấy thương xót bà lão và cuối cùng cõng bà
lão trên vai. Ngay giữa dòng, vị Tăng hầu như không chịu nổi sức nặng và sắp bị
nước cuốn đi. Vị thứ nhất vừa muốn nói ‘Đó, anh thấy chưa!’ thì một bài học xảy
ra. Bà lão ngồi trên vai bỗng chốc biến thành Nữ thần Kim Cương của trí huệ và
hiện ra trong vẻ đẹp rực rỡ, trên đầu vị Tăng thứ hai, người đang cõng bà lão
qua suối. Từ trên không trung, Nữ thần thò tay trắng muốt đến vị Tăng đang
chìm, kéo lên, đi vào thế giới của năng lực giác ngộ.
Vị Tăng thứ
nhất đành tiếp tục cuộc hành trình một mình và sẽ còn suy nghĩ rất lâu về Trí
huệ của lòng từ bi và về tính chất giả tạo của hiện tượng sắc thể.
4. Chiếc răng chó mầu nhiệm
Ngày xưa có một
bà lão sống với đứa con trai. Đứa con làm nghề buôn bán, phải đi Ấn Độ và Tây
Tạng thường xuyên. Ngày kia, đứa con trai sắp phải lên đường đi Ấn Độ thì bà mẹ
bảo: ‘Giác Thành’ (Bodh Gaya) tại Ấn Độ là nơi đức Phật Thích-ca thành đạo, vì
thế mẹ nhờ con mang về một ít xương tro hay bùa chú, pháp khí gì đó. Mẹ sẽ thờ
và xem như sự hiện diện của chính đức Phật trong nhà mình. Năm này qua
năm khác, bà mẹ nhắc nhở đứa con, nhưng lần nào đứa con cũng về lại Tây Tạng mà
không thực hiện được lời mẹ dặn.
Một ngày nọ,
đứa con lại lên đường đi Ấn Độ và bà mẹ nói: ‘Nếu lần này con không mang gì cho
mẹ từ Giác Thành (4) về để mẹ thờ, thì
mẹ sẽ tự tử chết thôi’. Đứa con lấy làm sợ lòng quyết tâm của mẹ, hứa lần này
sẽ không quên.
Sau vài tháng
làm việc, người con lên đường trở về nhà, bỗng nhớ rằng mình đã không ghé ngang
Giác Thành để tìm xương tro cho mẹ. ‘Làm sao bây giờ ?’, anh ta tự hỏi ‘Mẹ ta
sẽ tự tử thật đấy nếu không mang gì về cho bà’. Anh ta nhìn quanh thì thấy một
con chó chết đã khô. Người con vội vàng nhổ một cái răng chó, quấn lại cẩn thận
trong một chiếc khăn lụa.Về đền nhà, đứa con ra vẻ vui mừng bảo mẹ ‘Đây chính
là một chiếc răng của Phật Cồ-đàm, bậc Chánh đẳng Chánh giác. Kể từ giờ phút
đó, bà hết lòng thờ phụng chiếc răng và cũng không bao lâu sau đó,bà tìm được
sự an lạc nội tâm,điều mà suốt đời bà ra công tìm kiếm.Cũng không bao lâu sau
thì bạn bè và hàng xóm cũng nhận thấy rằng có một thứ ánh sáng ngũ sắc bao xung
quanh chiếc răng, và những tia sáng huyền ảo chiếu trên đó. Mỗi ngày có nhiều
người đến lạy bàn thờ của bà lão và xin được tiếp một chút năng lực của chiếc
răng mầu nhiệm. Tới ngày bà lão chết, ánh sáng ngũ sắc cũng bọc quanh thân bà
và miệng bà mỉm cười làm cho đứa con trai đang than khóc hiểu rằng, bà đang trở
về tự tính, từ đó mọi vật được sinh thành.
Kể từ ngày đó
người ta biết rằng, một chiếc răng chó cũng trở thành mầu nhiệm, nhưng với điều
kiện đó là sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp nhận và lòng từ bi của một
vị Phật kết hợp với nhau.
5. Bức tượng biết nói
Kongpo là một
tỉnh ở miền Nam Tây Tạng mà dân vùng đó có tiếng là đầy tín tâm và không mấy
người có trình độ hiểu biết.Trong số các tu viện Tây Tạng thì ‘Jokhang’ tại
Lhasa là linh thiêng hơn cả. Trong viện có một tượng Phật rất xưa, trình bày
Phật Cồ-đàm hồi còn niên thiếu và được mang tên là Jowo Rinpoche (Đức hạnh cao quý).
Tượng Phật này được mang từ Trung Quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và là
phẩm vật của một công chúa kết duyên với vua Tây Tạng thời đó.Ben, một thanh
niên vùng quê Kongpo, suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tu viện
Jokhang, của tượng Phật linh thiêng nhất Tây Tạng. Một ngày kia, Ben được lên
đường đi Lhasa để tận mắt chiêm bái thánh địa này.
Sau một chuyến
đi khổ nhọc, cuối cùng Ben đến kinh đô Lhasa, đi như người mất hồn trong các
con đường của ‘thành phố chư thiên’ này… nhìn thấy điện Potala (5), Ben thật là
xúc động, đó là nơi mà đức Quán Thế Âm (6) đang hiện tiền dưới dạng của vị Đạt-lai
Lạt-ma (7).Đáng xem thay, dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện
Potala! Thật tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị
nguyên thủ quốc gia, với bao nhiêu chạm trổ và các bảo tháp đầy tính nghệ
thuật. Cũng không được bỏ qua các tu viện đáng trọng nhất như Sêra và
Drepung, nơi đào tạo Tăng sĩ. Ben tự nhủ thầm: ‘may mắn thay cho ta, đời ta còn
có thể thấy được những nơi này’.
Sau đó Ben vào
tu viện Jokhan, và kìa, tượng Jowo Rinpoche trong thế ngồi liên hoa, to như
người thực, toả ra một cảm giác tôn quý thầm lặng mà vĩ đại.Ben quỳ lạy trước
bức tượng ba lần, nhưng lần nào hầu như cũng mắc kẹt với đôi ủng cũ kĩ, rồi
chiếc mũ đầy bụi của Ben lại rơi xuống đất. Ben cởi ủng, cầm mũ, đặt lên lòng
bức tượng đang mỉm cười yên lặng và nói: ‘Hỡi Jowo Ripoche, hãy coi chừng giùm
các thứ này để cho con yên tâm chiêm bái tiếp’.Ben đi chân không vòng quanh bức
tượng vàng, vui thích ngắm hàng chục ánh đèn dầu trên bục tượng và đủ các loại
bánh trái để bên cạnh. Ben cám ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng từ bi toả sáng
của Jowo Rinpoche, Ben mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn và ăn ngon
lành.Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa lớn tiếng sẽ đón Phật bất cứ lúc nào
tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo, Ben hứa sẽ mổ con heo mập mạp nhất, cho đủ thứ
gia vị để chiêu đãi Phật. Ben đâu biết rằng đạo Phật chủ trương không giết hại
loài vật và hoàn toàn tin rằng lời mời của mình sẽ được Phật nhận lời.Ngay lúc
đó thì cửa mở toang, vị sư già giữ đền bước vào. Vị sư đứng sững người nhìn đôi
ủng dơ bẩn và chiếc mũ rách nát trên lòng đức Phật và nhìn thấy bột bánh đang
dính vào râu của Ben.Vị sư giận giữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng
Phật, bỗng một tiếng nói huyền bí cất lên: ‘Dừng tay, các thứ này của đứa học
trò yêu quý ở xứ Kongpo của ta!’
Vị sư run bắn
người, đi lui mười bước. Ông nằm dài xuống đất và xin tượng tha thứ sơ xuất của
mình. Sau đó ông rút lui, để Ben ở lại một mình trong phòng, để cho chàng thanh
niên này tiếp tục nói chuyện theo cách riêng của anh ta với vị ‘Đức hạnh cao
quý’.
Sau đó Ben về
lại với gia đình tại Kongpo, nhưng tin đồn bức tượng nói chuyện với chàng đã về
trước, nếu có ai hỏi gì về tin đồn đó, Ben chỉ nói lơ: “Ôi, thời buổi này chẳng
biết tin nào đúng tin nào sai’.Người ta đồn rằng, bức tượng quả nhiên đã nhận
lời mời của chàng Ben thật thà và hiện ra trước mắt chàng trong một dòng suối
gần nhà. Ben thò tay vào nước vớt tượng đi được một vài bước, nhưng cuối cùng
vì tượng nặng quá nên Ben để Phật rơi xuống đất. Tượng chìm xuống đất cả thước
và mọi người đều có thể chiêm ngưỡng bức tượng đó.
Đến ngày hôm
nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi quanh hố đất với dấu tích của Jowo đang mỉm
cười và lạy tượng bằng cách cúi đầu sát đất. Tu viện Jokhang ở kinh đô Lhasa có
thể rất xa nhưng người biết chuyện tin rằng vị ‘Đức hạnh cao quý’ thì ở rất gần
họ.
6. Giải thoát mọi loài
Một vị Lạt-ma
già nọ kiếm được một tảng đá bằng phẳng bên cạnh một cái hồ để chuyên tâm thiền
định. Mỗi ngày ông đều ngồi đó. Đó là một cái hồ đầy ếch nhái chuyên ăn côn
trùng. Nhưng cứ mỗi lần bắt đầu ngồi thế liên hoa để đạt tâm thức sâu kín của
tự tính thì lại một lần ông thấy một côn trùng giãy giụa trong nước, dường như
cần đến ông giúp đỡ. Lần nào cũng thế, vị sư già lại phải xuất thiền, lại cử
động cái xương cốt đã già, lại giải cứu thứ côn trùng tí hon này, sau đó mới
lại nhập định.
Lần lần các vị
tu tập thiền định và Lạt-ma khác bắt đầu chú ý đến ông, một người không bao giờ
ngồi yên và hầu như dùng thời gian thiền định để giải cứu côn trùng. Tuy người Tây
Tạng nào cũng biết cần cứu vớt loài vật, nhưng có vài vị Tăng khuyên ông nên
kiếm một chỗ khác thiền định chứ đừng ngồi bên hồ nữa. Họ nói: ‘Nên chăng đi
kiếm một nơi khác mà ngồi để thiền định, không ai quấy rầy?’ Có người nói: ‘Nên
chăng trước hết cần thoát khỏi mọi ảo giác? Sau đó, khi đã giác ngộ ta có thể
giúp mọi loài hữu tình, chứ không thể giúp như thế’. Một Lạt-ma trẻ tuổi khác
lại nói: ‘Nên chăng khi thiền định cần nhắm mắt lại để chưyên tâm quán tưởng
vào cái chủ yếu nhất, tính vô thường của chính bản thân tâm thức
mình’. Sau khi nghe mọi lời góp ý, vị Lạt-ma già cúi đầu cảm ơn các Tăng
sĩ và nói: ‘Các bạn có lý, hỡi các vị nam nữ. Nhưng một kẻ già yếu và thấp kém
như tôi, đã nguyện theo lòng từ bi của đức Quán Thế Âm, thực hiện hạnh nguyên
đó trong đời này và mọi đời sau,lại có thể ngồi yên và đọc mật chú đại bi trong
lúc loài hữu tình bất hạnh đang chết đuối trước mắt mình?’
Không ai trả
lời cả.
7. Kẻ phiêu bồng giác ngộ
Patrul Rinpoche(8)
được xem là bậc thầy hiệu quả nhất của phái Đại Thành(Dzogchen) trong thế kỷ
18. Đại Thành (9) có nghĩa ‘Tri kiến trực tiếp về tự tính thanh tịnh’. Vì vậy
Đại Thành không phải chỉ là một tông phái hay một phép tu, không chỉ là một
dòng tái sinh, không phải chỉ là trạng thái đạt đạo. Đại Thành chính là tinh
yếu của giáo pháp đức Phật. Vì lẽ đó mà Patrul Rinpoche được xem không phải chỉ
là một vị đạo sư, thi sĩ hay nhà tiên tri, ngài cũng là một vị Phật hoàn toàn.
Thực ra, người ta xem ngài là một trong những tái sinh của đức Quán Âm mà người
Tây Tạng gọi là ‘Chenrezig’: lòng đại bi.
Có lần trong
một chuyến du hành Patrul Rinpoche gặp một nhóm Lạt-ma, các vị đó trên đường
tham dự buổi lễ tại miền Đông Tây Tạng. Các vị Lạt-ma không nhận ra Patrul,
thấy ngài trong bộ quần áo nhàu nát, với thái độ kiêm tốn, cho rằng đây cũng
chỉ là một kẻ tầm đạo. Vì thế họ vui lòng cho Patrul tham gia trong nhóm, bắt
nấu trà, nhóm củi và phục vụ các vị lớn tuổi trong đoàn. Đoàn vừa đến vùng
Kham thì có tin gần đó có một vị Lạt-ma cao cấp sẽ chỉ dẫn và khai thị cho
đoàn. Nhóm Lạt-ma vội vàng lên đương để tham dự buổi lễ. Tất cả Lạt-ma và cư sĩ
được đưa vào ngồi theo thứ tự chính thức, người được ngồi trên ghế trọng vọng,
kẻ phải đứng ở xa. Các vị Tăng mang nón mũ, áo quần, huy hiệu hết sức rực rỡ. Vị
Tăng thống ngồi trên một bệ cao. Sau khi tiếng còi, tù và, chiêng trống dứt hẳn
và phần nghi lễ đã qua thì mọi người hiện diện lần lượt đi qua trước vị đó để
nhận phép lành và gửi nơi chân vị Tăng thống một tấm khăn trắng.
Trước hết vị
Tăng thống đưa tay rờ đầu các người đi ngang. Về sau khi thấy đoàn người quá
nhiều đi không muốn hết, ngài chỉ còn rờ đầu bằng một sợi lông công. Hàng giờ
trôi qua, cuối cùng người còn lại là một kẻ quần áo lôi thôi, vốn đi nấu trà
cho một nhóm Tăng sĩ không mấy quan trọng.Vị Tăng thống bỗng mở mắt thật lớn
nhìn con người có dáng vẻ phiêu bạt đang quỳ dưới chân mình. Nguời đó không ai
khác hơn hính là một vị Phật đang hiện tiền,vị đạo sư Đại Thành (dzogchen)
Patrul Rinpoche độc nhất vô nhị và người đó lại đang xin phép lành của mình.
Vị Tăng thống
nhảy ào từ trên cao xuống, nằm mọp dưới chân kẻ áo quần rách rưới. Đám đông
hoảng hốt kêu lên sợ hãi, vị Tăng thống ngồi dậy, dúi vào tay Patrul Rinpoche
sợi lông công rồi lại quỳ xuống. Patrul khoát tay từ chối, sau đó đưa tay nâng vị
Tăng thống lên, không để cho vị này cứ quỳ lạy mình mãi.
8. Tu tập hạnh nhẫn nhục
Cách đây khoảng
một thế kỷ, vào thời đại sư phái Đại Thành là Patrul Rinpoche chuyên độc hành
mọi nơi, với một chiếc áo lông cừu cũ nát, không mấy người hay biết. Trên bước
đường rong ruỗi, ngài có nghe nói đến một vị ẩn cư cả chục năm nay trong một
hang động tối yăm, chuyên tâm thiền định và đã đạt được thần thông đáng
kể.Patrul lên đường tìm gặp vị tu sĩ này và xem mình có thể giúp được gì cho
người này không. Patrul đột ngột đi thẳng vào hang động đó, ngồi bên cạnh và
cười thân thiện.Người tu sĩ nọ hỏi: ‘Ngươi là ai, từ đâu đến và đi về đâu trong
cái xứ trơ trụi này?’ Patrul đáp: ‘Tôi đến từ sau lưng tôi và đi về phía
trước”. Kẻ độc cư hỏi: ‘Thế ngươi sinh ở đâu?’
‘Ở trên trái
đất’.
Tu sĩ bắt đầu
mất kiên nhẫn: ‘Hãy nói tên ngươi ta nghe’. “Vô tích sự” –Patrul đáp. Sau khi
trả lời, Patrul hỏi tại sao tu sĩ lại ẩn cư trong chốn thâm sơn cùng cốc này.
Kẻ ẩn cư này hầu như chỉ đợi câu hỏi đó, trả lời một cách hãnh diện: ‘Ta ngồi
đây đã hai mươi năm để thiền quán và tu tập hạnh nhẫn nhục’.
‘Đáng khâm
phục’, người khách trả lời và lè lưỡi tỏ vẻ nể trọng. Sau đó Patrul kề môi nơi
tai người tu sĩ: ‘Nhưng hai kẻ già đời như chúng ta đều biết thừa rằng chẳng
bao giờ đạt được cái đó, phải không nào?’ Người tu sĩ nhảy dựng ra khỏi
thế ngồi liên hoa: ‘Ngươi muốn gì mà quấy rầy ta một cách thô bỉ thế? Ngươi là
ai mà lại dám không kính nể ta?’
Patrul trả lời:
‘Vâng, chúng ta là gì, là ai, bạn và tôi, và… hạnh nhẫn nhục của bạn đâu rồi?’
9. “Con chó thân mến”
Thời còn trẻ,
Patrul Rinpoche là học trò của nhiều đại sư nổi tiếng vào thế kỷ 19. Vị thượng
tọa Gyaway Nyugu vừa chỉ dạy cho Patrul về Phật tính ẩn náu bên trong thì
Patrul gặp đại sư Doe Khyentse (10). Đây là một vị sư có tính tình kỳ cục và
lần đó đã chận cửa không cho Patrul vào thăm một người bạn.‘Ê, hộ pháp vĩ đại
kia, ngươi biết ta là ai không?,’ Doe Khyentse châm chọc.Patrul đã nghe danh
ông sư kỳ quái này rồi. Ông đã từng xách súng qua làng qua xóm, hăm doạ nhiều
người, làm người ta giật mình sợ hãi, với mục đích là đánh thức giấc ngủ tâm
linh triền miên của con người. “Ngươi hãy tới gần đây, nếu ngươi có gan!”,
Doe Khyentse hăm. Patrul tới gần ông sư đáng sợ đó. Doe chụp tóc thắt bím của
Patrul, quật ngã sóng soài.
“Hơi thở của
Doe Khyentse có mùi bia. Ông ta đang say, ta không chấp”, Patrul nghĩ
thầm. Nhưng Doe Khyentse là người đọc được ý nghĩ của người khác. “Ngươi là kẻ
dùng trí, kẻ học rộng biết nhiều, là kẻ ưa thích phân biệt”, ông hét. ‘Bộ ngươi
không biết rằng tất cả đều thanh tịnh, tất cả đều hoàn hảo ư, con chó thân
mến!’. Ông giơ ngón tay út lên, đối với người Tây Tạng, đó là cử chỉ khinh bỉ
nhất, nhổ vào mặt Patrul rồi đi mất.
Ngay lúc đó học trò Patrul bỗng đạt một bước giác ngộ.
Trong một tia chớp của tuệ giác, Patrul nhận ra rằng, tâm thức phân biệt của
mình vốn không hề rời tâm giác ngộ rực sáng của Phật, vô thủy vô chung là một
với thể tánh đó, từ thể tánh đó mà phát ra thiên hình vạn trạng sự vật.Một niềm
an lạc vô biên tràn ngập trong lòng Patrul. Patrul ngồi yên trong bụi cát, nơi
mà Doe đã ném huỵch ông xuống đất, để cho mặt trời chiếu rực trên đầu và không
cần để ý người qua kẻ lại.
Ngày sau, khi Patrul được tôn thành Rinpoche (cao quý), ngài
vẫn thường nhằc lại phương tiện giáo hóa của thầy mình và nói: ‘Nhờ tính bất
ngờ vô song và lòng từ bi của đức Khyentse mà một trong những danh hiệu của ta
là “con chó thân mến”. Với lòng sở cầu và tâm vô phân biệt, ta đi khắp xứ sở.
Tự do như con chó ghẻ lở, chẳng còn ai muốn dạy dỗ”.
10. Ba người trên cây
Tu viện Katok được phương trượng tên là Dampa Deshek thành
lập trong thế kỷ 12. Thời đó Dampa Deshek được xem là một vị đại sư nổi
tiếng, nhiều người xa gần đều đến khi nghe tin đại sư giảng pháp và cử hành
nghi lễ Mật tông.Trong các dịp đó, đại sư Deshek thường ngồi trên bực của một
bao lơn, các vị Lạt-ma cao cấp đứng hai bên tả hữu. Sân tu viện thường đầy chật
người nghe, có kẻ phải leo lên nóc nhà, không bao giờ có dư một chỗ đứng.
Lần nọ, khi Dampa Deshek đã bắt đầu cử hành nghi lễ thì có
ba vị Tăng khất thực xin vào nghe giảng nhưng không được trật tự viên cho vào
vì không có một chỗ nào còn trống, dù là một góc nhỏ xa chính điện nhất. Ba vị
đó là những người đi bộ từ vùng núi non hẻo lánh Gayrong đến, áo quần xốc xếch,
mình đầy bụi bặm và mệt mỏi. Cả ba đành đi vòng quanh tu viện, cuối cùng họ tìm
được một cây cao, từ trên cây nhìn xuống có thể thấy đại sư Deshek, nhưng xa
quá nên không nghe được tiếng nào.Cả ba tìm dây trèo lên cây, ngồi vắt vẻo trên
cành để nhìn vào chính điện. Nông dân gần đó thấy ba người hình dạng tả tơi,
nhướng cổ ngồi trên cây, họ bảo nhau: ‘Xem kìa, ba con kên kên trên cây kìa,
không biết đi từ đâu xa đến mà không được gì cả.’
Nhưng người nông dân đó đã lầm. Trong khi cử hành nghi lễ,
Dampa Deshek có một cảm giác không thể nhầm lẫn rằng có ba người đang theo
dõi hình ảnh của mình một cách chăm chú. Ngài liền tập trung năng lực mình lên
ba người đó, đám đông không hề hay biết. Và ba vị Tăng khất thực trên cây bỗng
hiểu rõ ràng ý nghĩa từng cử chỉ ấn quyết của đại sư mà không cần nghe một
tiếng nào.Cuối nghi lễ thì huệ nhãn của ba vị Tăng được mở, tức là ba vị đã đạt
thêm một quả vị nhất định. Vui mừng trước thành quả đó, Dampa Deshek đọc bài
kệ:
“Emaho! Dạng
hình sắc thể của các loài
Thật thiên
hình vạn trạng và chỉ là ảo ảnh.
Hôm nay, ba
con chim lạc bước đến đây
Và trong số
những người đạt đạo ngồi quanh,
Họ đã đạt
chính giác…
Ngoài đó bên
kia vách tường của tu viện,
Ngồi trên đỉnh
ngọn cây,
Cổ vươn dài
Emaho!”
11. Geshé Ben, kẻ cắp
Thời còn trẻ, Geshé Ben là một Tăng sĩ khất thực tại Tây
Tạng và kiên trì giữ giới luật Đại thừa. Ben sống vào thế kỷ 11 và là một người
tu tập nghiêm túc cho đến ngày giác ngộ hoàn toàn.
Theo truyền thống Tây Tạng, một ngày nọ, Ben được
một gia đình mời thọ thực. Trong lúc cả gia đình đang dọn bàn cho chú tiểu tăng
đang đói bụng thì Ben lại vào trong bếp. Bỗng nhiên, Ben khám phá ra chính bàn
tay mình đang thò vào một bao bố đựng đầy trà thơm ngát. Hoảng sợ, Ben kêu to:
‘Ăn trộm, ăn trộm’ và tự đánh vào bàn tay tham lam của mình. Cả gia đình chạy
vào bếp:’Tên ăn trộm đâu?’, người cha gầm lên và cầm sẵn cây gậy để bảo vệ cho
gia đình. ‘Đây, đây’, Geshé Ben mặt đỏ hồng hổ thẹn ‘Tôi vừa tự bắt gặp chính
mình đang lợi dụng lòng tốt của quý ngài’. Sau đó Geshé Ben nguyện lớn rằng, sẽ
tự chặt tay nếu còn tái phạm.
Gia đình tín đồ nọ mỉm cười vui vẻ và khoát tay bỏ qua
nhưng họ biết rằng vị đại sư nội tâm của chú tiểu tăng này đã lên tiếng và họ
đang chứng kiến một biến cố quan trọng. Họ nghiêng mình kính cẩn trước người
khất thực trẻ tuổi này như trước một vị Lạt-ma cao cấp và cám ơn đã nhận được
một sự biểu lộ khó quên của Trí huệ cao tột.
12. Phẩm vật cúng
dường cao quý nhất
Geshé Ben sống nhiều năm trong một hang động núi non ở Hi-mã-lạp
sơn. Bao nhiêu thế hệ các vị tu sĩ ngày trước đã từng sống ngay trong hang động
đó và ngày nay còn lại một cánh cửa đá, một bàn thờ đá và một nơi nhóm lửa.
Sau một thời gian dài chuyên tâm thiền định và độc cư, nhờ
phép truyền tâm, Geshé Ben biết rằng một nhóm dân làng sắp mang lại thức ăn và
phẩm vật cho mình và hy vọng ông sẽ ban phước lành. Mọi người Tây Tạng đều biết
rằng, được một vị Bồ-tát hay tu sĩ đích thực độ trì sẽ mang lại sức mạnh to
lớn.Geshé Ben bắt đầu lau chùi hang động sạch sẽ, sửa soạn các đồ đạc và bày
biện bàn thờ, cố gắng làm tốt nhất trong điều kiện một nơi hẻo lánh của Hi-mã-lạp
sơn. Sau đó, Geshé Ben ngắm nghía một cách hài lòng.Chỉ chốc lát sau, ông bỗng
thấy ý nghĩa những gì mình làm, tự nhủ ‘đồ ngốc nghếch’. Sau đó ông ra ngoài
cửa động hốt một nắm bụi và rác rưởi, ném lên bàn thờ vừa chùi dọn sạch sẽ.“Ta
sống ra sao thì cứ để mọi người thấy như vậy,” Ben nói. “Phẩm vật cúng dường
đâu phải để lấy lòng mua chuộc ai, mà để dâng cúng Phật tính đang hiện tiền”.
Ben tự nhủ và nói tiếp: “Xong rồi, các bạn có thể đến đây!”
Nhiều năm sau đó có một vị Tăng đắc đaọ từ Ấn Độ qua thăm Tây
Tạng và nghe câu chuyện này. Trước mặt các vị Lạt-ma cao cấp và các vị Tulku
(dòng tái sinh các Lạt-ma),đạo sư Padampa Sanjay nói: ‘Hay, nắm bụi đó là phẩm
vật cúng dường cao quý nhất từ xưa đến nay trong cả xứ này”. Geshé Ben đã cúng
dường lên bàn thờ trong động cái tự ngã của chính mình.
13. Geshé Ben và lương tâm
Có lần Geshé Ben được mời thọ thực với các vị Tăng sĩ cao
cấp trong phái. Chủ nhà là những tu sĩ giàu có, sống trong các cung điện vùng
Penyul, miền Nam Tây Tạng. Trong điện, họ trang hoàng phòng cầu nguyện một cách
lộng lẫy và mời các vị Tăng sĩ an toạ: các vị trưởng lão ngồi trên cao, các vị
trẻ tuổi ngồi dưới thấp. Theo tuổi tác Geshé Ben ngồi khoảng giữa và đợi thức
ăn đem đến.
Theo truyền thống Tây Tạng thì bát ăn và chén uống của các
vị Lạt-ma lúc nào cũng phải đầy, vì thức ăn được xem là phẩm vật cúng dường lên
tâm giác ngộ, mà các vị Lạt-ma là hiện thân của tâm thức đó. Khi chủ nhà và
những người hầu cận vừa dọn sữa cho các vị trưởng lão thì Geshé Ben bắt đầu
nóng ruột. Chỉ nhìn qua Ben đã thấy bình sữa xem ra hơi nhỏ và đến phiên mình
chắc đã cạn sạch. Vừa nghĩ đến đó, Geshé Ben tự nói to: “Ôi tham
lam”. Ben xoay mặt không nhìn bát gỗ để trước mặt mình và im lặng trước
cái nhìn khó hiểu của các bạn đồng tu. Sau đó, người ta đem thêm sữa vào và sắp
sửa cho vào bát của Geshé Ben thì ông chận tay lại nói: “Không cám ơn, ý
nghĩ tham lam của tôi đã ăn hết phần của tôi rồi”.
Theo phương cách này, người tu hành quan sát nghiêm túc
những ý nghĩ và cảm nhận chớm nảy sinh trong lòng mình và biến chúng thành
những bước tiến bộ trên con đường đạo.
14. Cách tu hay nhất
Có một vị Tăng cứ đi vòng xung quanh tu viện Peltring mãi
vì nghe nói rằng có người nhờ thế mà đạt được thánh kiến. Ngày qua ngày vị Tăng
nọ cứ đi hoài như thế đến lúc gặp đại sư Geshé Tempa. Vị đại sư vỗ lưng vị Tăng
tội nghiệp và nói: “Thật ra thì đi vòng quanh một thánh địa cũng được đấy,
nhưng tốt hơn là nên tu học yếu tính pháp Phật”.Nghe xong, vị Tăng gật đầu
và bắt đầu đọc Kinh sách nằm lòng và tụng niệm. Không bao lâu sau, Geshé Tenpa
trở lại, lại vỗ lưng vị Tăng và nói: “Tụng Kinh đọc sách thì cũng được
đấy, nhưng tốt hơn là nên tu học pháp Phật bao trùm rộng khắp’.
Vị Tăng suy nghĩ rất lâu. Cuối cùng vị đó bắt đầu tu tập
thiền định. Tất nhiên sau đó Geshé Tenpa lại tìm thấy vị đó ngồi thiền định
trong một góc nhà, đang dùng toàn lực để không nghĩ ngợi tới điều gì cả. Vị đại
sư nói “A, con đang thiền định, hay thật đó, nhưng tu tập đúng pháp Phật
đích thực thì hay hơn nhiều’.Bây giờ thì vị Tăng hoàn toàn mất phương hướng.
Không có phép nào mà ông không tu. ‘Nhưng bây giờ con phải làm gì nữa đây, thưa
thầy?’
‘Buông bỏ những gì con đang bám giữ’, Geshé Tenpa nói. ‘Lúc
đó, con chính là con và cái đơn giản này chính là bước khởi đầu và cũng là mục
đích’.
15. Đạt-lai Lạt-ma và người chăn trừu
Cách đây khoảng
ba trăm năm, Kelsang Gyatso (11),Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy là người hay rời bảo
tháp của mình trong điện Potala và đi vào trong dân chúng để tìm hiểu đời sống
và nguyện vọng thực sự của thần dân.Nhờ mặc áo quần bình thường của một kẻ hành
hương, kéo mũ thật thấp, vị Đạt-lai Lạt-ma, hiện thân của đức Quán Thế Âm, đã
đi một mình mà không ai biết trong các đường phố Lhasa và bắt đầu hành cước về
những vùng xa.Ngài đi từ làng này qua làng nọ, sau đó đến hồ nước mặn Yamdrok
Tso khoảng miền Trung Tây Tạng và nơi đó ngài gặp một người chăn trừu ít khi
gặp tha nhân, mừng rỡ mời ngài ăn tối và cùng ngủ dưới trời khuya, xung quanh
là đám trừu cho chút hơi ấm.
Hừng đông, sau
bữa ăn sáng bên bếp lửa, Đạt-laiLạt-ma chào tạm biệt và nói: ‘Nếu ngày nào bạn
có về thánh địa Lhasa thì cứ hỏi nhà của Kelsang Gyatso, bạn sẽ được tiếp đãi
ân cần’. Người chăn trừu hỏi lại: ‘Làm sao một người như tôi, không biết đọc
biết viết mà có thể tìm ra nhà bạn trong kinh đô đông đúc như thế’. Người lữ hành
đáp: ‘Tôi tin bạn. Nhưng tên Kelsang Gyatso cũng không đến nỗi vô danh tại
Lhasa. Hãy hứa với tôi, bạn sẽ thăm tôi để tôi đền đáp lòng tốt của bạn’.Nhờ
lời mời này mà người chăm trừu quả nhiên lên đường viếng Lhasa vài năm sau. Như
mọi người hành hương, ông luôn luôn cầu nguyện và nghiêng mình tới đất cúi lạy
phương hướng mình sắp đến. Vài tháng sau, ông đến một công trường lớn gần điện
Potala. Với giọng địa phương Yamdrok, ông kêu réo mọi người: ‘Nào, nhà của
Kelsang Gyatso đâu? Ai biết không? Sao? Ông ta trốn đâu rồi? Tôi đến thăm ông
ta đây!’
Tiếng ồn ào kêu
réo làm hai người bảo vệ của điện chú ý và bắt kẻ làm ồn này đem về cật vấn
giam giữ. Thế nhưng, người chăn trừu không hề sợ và nhất định kể lại câu chuyện
khó tin đó. ‘Kelsang Gyatso đã mời ta mà. Các ngươi điên rồi sao, đám dân thành
phố vô dụng’.
Nhiều người
biết chuyện này và cuối cùng đến tai Đạt-laiLạt-ma. Ngay tức khắc, ngài ra lệnh
cho người chăn trừu miền Yamdrok đến.Người chăn trừu đang ngồi trong ngục tăm
tối thì được đưa ra ngoài. Với hai vị Lạt-ma cao cấp đi theo hai bên và bước
lên vô số bậc thang, kẻ chăn trừu nọ xuyên qua bao đường quanh co, qua bao
nhiêu phòng cầu nguyện, cuối cùng đi vào phòng tiếp khách của vị nguyên thủ
quốc gia.Ở đó, Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy đã ngồi đợi sẵn, trên ghế hoàng triều và
chào đón người chăn trừu với niềm vui hội ngộ. Qua bao nhiêu cung điện, người
chăn trừu đã không nói được vì kinh ngạc; do vậy cũng không còn hơi sức đâu để
hỏi làm sao người hành hương năm xưa lại chóng giàu như thế. Ông cúi đầu ba lần,
như mọi người Tây Tạng đều làm trước một vị Lạt-ma và đặt dưới chân Kelsang
Gyatso một tấm khăn trắng xem như phẩm vật.Sau đó ông ngồi trên nền đá lạnh
trước Đạt-lai Lạt-ma và nhìn ngài thân thiện. Ngài chỉ một ghế bên cạnh, bọc
bằng thảm len mời ngồi. Nhưng người chăn trừu khoát tay: ‘Không, tôi không ngồi
đâu. Ghế đó làm bằng thảm lụa sang trọng, có hình Man-da-la. Ghế đó là chỗ ngồi
của ông trời. Tôi không dám ngồi đâu’. Mắt Đạt-lai Lạt-ma ngời lên những ánh
sáng từ bi và quý trọng. Người chăn trừu phấn khởi nói tiếp: ‘Và bạn, Kelsang
thân mến, bạn ngồi trên một thứ ghế bằng nhung lụa gì khó hiểu. Bạn làm tôi nhớ
có những con trừu thích leo lên trên một đỉnh đồi cao rồi không xuống được nữa.
Bạn cần tôi giúp bạn xuống đây không?’
Không, Đạt-lai
Lạt-ma tự xuống một mình và ngồi bên cạnh người chăn trừu miền Yamdrok. Người
này nói tiếp, góp vài ý để sửa đổi trong cung điện to lớn nhưng lạnh như băng
này của chủ nhà, ‘Nền nhà lạnh quá mức’, ông ta nói, ‘nhưng không sao, khi về
lại Yamdrok rồi, tôi sẽ kiếm ít lông trừu gửi lại đây cho bạn đỡ lạnh chân. Tôi
sẽ cho một con Yak(trâu)chở lông trừu lại, hứa với bạn đấy’.Đạt-lai Lạt-ma vui
vẻ nhận lời và sau đó cho người hầu cận rút lui để một mình truyện trò với
người chăn trừu. Cả hai cười vui và kể những chuyện đã xảy ra trong ba năm qua.
Lúc đó Đạt-lai Lạt-ma cũng chưa kể thật tung tích của mình. Sau đó ăn uống
xong, người chăn trừu đứng dậy nói: ‘Bây giờ tôi muốn xuống chợ xem quang cảnh
hàng hóa ra sao mà người ta kể tôi nghe rất nhiều. Sau đó tôi sẽ đi chơi và xem
thắng cảnh ở Lhasa. Mà, Kelsang ơi, bạn đừng giận tôi nhé, nhưng nhà bạn quá
sang và không được thoải mái lắm. Tôi thích ngủ trong một túp lều hay giữa trời
sao với đàn trừu hơn’.
‘Trước khi đi’,
Đạt-lai Lạt-ma nói, ‘bạn được lựa và lấy một phẩm vật trong số các thứ mà tôi
phải trông coi. Bạn bè thì đối xử như thế’. Thay vì đòi đi các phòng của cung
điện để tìm một tượng Phật bằng vàng, một tấm tranh lụa xưa hay một cổ vật treo
tường thì người chăn trừu đáp: ‘Nào vàng, bạc, lụa là, như tôi đâu có cần thiết,
phải không?’ Cả hai đều cười và người chăn trừu nói tiếp: ‘Bạn biết không, tôi
chỉ muốn có một chóp mũ trên đầu như bạn cũng như sợi dây đỏ để buộc lại, y như
bạn’.Đạt-lai Lạt-ma hỏi cẩn thận: “Bạn phải gội đầu và xoa dầu mới
được đấy”.
“Ôi đâu cần!”
Đạt-lai Lạt-ma
cho đem lược đến. Ngài cất mũ của mình và kéo sợi dây đỏ đang mang ra ngoài.
Sau đó ngài tự tay chải cái đầu đầy chấy rận của anh chàng này và tết lại thành
bím. “Nghi thức đòi tôi phải mang hai cái bím trên đầu”, ngài giải thích, “nhưng
không có ai giúp nên tôi chỉ thắt tóc bạn lại thôi, và sẽ gắn thêm tóc tôi vào
tóc bạn để chóp mũ này nằm chắc trên đầu”.
“Mang cái chóp
mũ này thì dễ cho tôi thôi,”người chăn trừu vui vẻ. “Bạn thật là một anh chàng
tốt bụng, Kelsang, nhưng bây giờ tôi phải từ biệt, phải xỏ giày đi đây. Đừng
bực mình vì tôi không ở lâu được nhé”.Với chóp mũ trên đầu, anh bạn người
Yamdrok vui sướng khi rời khỏi cung điện lạnh lẽo. Ngang đến cửa anh ta còn
quay lại kêu to: ‘Xem chừng con trâu sẽ đến. Có thể vài tháng nữa thì lúc đó
các phòng của bạn đều ấm cả. Cứ tin đi’.
Vì câu chuyện
này mà Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy vẫn còn nhắc nhở đến người chăn trừu mãi, mà ngài
gọi là ‘Bạn thân Yamdork-Pa”. Và cũng vì câu truyện này mà ngày nay tất cả
ngươi chăn trừu vùng Yamdrok đều mang một bím tóc và một sợi dây cột tóc màu
đỏ.
16. “Mũi ngựa” ra đi
Tại miền Đông Tây
Tạng, không xa một tu viện nọ có một tu sĩ khất thực đã già, biệt danh là
“Mũi ngựa”. không ai ưa nổi vị tu sĩ này, từ dáng điệu cho đến thái độ
hàng ngày. Ông ta chỉ làm được công việc duy nhất là tìm nơi lông chó và
đám ăn xin các thứ như chấy rận nhưng không để giết mà cứu chúng được sống.
Ngày nọ, tu
viện cũng xua đuổi ông vì xem ra ông không chịu học tập kinh sách gì cả. Ông
đành ngồi trước cửa tu viện, miệng lẩm bẩm cầu kinh và bắt chấy cho chó.Sau đó
miền Đông Tây Tạng chịu một nạn dịch khủng khiếp và các bác sĩ cho rằng bệnh
này do một loại bọ đen gây ra. Thế nhưng cả bác sĩ lẫn các Lạt-ma cao cấp đều
bó tay, không ai chặn đứng được nạn dịch lan tràn.“Mũi ngựa” cũng lâm bệnh nặng
và nhiều người thấy rằng ông lâm bệnh sau khi thực hành phép ‘Tonglen’ suốt
ngày đêm bên đống lửa của mình.Tonglen là một phép tu bằng cách chú tâm cao độ
và cầu nguyện để mình được chịu thay cho sự đau khổ và ác nghiệp của người
khác, các ác nghiệp đó thể hiện lên thân thể của chính mình. Tonglen là một
phép tu bí mật của các vị Bồ-tát, là các vị đã thệ nguyện không màng đến sự
giải thoát của bản thân mình trước khi mọi loài hữu tình khác được giác ngộ.
Sau đó người ta
đồn rằng “Mũi ngựa” đã hành trì phép tu Tonglen với lòng vị tha tuyệt đối vì
ông chỉ vừa lâm bệnh thì loài bọ đã biến mất và bệnh dịch cũng chấm dứt. Người
ta cho rằng “Mũi ngựa” đã chịu nhận toàn bộ ác nghiệp của cả vùng và mọi người
chuẩn bị cho cái chết của ông bằng một buổi lễ long trọng. Các vị Lạt-ma cao
cấp tụng các kinh luận “bardo” và cầu cho tâm thức người chết được tiếp dẫn về
cõi Tịnh độ của Phật.Nhờ nhiều dấu hiệu đặc biệt mà các Lạt-ma thấy rằng
“Mũi ngựa” đã được Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) tiếp dẫn trong khoảnh khắc lúc
chết. Các vị đó cũng nhờ thiên nhãn thấy rằng “Mũi ngựa” đã được thác sinh về
cõi Tịnh độ phương Tây-nam và báo thân các vị Phật và Bồ-tát đại bi đã bao bọc
chung quanh tâm thức “Mũi ngựa”.Liên Hoa Sinh (12) hỏi ngay thần thức “Mũi
ngựa” như sau: “Ngươi đã giúp cho những ai được giác ngộ, kể từ ngày ta gửi
ngươi đi Tây Tạng?”
“Mũi ngựa” mở
bàn tay ra và chỉ cho đức Phật(Liên Hoa Sinh) hàng ngàn con chấy. Nhìn thấy như
thế, các vị đại sư và Bồ-tát bỗng tỏa hào quang rực rỡ như mặt trời từ bi, biến
thành ánh sáng thuần tuý và đưa “Mũi ngựa” vào cõi Vô lượng quang, là nơi ngài
còn lưu trú tới ngày hôm nay.
17. Tu sĩ trên cột cờ
Drukpa Kunley
(13) là một tu sĩ ngang tàng, từng tu học theo trường phái Drukpa Kagyu. Ông
không hề sợ khi bóc trần các trò lừa đảo hay nịnh bợ trong các giới tu học, kể
cả trong các trường phái tiếng tăm hay tu viện lâu đời. Lúc sinh tiền, ông đã
nổi tiếng là một đại sư Mật tông, đã giúp nhiều người tầm đạo thấy sự thật một
cách dễ dàng.
Lần nọ ông đi
ngang qua sân một tu viện đang cử hành lễ lạc long trọng. Hàng trăm nhà sư đang
ngồi theo phẩm trật trong thế liên hoa, miệng tụng KinhKim Cương, là Kinh giảng
giải thể tánh cuối cùng của tạng vật. Ngày hôm đó, xem ra ông không có gì để
làm nên không ai mời, mà ông cứ vào tu viện, chắc là để mang chút mới lạ vào
đời sống buồn tẻ trong đó.Mặc dù Drukpa Kunley có dáng điệu như một tên khùng
đi lại ngớ ngẩn nhưng rõ ràng ông phát ra một sức thu hút đặc biệt, khác với
các vị tu sĩ khác. Đối với người Tây Tạng thì dấu hiệu đặc biệt của người đắc
đạo chính là sự chú tâm sắc sảo và một chút hóm hỉnh kín đáo. Cũng vì thế mà
ngày đó người ta đã thừa nhận ông cho đến thế kỷ 20 này vẫn còn xem ông như một
vị thánh.
Các vị sư đang
rầm rì nghiêm trang tụng Kinh thì Drukpa Kunley đi ra giữa sân và nhanh nhẹn
leo lên cột cờ, nhanh như một con sóc mà chung quanh không ai để ý. Lên đến
đỉnh cột, ông quạt hai cánh tay như muốn bay và giả kêu tiếng chim. Các vị sư
cố giữ tĩnh tâm tụng Kinh tiếp tục, nhưng tiếng ồn ào trên đỉnh cột đã phá vỡ
buổi lễ.Các vị sư cố gắng tự chủ, kiên trì tụng Kinh, chống lại ảnh hưởng của
ngoại cảnh. “Nhờ sức mạnh của Kinh này mà các yếu tố bất thiện sẽ tự rút”, các
vị tụng đọc liên tục. Lời Kinh này xem ra có hiệu quả vì ông tu sĩ bốc đồng nọ
trèo xuống thật, mặt mày nhăn nhó.Các vị sư phấn khởi đọc tiếp: ‘Sức mạnh do sự
chú tâm sẽ loại bỏ u minh ra khỏi chúng ta’.
Vừa tụng xong
câu này, người tu sĩ dở hơi nọ leo thẳng lên cột và kêu to làm ai cũng nghe
thấy:
“Con vẹt không thể chú tâm,
Vì, dù nó có tụng Kinh kệ ngàn lần,
Nó cũng không bao giờ hiểu
Ý nghĩa đích thực của Kinh.”
18. Đầu bếp giác ngộ
Ngày xưa có một
người đầu bếp tên là Ma-Tschen-La, ông sống trong một trong những tu viện lớn
nhất Tây Tạng và mỗi ngày phải nấu nướng cho hàng trăm người ăn. Năm này qua năm
khác, lúc nào ông cũng đứng dưới thứ thịt trâu hun khói và cứ quậy mãi cái nồi
to tướng, nấu thức ăn và trà bơ bổ dưỡng cho các vị đồng tu.
Ai cũng mến
Ma-Tschen-La, chỉ vì muốn được hàng ngày sống trong bếp của ông, trong đó chứa
đựng một thứ năng lực kỳ diệu.Sau khi ông chết, tu viện tổ chức một buổi lễ hết
sức trọng thể, chỉ dành riêng cho các đại sư, dù rằng mọi người đều biết, đối
với Ma-Tschen-La thì vứt xác cho kiến mối hay kên kên ăn thịt thì cũng chẳng hề
gì.Trong buổi lễ, xác của Ma-Tschen-La được chất lên một giàn hỏa, các vị sư
ngồi xung quanh bắt đầu tụng niệm và châm lửa. Khi ngọn lửa vừa đến đỉnh đầu,
người ta thấy xuất hiện một hào quang ngũ sắc. Sau đó xuất hiện vòng thứ hai,
thứ ba, rồi không ai đếm nổi bao nhiêu vòng ngũ sắc đã xuất hiện trên xác người
đầu bếp. Qua dấu hiệu này, người ta mới nhận ra, người đầu bếp ngày trước là
một vị thánh vô danh suốt hàng chục năm.Ngay sau đó người ta kể vô số chuyện về
người đầu bếp đắc đạo, đã thực hiện được thánh quả mà kẻ khác chịu bao nhiêu khổ
nhọc mà cũng vẫn chưa đạt được.Người ta kể rằng, Ma-Tschen-La, trước khi trở
thành đầu bếp, là người đã từ bỏ mọi tham cầu, chỉ cần cái đang có sẵn. Ông đã
nhận ra rằng mọi cầu mong đều chỉ vô ích, một ngày kia đã từ bỏ tư tưởng về một
cái ta, tự mình trở về thể tánh chân như và thể nhập trong đó.Người ta kể rằng
Ma-Taschen-La không hề bám giữ hay từ chối bất cứ điều gì và vì thế cũng chẳng
cử hành bất cứ nghi lễ gì, cũng chẳng học tập kinh điển làm gì. Nói thế nhưng
cũng có người phản đối ngay, tiết lộ rằng từng nghe Ma-Tschen-La hay niệm danh
hiệu Quán Thế Âm và Bồ-tát Tara.
Dù gì đi nữa
người ta vẫn cho rằng ông đầu bếp là người sớm đắc đạo hơn ngài phương trượng;
ngày nay chuyện về Ma-Tschen-La vẫn còn được nhắc nhở. Ma-Tschen- từ Tây Tạng
có nghĩa là “đầu bếp” và Ma-Tschen-La là người đầu bếp cho tất cả mọi người cần
đến.
19. Tên trộm hối cải
Patrul Rinpoche
là người truyền đạo ở mọi nơi mà ngài đặt chân đến. Có lần ngài đến Zamthang và
được một người đàn ông nghèo khổ tặng cho một móng ngựa bằng bạc vì quá cảm
kích ngài. Người đó đặt tặng phẩm dưới chân ngài và ép ngài phải nhận. Tặng
phẩm bằng bạc này là vật quý giá duy nhất mà người đó sở hữu, nhưng ông ta cũng
biết rằng mình dâng cúng món này sẽ tạo được một công đức cao quý ở một cấp
khác.
Một tuần sau
đó, Patrul lại lên đường đi từ làng này qua làng khác mà trong một vùng ít dân
như ở Tây Tạng thì gần như đi từ nhà này qua nhà khác. Lần này Patrul bị một
tên trộm theo dõi, y đã thấy Patrul nhận tặng phẩm quý giá nọ.Patrul đi trong
hoàng hôn, lòng không chút vướng bận và khômg có mục đích nào khác hơn là kiếm
một chỗ ngủ dưới bầu trời sao. Tại một nơi, Patrul kiếm một hang kín gió và
nhắm mắt ngủ. Tên trộm đợi một lát, sau đó từ từ bò đến chỗ ngủ, mò mẫm bình
nấu trà, rồi túi xách vai và cuối cùng mò đến bộ áo dài bằng lông trừu, trong
đó Patrul nằm cuốn tròn vì cái lạnh ban đêm.“Ka-hô”, vị đại sư lầm bầm, “Ngươi mò
cái gì trong áo của ta đấy?”
“Cái móng ngựa
bằng bạc đâu rồi? Tôi biết, ông giấu trong áo”.
“Trời đất”,
Patrul thở dài, “Xem này, ngươi làm cái gì với cuộc đời ngươi thế? Ngươi theo
ta suốt cả dặm đường, qua bao nhiêu cảnh vắng vẻ trơ trọi, chỉ vì cái miếng kim
loại đó sao. Nghe đây, hãy đi lui hết đường cũ, tìm cho ra chỗ ta đốt lửa, nơi
ta giảng pháp và ngủ tối tại Zamthang. Giữa đống tro và mấy viên đá, ngươi sẽ
thấy miếng bạc đó. Ta dùng nó để kê bình trà”.
Tên trộm không
hề tin những gì ngài nói, nhưng vì y kiếm hoài không ra nên đành trở về chỗ cũ,
cuối cùng y tìm thấy ngọn đồi con, nơi Patrul đã nói chuyện với dân làng
Zamthang. Tên trộm quả nhiên đào trong tro ra miếng bạc quý, y nhìn ngắm một
hồi lâu. Nhưng bây giờ, khi miếng bạc đã vào tay, tên trộm không còn thấy vui
sướng nữa. “Ôi”, y than thầm, “rõ ràng ông Patrul này không còn quan tâm đến
của cải thế gian nữa và ông đúng là một đạo sư đích thực. Còn ta, nghiệp báo
vốn đã xấu xa rồi bây giờ còn gây thêm ác nghiệp ăn trộm đồ của ông nữa, trong
tương lai chắc phải chịu trừng phạt khủng khiếp”.
Tên trộm biết
hổ thẹn đó đứng dậy và lên đường đuổi theo Patrul. Ba ngày sau, tìm thấy ngài
trong khung cảnh hoang vắng, y chạy theo kêu réo. Patrul gọi lại :”Máu tham của
ngươi vẫn còn hay sao? Ta đã chỉ ngươi tìm miếng bạc. Ngươi còn muốn gì nơi ta?”
Tên trộm nước
mắt đầm đìa, quì xuống chân ngài: “Tôi, tôi đã thấy miếng bạc, nhưng tôi
làm gì vói nó đây? Vì nó mà tôi đánh mất bao nhiêu điều trọng đại khác. Hãy
nghe lời sám hối của tôi, ông là một đạo sư đích thực, hãy tha thứ cho tôi.”
Patrul nói: “Không cần thiết. Hãy trở về với nội tâm
của ngươi, hãy qui y Phật, đó là tâm thức sâu kín nhất của ngươi; hãy qui y
Pháp, đó là nhận thức của chưPhật; hãy qui y Tăng, đó là toàn thể những người
cũng muốn học hỏi nhận thức đó”.
Tên trộm nghe lời một cách thành tâm và Patrul nhận y làm
đệ tử ngay tại chỗ. Vài năm sau, có kẻ nhắc lại câu chuyện này trong làng
Zamthang. Một nhóm người nghe xong nóng tính mang gậy guộc đến nhà tên trộm và
lôi y đến gặp lại Patrul đang ở gần đó.“Thả nó ra”, Patrul kêu lên khi thấy các
tín đồ hành hung đệ tử của mình, “các ngươi không biết rằng khi đụng đến người
khác cũng là đụng đến ta chăng? Cái tự tính trong mỗi người chỉ là một với
nhau, dù cho tự tính này mang nhiều dạng hình khác nhau, mỗi lúc mỗi khác, lúc
nào cũng mới mẻ. Các ngươi không thấy sao?”
Lời nói của Patrul có một năng lực mạnh mẽ làm ngay lúc đó
có nhiều ngươi đạt tuệ giác và đã nhận ra được một phần của chân như vốn không
thể nắm bắt.
20. Ba điều ước
Ngày xưa có một nông dân nghèo tên là Dorje, hàng ngày
phải vật lộn với miếng đất khô cằn, chịu bao nhiêu khổ nhọc mới có miếng bánh
mì. Mỗi ngày Dorje đi làm về thì lại không được lời an ủi nào của vợ mình, vì
Pemala vợ ông lúc nào cũng chê bai, không chịu làm kiếp vợ một ông nông dân.
Nhiều đêm trước khi đi ngủ, Dorje chỉ mong có điều duy nhất là bà vợ ngày nào
đó sẽ câm luôn. Ông cầu nguyện thật sự điều đó, ngoài ra ông không còn biết
điều gì cao quý khác.
Một buổi sáng, lúc Dorje còn đang cày thửa ruộng lúa mì
thì bỗng nhiên có một bóng người đàn bà từ xa đi tới. Người đó phát ra hào
quang như một bà tiên, Dorje lập tức quì xuống xin ban phước.Bà tiên cho Dorje
hơn cả một điều ước: “Ngày hôm nay, ba điều ước của ngươi sẽ thành hiện
thực”. Bà tiên nói xong liền biến mất ngay trước mặt Dorje.Dorje run rẩy đặt
cày xuống và đi thẳng vào nhà. Trời còn sớm nên Dorje biết rằng sẽ bị vợ mắng
chửi, nhưng ông phải kể cho vợ mình nghe đã gặp bà tiên và đã được bà ban cho
ba điều ước. Trong mọi trường hợp, ông cần có thì giờ để bàn bạc với vợ, và làm
sao đạt được điều tốt nhất từ cơ hội vô song này.Dorje vừa tới cửa nhà nằm trên
đồi thì Pemala bước ra và bắt đầu trách móc: “Ông muốn cái gì đây, đồ bị gạo?
Vợ ông không có gì trong bụng cả mà ông lại đi chơi, đồ mũi khoai tây”.
Đúng là Dorje có cái mũi to đùng nên nghe thế ông không
nhịn được giận dữ. Bước vào bếp, ông la lên: “Mũi khoai tây. Ta mong cái
mũi ta to như cái bếp này để ngươi biết thế nào là một lỗ mũi to”. Vừa nói xong
thì cái mũi của Dorje phồng lên to tướng, to mãi, to mãi và đè bẹp hai vợ chồng
khốn khổ vào vách tường.
‘Cứu tôi với, cứu tôi với!’Pemala la lên một cách tuyệt
vọng và Dorje sực nhớ ra, nói “Ta mong rằng, ta không có mũi nữa”. Ngay tức
khắc điều đó thành sự thực. Bấy giờ trên khuôn mặt của Dorje chỉ còn một lỗ đen
khủng khiếp.Pemala vừa thở vừa nhìn sửng sốt khuôn mặt của chồng. Dorje sờ lên
mũi và thò tuột tay vào trong đầu mình. Ông rên rỉ: “Ôi, lẽ ra đừng bao giờ gặp
ngươi mà lại hay, bà tiên đáng nguyền rủa!”
Ba lời ước của ông đã thành sự thật. Vợ chồng ông sống
bình thường như không hề gặp bà tiên, cũng không nhớ những gì của một ngày đáng
nhớ đó.
21. Làm sao cho phải
Tu sĩ Ấn Độ Srona là người rất chịu khó học tập thiền
định. Ngày nào ông cũng nhập định, từ bỏ mọi tư tưởng và xúc cảm, tập nhận ‘cái
không’. Tuy thế ông chẳng đạt được tiến bộ nào.Ông càng tìm cách thư giãn thì
lại càng căng thẳng. Ông càng muốn không nghĩ ngợi gì thì ý tưởng lại càng hỗn
loạn. Cứ thế kéo dài, ngày nọ ông nghe nhắc đến đức Phật Cồ-đàm, một vị đạo sư
của trời và người, một vị đã đạt mức thiền định cao nhất đang ở gần đó. Ông
liền lên đường đi gặp Phật Cồ-đàm xin giúp đỡ.
‘Chắc hẳn ông còn nhớ, lúc còn trẻ, ông là một nghệ sĩ
chơi đàn Sitar, ông lên đàn như thế nào?” Phật hỏi ngay vì Ngài biết rõ quá khứ
của người tới trước mặt Ngài.
“Ồ, tất nhiên rồi”, Srona bối rối trước cái nhìn của
Phật.Phật mỉm cười nói tiếp: “Đàn muốn hay thì dây phải thật căng hay thật
chùng?”
“Không quá căng mà cũng không quá chùng, bạch Thế tôn”,
Srona trả lời.
“Sức căng cần thiết nằm đâu ở giữa hai thái cực. Thì cũng
như thế, ngươi nên thực hành thiền định”, Phật nói tiếp, “Nằm chính giữa, một
bên là sự chú tâm, bên kia là sự thư giãn, đó là bí quyết của trạng thái thiền
định tỉnh giác, trong đó người vượt qua hoạt động của tư tưởng và rơi vào trạng
thái của tâm thức uyên nguyên. Đừng quan tâm gì đến có kết quả hay không kết
quả. Cứ tu tập, tu tập và tu tập rồi một ngày nào đó, ngươi sẽ tự tìm thấy cái
ở giữa là chỗ nào cho ngươi”.
Lúc nữ thánh Tây Tạng Machig Labdron(14) nghe câu chuyện
này bà đọc bài kệ:
“Hãy để mình
rơi trong dạng tự nhiên
Của là-như-thế
Có ích gì khi
thắt nút hư không?
Trước hết tập
thư giãn với sự tỉnh giác,
Sau đó cũng bỏ
luôn sự chú tâm
Và cuối cùng
bạn không bám giữ bất cứ điều gì.
Hãy để mọi sự
xảy ra
Thế nào cũng
được,
Và hãy yên
nghỉ trong dạng
Mà bạn vốn xưa
nay đã nằm trong nó.”
22. Về sự tái sinh
Khoảng một ngàn năm sau khi Phật Cồ-đàm từ trần thì giáo
pháp đã có nhiều phát triển trong giới trí thức Ấn Độ. Một trong những luật sư
xuất sắc thời đó là Chandra, người vừa có cái thư thả của bậc giác ngộ, lại có
cái tài hùng biện và lý luận sắc sảo của một người trí thức. Vì thế ông cũng
được nhiều người ủng hộ, và những kẻ khác ý kiến thì lại rất gờm.
Ngày nọ, một pháp sư Ấn Độ tổ chức cuộc tranh luận trong
một ngôi đền với sự có mặt của Chandra. Lúc đó các cuộc tranh luận như thế rất
hiện hành. Cuối cùng, các vị đứng đầu các giáo phái có mặt lần đó, có cả các vị
theo chủ nghĩa vô thần và nhà vua đều thừa nhận Chandra là người thắng cuộc
tranh luận. Sau đó vị pháp sư nọ cho rằng “việc Chandra thắng cuộc chưa
chứng minh được giáo pháp đạo Phật là ưu việt. Nhiều nhất họ chỉ nói rằng
Chandra là người có tài hùng biện thôi”.Nghe nói thế thì mọi người đều đồng ý,
kể cả Chandra. Vị pháp sư nọ quả quyết không hề có bằng cớ về sự tái sinh và
như thế, nguyên lý “nghiệp lực, nhân quả” cũng không đứng vững, “nếu không
chứng minh được có kiếp trước thì không thể thừa nhận có kiếp sau”. Vị pháp sư
thách đấu Chandra: “Nếu bạn có bằng cớ chứng thực về sự tái sinh, tôi sẽ
cùng toàn bộ đệ tử theo Phật giáo hết”.
Chandra nhắm mắt im lặng hồi lâu, làm như suy nghĩ điều gì
. Sau đó ông cười: “Được, nếu nhà vua chịu làm chứng thì ngay hôm nay ta
sẽ chết và sẽ chủ động tái sinh theo một cách để chứng minh được có sự luân
hồi”.Vị pháp sư nọ ngạc nhiên và chấp nhận, tuy thế ông vẫn không tin rằng
Chandra chịu hy sinh mạng sống quý giá này chỉ để chứng minh điều này.Chandra
nhờ nhà vua và cận vệ cho mang vào một chiếc áo quan bằng đồng. Sau đó ông vẽ
lên trán một dấu hiệu màu đỏ, ngậm một hòn ngọc trai trong miệng và nằm vào áo
quan chờ chết. Chỉ vài phát sau ông đã từ bỏ thân thể và nhà vua cho niêm phong
áo quan.Chandra là người đã từ bỏ ảo giác về sinh tử nên ông chủ động nhập mẫu
thai ngay trong đêm đó của một phụ nữ ở gần đền. Sau đó Chandra được sinh ra,
có dạng của một hài nhi bình thường.Chỉ một thời gian sau người ta đồn đại vợ
của một người Bà-la-môn sinh một đứa con trai, trên trán có dấu đỏ, dấu hiệu
của hiền nhân và miệng ngậm một hạt ngọc trai.Nhà vua cùng cận vệ liền đến ngay
thăm đứa bé. Sau khi kiểm soát, nhà vua trở về mở áo quan ra thì viên ngọc trai
trên miệng đã biến mất và dấu đỏ trên trán của Chandra cũng không còn.Đúng như
lời hứa, pháp sư nọ cùng đệ tử theo Phật giáo và rất gần gũi với cậu bé trai
ngày càng lớn. Cậu bé được cha mẹ đặt tên là Chandragomi.
Sau đó Chandragomi trở thành một luận sư, diễn giả danh
tiếng thời đó. Trong viện đại học Na-lan-đà ông đại diện cho quan điểm riêng
của mình về Phật giáo và tranh luận với Nguyệt Xứng(Chandrakirti) cũng là một
luận sư xuất sắc. Sau bảy năm tranh luận không phân thắng bại, Chandragomi thú
nhận rằng chính đức Quán Thế Âm bất tử đã bày vẽ cho ông trả lời các câu hỏi
hóc búa của Chandrakirti. Nghe thế Chandrakirti cười lớn và thú nhận trước quần
chúng rằng lý luận của ông lại được đức Văn-thù-sư-lợi chỉ bày cho.
23. Sự trói buộc dẫn đến
ảo giác
Trong thế kỷ thứ mười, Naropa (17)là khoa trưởng tại đại
học Na-lan-đà ở Bihar Ấn Độ. Một ngày nọ, Naropa nhận ra rằng phải vượt qua
giới hạn của tư tưởng, nếu thật sự muốn thực hiện lời dạy của giáo pháp. Dù
kiến thức của Naropa rất được khâm phục tại Bihar, nhưng ông đã từ bỏ ảo giác
của kiến thức đơn thuần, Naropa lên đường đi kiếm một vị đạo sư.Tại Bengal ông
gặp Tilopa (18) đang ngồi trên bờ một dòng sông. Tilopa là một tu sĩ sống hoang
dã, ăn thức ăn dư thừa và các thứ cá sống mà ông có tài bắt tay không. Naropa
nằm xá dài để biểu lộ lòng hâm mộ đối với Tilopa. Sau đó ông từ từ đến gần, xin
Tilopa vài lời khai thị.
“Ngươi kiếm cái gì?”, Tilopa hỏi, đưa cặp mắt đầy gân máu
nhìn chằm chằm.
“Tôi tìm kiếm sự tự tại và giác ngộ hoàn toàn”, nhà hiền
triết đáp.
“Cái gì trói buộc ngươi, ngươi muốn thoát khỏi cái gì?”,
Tilopa lầm bầm hỏi.
“Muốn thoát tất cả, bạch ngài”.
“Cái trói buộc ngươi không phải là cảnh vật ngoại giới,
Naropa. Chính sự bám víu của ngươi buộc chặt ngươi. Hãy bỏ tất cả và trở thành
tự do”.
Nghe xong, Naropa bỗng thức tỉnh và đại ngộ.Vui mừng trước
kết quả lời mình, Tilopa đọc bài kệ:
“Chỗ nào có
trói buộc níu kéo Chỗ đó còn
khổ đau. Chỗ nào còn
yêu ghét, Chỗ đó còn
giới hạn. Chỗ nào còn
dự định và tư tưởng, Chỗ đó tính
nhị nguyên lên ngôi, Vì mọi phân
biệt chỉ sinh vô minh Tất cả tư
tưởng, kế hoạch và tìm cầu hiểu biết, Đều chỉ là
những trò chơi giả tạo. Mọi tham
cầu hay từ khước, Chỉ làm
ngươi trở thành nô lệ của chính ngươi. Cái sáng
rực vĩnh viễn không bị ô nhiễm, Chính là
tâm thức uyên nguyên, Tâm thức đó
sinh ra tư tưởng, Rồi thu
nhận nó vào lại, xem như không có gì xảy ra cả. Vì vậy, tốt
nhất hãy yên nghỉ trên điều không hề biến hoại. Nơi bất
sinh bất diệt và hoàn toàn diệu dụng”.
Naropa còn phải trải qua mười hai lần thử thách và thuần
thục một số phép tu rồi một buổi sáng nọ, Tilopa thình lình nhảy lén từ sau
lưng lại, lấy giày đánh vào mặt Naropa. Cơ sửng sốt bất ngờ này đánh thức
Naropa vốn đang mệt mỏi, bỗng nhiên hốt ngộ chân như tuyệt đối và tiếp nhận
phép Đại Ấn quyếtMahamudra (47), là phép ấn quyết đưa hành giả trở vế với tự
tính. Với phép này, Naropa đã trở thành truyền nhân của Tilopa và về sau được
may mắn có một truyền nhân xứng đáng là Marpa, nhà dịch thuật, rồi vị này lại
truyền cho con người hoan lạc Milarepa.
Dòng truyền nhân liên tục từ đời này qua đời khác đến ngày
nay vẫn còn. Dù chúng ta không biết đến họ, phải biết đó là một sự may mắn cho
hậu thế.
24. Lòng từ bi hơn tất cả mọi thứ
Cách đây trên hai ngàn năm, trong thành phố Sravasti ở Ấn
Độ có một gia đình Bà-la-môn sinh được hai người con trai. Người con cả có
trí thông minh hiếu học, còn đứa em tên là Chunda thì rất kém, không biết đọc,
biết viết, tất nhiên không thể làm tròn trách nhiệm người con thuộc một gia
đình tu sĩ.
Sau khi người cha mất, hai người con trai gặp một đệ tử
của Phật Cồ-đàm và không bao lâu sau người con lớn trở thành thành tu sĩ được
theo chân đức Phật và được gia nhập giáo hội. Trong lúc đó Chunda cũng lui tới,
nhưng chỉ biết giành ăn với chó mèo mà thôi.Người anh lớn hỏi ý kiến A-nan,
người hầu cận thân tín của Phật, rằng liệu một kẻ có trí khôn tệ hại như
Chunda được phép gia nhập tăng già chăng. A-nan nói “Đem em ngươi lại cho đạo
sư và trực tiếp hỏi ý kiến của Ngài”.
Lúc đầu Chunda không dám lại gặp Phật vì tự thấy không
xứng đáng và quá ngu dốt, nhưng nhờ ông anh chỉ rằng giáo pháp này lấy lòng từ
bi làm chính, nên cuối cùng Chunda mới chịu. Chunda đến gặp Phật một cách sợ
sệt, theo giờ hẹn sẵn, lúc Phật đang tiếp chuyện trong một vườn cam. Chỉ nhìn
qua, Phật Cồ-đàm đã thầy ngay tính khiêm tốn và lòng nhân hậu của con người trẻ
tuổi này và cho phép A-nan thu nhận làm môn đồ.
A-nan khai thị Chunda bằng bài kệ:
“Xa lánh mọi tư tưởng xấu, cái có thể mang lại hành độngxấu. Tha thiết quên mình và sẵn lòng phụng sự, Tránh không bám giữ nơi cái Ngã. Thanh tịnh, tỉnh giác và trong sạch, đúng như tự nhiên, Thì không có khổ não nào có thể xâm lấn. Đó là đạo lý của người giác ngộ.”
Ba tháng trôi qua, anh chàng Chunda tội nghiệp vẫn không
thuộc nổi một câu kinh mà bất cứ kẻ chăn trừu nào cũng thuộc được. Trong lúc đó
thì các vị Tăng sĩ trẻ tuổi đã thuộc nằm lòng từng chồng Kinh sách.Chunda thất
vọng hỏi ý kiến A-nan. A-nan vừa mới giải thích xong thì đã khám phá ra Chunda
không thể lĩnh hội gì cả, không có câu nói nào nằm lại trong óc chàng. A-nan tự
nhủ: “Được cái gì? Người này gia nhập giáo hội để làm gì khi không thể nhớ điều
nào trong đầu?” A-nan chỉ ban phước cho Chunda và cho chàng nghỉ việc. Chàng
thất vọng, ra ngồi khóc vườn cam và khóc, khóc mãi cho đến khi Phật đi qua.Phật
biết ngay những gì vừa xảy ra và khuyến khích Chunda kể lại câu chuyện. Chàng
thút thít: “Không hiểu điều gì đã xảy ra cho con? Con muốn trở thành đệ tử
của Thế tôn và được học pháp của Ngài, thế mà không nhớ được điều đơn giản
nhất. Nghiệp nào làm con không thể hiểu biết được?”
Phật Cồ-đàm giải thích, trong kiếp cuối cùng chàng là một
Bà-la-môn thông thái và là người tự cho mình tài giỏi hơn thiên hạ, chê trách
không hết lời những quan điểm của người khác. Quá chủ quan, chàng tự cho mình
là đạo sư và truyền bá các quan điểm sai lầm làm nhiều kẻ tầm đạo phải lạc lối.
Vì sử dụng sai lạc sức mạnh của tư tưởng, Chunda phải chịu học hỏi “mặt kia của
đồng tiền” trong kiếp này và trở thành kẻ ngu dốt để nhiều người chê bai.
Chunda đáp: “Từ hồi nhỏ thầy giáo đã chê con là người
khó lĩnh hội. Làm sao thoát khỏi ách nạn này?.
Phật trả lời bằng câu kệ:
“Được bậchiền giả hướng dẫn, tốt hơn là
được kẻ khờ ca tụng. Ai biết rằng
mình còn vô minh dại dột, kẻ ấy mới là
một hiền giả đích thực. Ai tưởng mình
là một hiền giả, dù không nói ra, thì đích thực
là một kẻ dại khờ”.
Sau đó, Chunda được Phật Cồ-đàm đích thân chỉ dạy. Nhằm
làm sáng tỏ đầu óc của Chunda, Phật bảo chàng ngồi mỗi ngày đều quét đền và
quét các đường đi quanh đền .Trong công việc đó, chàng chỉ nên nhớ đến hai câu
duy nhất “Chùi sạch bụi, chùi sạch dơ bẩn”. Ngoài ra Chunda phải chùi sạch
tất cả giày dép của các vị Tăng sĩ khác.Chunda vội bắt đầu công việc. Vừa mới
cầm chổi quét, chàng quên ngay hai câu nọ. May thay chàng gặp A-nan đang ngồi
giữa sân đền và nhờ nhắc lại hai câu đó. Sau đó một thời gian lâu, Chunda mới
thuộc được hai câu này. Vài tháng sau thì chàng thuộc lòng và lúc nào cũng lẩm
bẩm câu này, tay cứ quét, quét và quét và chùi giày từ đôi này qua đôi
khác.Phật để tâm quan sát sự cố gắng của vị tiểu tăng này và có cách làm cho
lúc nào đền cũng đầy bụi và giày dép lúc nào cũng lấm bùn để Chunda có việc làm
liên tục từ sáng đến tối. Với sự cẩn trọng và tha thiết, Chunda từ từ đi vào
chiều sâu của câu nói “Thế tôn nói bụi là muốn nói bụi ở bên ngoài hay bên
trong? Mà bụi ở bên trong là gì?” Cứ thế mà chàng trở thành người học trò chuyên
sâu nhất, song song đó chàng lại đi phụng sự cho các bạn đồng học.
Ngày nọ, Chunda tung chổi quét đền, và tâm thức đại định
của chàng đã đạt đến mức rất sâu thì một câu kệ của Phật bỗng nhiên bừng
sáng, trở thành một câu Kinh đầy ý pháp, một câu chàng không biết và cũng chưa
bao giờ nghe:
sự ràng buộc, sự níu kéo, sự vướng mắc, Không phải là
bụi cõi trần; Bậc hiền giả
từ bỏ thứ bụi đó. Dơ bẩn chính
là sự giận dữ, Không phải là
sự ô uế thông thường; Bậc hiền giả
từ bỏ các lớp uế nhiễm nhiều tầng đó, Và trở nên tự
tại”.
Chunda nghe các lời kệ đó và trực nhận ra rằng cái Ta giả
tạo do ba thứ tham đắm (Tham), giận dữ(Sân) và vô minh(Si) sinh ra. Như vậy
người tỉnh dậy từ một cơn ác mộng, chàng thấy rằng lâu nay mình cứ tự động hòa
mình với cái Ta, cái đó không gì khác hơn là một lớp dơ bẩn mà chàng vừa quét
đi.“Rõ như ban ngày, hoàn toàn rõ ràng. Cảm tạ đức Thế tôn”. Chàng đứng đó, tay
còn cầm chổi, nhưng đã đi xuyên suốt hết các tầng bụi bặm của sự ảo giác!Sau
lần giác ngộ này, Chunda còn tu học thiền định hàng năm trời và sau đó Phật
trao nhiệm vụ cho Chunda đi từ làng này qua làng nọ để đánh thức người tầm đạo.
Kẻ “Chunda bất trị” nay đã trở thành “A-la-hán Chundaka, người quét đường” đi
vào lịch sử Phật giáo và chứng minh rằng, có hàng ngàn con người với đầu óc
giản đơn, thậm chí lòng đầy nghi ngờ và hoàn toàn không được chuẩn bị, thế mà
vẫn có thể được đưa vào các cấp bậc giác ngộ chỉ với bằng những câu nói giản
dị.
Trong các đệ tử, Phật Cồ-đàm xem kẻ quét đường Chundaka là
người khôn khéo nhất khi chuyển hóa tâm thức. Ngày nay người ta vẫn nói, những
ai muốn phát triển tâm thức nên thành tâm cầu đến trợ lực của Chundaka, nhất là
khi nghe các vị đạo sư giảng giải làm họ không hiểu cũng chẳng nhớ. Chundaka là
một thí dụ lịch sử sinh động nhằm minh chứng rằng, lòng nhân hậu và sự tha
thiết thực hành các phép tu có khi quan trọng hơn xa một đầu óc trí thức sắc
sảo.
25. Tự tính rất gần
Patrul Rinpoche, một kẻ giác ngộ phiêu bồng, không đêm nào
khi trời chập tối mà không nằm ngửa, ngắm nhìn bầu trời cao rộng. Ở đâu cũng
thế, mỗi lần như vậy là mỗi lần ngài hòa lẫn tâm thức riêng tư của mình cùng
với vũ trụ, đó là sự hòa lẫn trong thiền định, trước và sau ngài có nhiều người
đã làm như thế.
Một đêm nọ Patrul nằm trên một cánh đồng, nhìn ngắm bầu
trời, gần đó có vài đệ tử. Bỗng nhiên ngài gọi vị đệ tử xuất sắc nhất là
Nyoshul Lungtok lại và nói: “Ngươi có thấy Tự tính chăng, Nyoshul?”
“Thưa không”, Nyoshul trả lời thành thực.
“Đừng lo”, Rinpoche nói, “thực tế không có gì bí ẩn cả. Nhưng
đừng nghĩ ngợi gì về nó, cứ giữ tâm rộng mở”. Hai thầy trò nằm bên cạnh một lúc
lâu và cùng nhìn bầu trời. Mặt trời lặn. Xa xa có tiếng chó sủa.“Ngươi có nghe
chăng tiếng chó sủa?”, Rinpoche hỏi.
“Thưa có”, Nyoshul trả lời.
“Đó, nó đó”, giọng nói vị đạo sư trầm tư lại vì xúc động.Ông
hỏi tiếp, giọng rất nhỏ: “Ngươi có thấy chăng các vì sao trên bầu trời?”
‘Thưa có, con thấy chúng’.
Patrul Rinpoche lại kêu lên: “Đó, nó đó! Chính nó!Tất cả,
hết thảy đều là tâm thức tỉnh giác, đều là Phật tính ròng, nó chính là thứ nằm
ngay trong ngươi. Đừng tìm kiếm nữa, khắp nơi chính là nó”.Ngay lúc đó, trong
người học trò loé lên một tuệ giác, thứ tuệ giác nằm ngoài sự phân biệt. Trong
khoảnh khắc đó, Nyoshul không thấy sự khác biệt gì giữa tâm thức của chính mình
và cái tự tính của vạn vật. Trong phút giây đó, không hề còn gì mà ông phải
chứng đạt, vì ông đã biết chính mình là gốc mọi thứ xưa nay, sinh ra tất cả,
nhận thức tất cả, rồi lại chứng đạt tất cả.Nyoshul khóc. Chỉ mới đây ông còn
đang lo tối nay mình lại phải mơ thấy giấc mộng ấy. Đó là giấc mộng mà Patrul
Rinpoche hiện ra, đẩy trước mặt ông một cuộn len màu đen khổng lồ và trong cuộn
len đó một tượng Phật bằng vàng, từ đó phát ra vô số sợi len. Bấy giờ Nyoshul
chợt hiểu rằng bản thân giấc mơ đó cũng như mọi tư tưởng hay tình cảm do ông
hay bất cứ ai cảm nhận được đều xuất phát từ Phật tính nằm trong trung tâm của
vạn sự.Con đường dẫn đến tuệ giác này dài thật, nhưng bây giờ ông đã tự mình
ngộ ra về một câu kệ đầy minh triết của Mật tông:
“Trên con
đường đạo nhiều giáo pháp,
Bạn sẽ hiểu
rằng.
Tất cả loài
hữu tình,
Đều có khả
năng, một ngày kia,
Sẽ đạt giác
ngộ.
Trên con đường
Mật tông,
Bạn sẽ thấy
rằng, tâm thức uyên nguyên,
Từ xưa đến nay
đang soi sáng tâm bạn”.
Nhiều năm sau, Nyoshul Lungtok còn kể câu chuyện về lần
giác ngộ này của chính mình cho học trò nghe và chấm dứt câu chuyện bằng bài kệ
của đạo sư Longchenpa:
“Vạn sự, từ
xưa đến nay:
Tính của nó là
thanh tịnh – và chính là Phật tính.
Ai biết điều
này, đó là người đã thức tỉnh.
Ai để sáu thức
yên nghỉ trong tự tính đó,
Người đó sẽ
thấy chúng
Là một sự viên
mãn hoàn toàn.
Đừng tin nghe
đầu óc đang xao xuyến,
Hãy yên lặng
và hãy để mọi sự như là…
Như là xưa nay vẫn cứ”.
26. Tỉnh
giấc khó khăn
Vào thế kỷ mười chín tại miền Đông Tây Tạng có một
vị Lạt-ma cao cấp tên là Jamyang Khyentse Rinpoche. Nhiều đệ tử của ngài là các
vị tái sinh của các dòng Lạt-ma và thường rất xuất sắc trong học tập và lĩnh
hội. Trong số đó có Neten Choling, một cậu bé mà rõ ràng là kiến thưc và tài
năng đã được hình thành từ những đời sống trước. Từ nhỏ, Neten Choling đã thông
minh và chỉ làm theo ý mình, đến nỗi cha mẹ phải đưa đến Jamyang Khyanste để
cậu bé này được một đạo sư giác ngộ hướng dẫn học tập
Dưới sự hướng dẫn của Rinpoche quả nhiên Neten
Choling sớm trở thành một thanh niên xuất sắc, nhưng cũng như các vị tái sinh
khác, chàng không tránh khỏi lòng kiêu mạn.Ngày nọ, chàng Neten Choling chừng
hai mươi tuổi quyết định lên đường đi kinh đô Lhasa để tham gia một cuộc tranh
luận với các luận sư của bốn trường phái lớn của Phật giáo Tây Tạng. Lhasa là
trung tâm văn hóa của cả nước, đi bốn ngày đường mới đến, nhưng Neten Choling
cho rằng đáng công đi để cho các vị luận sư kinh đô biết đâu là chân lý.Chàng
bắt đầu chuẩn bị cuộc hành trình và báo cho thầy biết, xin phép lên đường
và xin thầy ban phép lành. Jamyang Kheyentse trả lời: “Tốt lắm. Hãy đi
Lhasa nhưng đợi vài ngày đã”.
Vài ngày sau có một buổi lễ điểm đạo, trong đó
Langyang Khyentse sẽ khai thị cho một số vị đệ tử. Tất cả học trò, kể cả các vị
Lạt-ma cao cấp đều tập họp đông đủ trong chính điện. Ai cũng hồi hộp mong được
thầy nói điều gì đó cho mình. Ai cũng biết vị thầy của mình là người đắc
đạo và thường bất ngờ dùng nhiều biện pháp để khai thị cho đệ tử hoặc để giúp
tiến thêm nhiều bước tu học. Cũng vì thế mà các vị đạo sư vẫn được so sánh như
người mài kim cương, dù có khác nhau về chủ trương, trường phái, nhưng các vị
đó đều giống nhau là mỗi lần dạy học trò là như mới, phải có cách riêng để phá
bỏ những điều vô bổ, những điều che mất ánh sáng rực rỡ tự nhiên.Chàng Neten
Choling hôm đó chẳng may bị đau bụng dữ dội, bụng đầy hơi. Lúc ngài Khyentse
Rinpoche đi dọc một hàng Lạt-ma và các vị tái sinh, ngang đến chỗ chàng thì
đứng lại và đặt bình bát bằng vàng lên đầu chàng đồng thời ban phép lành. Vừa
mới làm ngang đây, bỗng vị đạo sư đấm một đấm mạnh vào bụng chàng đang đầy hơi,
ai thấy cũng kinh hoàng.Neten Choling phải phát ra một cú trung tiện thật lớn,
không ai không nghe. Mặt chàng đỏ như gấc, lúc đó thì Khyentse Rinpoche chỉ
thẳng vào mặt chàng, nói: “Chính nó đó!”.Đầu óc chàng hoàn toàn tê dại.
Chàng rơi lại trong tính không của Chân Như và bỗng đạt được trạng thái tự
nhiên uyên nguyên, trạng thái đó chính là Giác ngộ, khi con người trực nhận nó
được một lúc.
Trong những năm sau đó, Choling Rinpoche vẫn còn
kể câu chuyện giác ngộ của mình không chút hổ thẹn và cho trò biết cái nhận
thức thâm sâu của nhận thức lần đó, cái thâm sâu đó đạt được là nhờ cú “sốc” mà
ra và chàng không bao giờ rời xa chiều sâu thẳm đó nữa. Chàng khâm phục lòng
sáng tạo thần thánh của Khyentse Rinpoche và nói thêm rằng sau đó không còn
chút ham muốn đi tranh luận ở kinh đô nữa. Vì chàng chẳng cần minh chứng điều
gì cả.
27. Patrul Rinpoche được cầu hôn
Trên miền cao nguyên Golok phía Đông Tây Tạng,
Patrul Rinpoche gặp một người đàn bà đang khóc lóc thảm thiết với ba đứa con
nhỏ, trên đường đi Dzatschuka.Người giác ngộ phiêu bồng này hỏi thăm người đàn
bà và được biết ông chồng đã bị gấu ăn thịt, và cả gia đình bây giờ phải kéo về
phố xa để xin ăn, nếu không cả nhà chỉ chờ chết đói.Patrul liền cõng một đứa bé
trên vai, tay dắt đứa kia và nói: “Đường đi đến Dzatschuka còn xa, vì thế
tôi phải đi cùng mà giúp đỡ cho bà”.
Người đàn bà mừng rỡ và cùng đi với Patrul suốt
một vùng vắng người. Bà lo mang đứa bé mới sinh và Patrul thì vai cõng
đứa này, tay dắt đứa kia và cả nhà từ từ đi về phía Nam. Buổi tối Patrul bọc
hai đứa nhỏ trong áo ấm của mình để chúng khỏi chết cóng trong đêm lạnh. Sáng
tối hai người lớn nấu trà quanh đám củi và chia nhau ăn phần dự trữ
ít ỏi của Patrul.Giữa đường họ gặp các người chăn trừu hay kẻ hành hương và mọi
người đều xem đây là một gia đình hết sức bình thường đi lễ thánh địa. Không ai
nghĩ ngợi gì về con người và đứa trẻ trên vai là ai, người đàn bà nọ thì lại
càng không biết. Khi cả nhóm đến một nơi khá đông người thì người đàn bà cùng
Patrul Rinpoche bắt đầu ăn xin, để mua các thứ như bột, bơ sữa chua mà
sống.Nhóm người nhỏ bé này xem ra ngày càng bớt buồn trên đường đi vì niềm an
lạc xuất phát từ một tâm thức giác ngộ như Patrul có thể xoa dịu những
tâm hồn sôi sục. Khi họ vừa đến ngoại ô của Dzatschuka thì gia đình ăn xin này
hầu như cất được một bài ca, người đàn bà kiếm nơi ăn xin còn Patrul đi đâu
mất.Một lúc sau Patrul về lại, mang theo nhiều thực phẩm nhưng mặt mày xem ra
có chút ưu tư. Bà quả phụ hỏi thăm lí do ưu tư thì Patrul nói: “Chẳng có
gì quan trọng. Tôi định làm chút việc, nhưng ở đây, các chuyện nhảm nhí lại
được lan truyền nhanh như chớp”.
“Nhưng một người ăn xin nghèo khổ như ông lại quan
tâm gì đến chuyện đó”. Người đàn bà ngạc nhiên.
“Thì…đúng như vậy, ta hãy đi tiếp”.
Một lúc sau cả nhóm đến tu viện nằm về phía Bắc
của Dzatschuka. Dưới chân ngọn đồi của tu viện, Patrul nói với người đàn bà:
“Tôi phải dừng ở đây vài bữa. Trong ba ngày nữa, bà sẽ gặp lại tôi và tất
cả sẽ được chuẩn bị chu đáo”.
Người đàn bà quá đã có kế hoạch khác. Trong quãng
đường đi, người bạn đồng hành đó đã gây niềm cảm mến. Bà thấy rằng đã vượt qua
nỗi khổ đau mất chồng, một phần nhờ một cái gì rất êm dịu phát ra từ người đó.
Bà vội nói: “Đừng làm thế, suốt một thời gian dài anh đã ở với chúng tôi,
hãy ở lại. Nếu anh muốn, chúng ta sẽ thành vợ chồng, hay ít nhất cũng cùng nhau
đi suốt cuộc đời này. Đừng bỏ rơi mẹ con tôi”.Nhưng vị đạo sư đã có một quyết
định không thể dời đổi. “Tôichỉ là một trong những người giúp đỡ bà. Hãy
tin rằng mọi sự sẽ tốt lành. Ba ngày nữa bà sẽ trở lại và sẽ gặp tôi”. Nói
xong, Patrul quay người leo lên đồi. Người đàn bà đành ở lại dưới thung lũng
với các con và thực phẩm vừa kiếm được.
Ngày hôm sau người ta bắt đầu lan truyền tin “Đạo
sư giác ngộ Patrul từ xa đến đây và giảng pháp cho chúng ta”. Mọi nguời đổ xô
đến tu viện, dựng lều trước cửa và lo lắng tổ chức buổi lễ. Góa phụ kia nghe
tin, có chút hy vọng “Sự có mặt của một đạo sư danh tiếng như thế quả thật
là một điềm tốt. Ta sẽ kiếm ngài, dâng hiến tặng phẩm để cầu nguyện cho ông
chồng xấu số”. Nàng gom góp mọi thực phẩm xin được, mang theo ba đứa con, tìm
đường đến tu viện.Patrul Rinpoche là người không bao giờ nhận tặng phẩm. Nhưng
lần này ngài ra lệnh cho các vị Lạt-ma hãy giữ mọi tặng phẩm lại “Ta đợi
một người, người này sẽ được nhận các thứ”.
Các vị Lạt-ma ngạc nhiên, nhưng không có gì khác
hơn là nghe lời Phật(Patrul) và dồn tất cả tặng phẩm trong một phòng riêng.Nàng
góa phụ và các con vào trong chính điện, nơi Patrul giảng pháp, họ tìm được một
chỗ đứng xa phía sau, không thấy mặt Patrul, chỉ nghe tiếng. Cuối buổi giảng,
sau phần cầu nguyện kết thúc, mỗi người lần lượt đi ngang trước Patrul và được
tận mắt nhìn vào mắt ngài.Đến lượt nàng góa phụ, bấy giờ nàng mới biết ai đã đi
suốt một đoạn đường dài với mình. Nàng kêu lên một tiếng hốt hoảng, đưa tay bịt
miệng. Patrul mỉm cười hiền từ và đưa tay đặt trên đầu nàng.
“Hãy tha lỗi cho con”, nàng nói, “con đã không
nhận ra ngài suốt một thời gian. Trời đất! Ngài cõng con của con trên vai…và
còn con thì lại đòi cưới ngài, một vị đạo sư tôn kính”.
Patrul cười và nói rõ lỗi tại ngài vì ngài chỉ
muốn không ai biết mình để có thể tự do đi lại trong xứ này như một con chim
trời. Sau đó ngài quay lại nói với các vị Lạt-ma: “Đây là người mà ta đợi.
Cũng nhờ người này mà ta đến đây. Hãy tặng cho gia đình này tất cả tặng phẩm và
hãy lo lắng cho họ. Hãy xem họ như chính ta”.
Các vị Lạt-ma hiểu rất rõ Patrul muốn nói điều gì:
Ngài nói hãy xem họ như chính ta với nghĩa thật nhất.
28. Người đan giỏ
Tại Ấn Độ, chỉ vài trăm năm sau khi Phật nhập
diệt, có một chàng thanh niên nguyện theo hạnh một vị tu sĩ Phật giáo và trở
thành một tỳ-kheo. Chàng trở thành một người khất thực, nguyện diệt mọi dục
vọng thế gian và luôn luôn chế ngự tâm, hướng tâm vào bên trong.Vị tỳ-kheo sống
độc cư trong rừng, nhưng thỉnh thoảng cũng vào làng để nhận tặng phẩm của mọi
người và cũng dùng năng lực của thiền định để hồi hướng công đức cho dân làng.
Lần nọ, có một nàng thôn nữ, chỉ nhìn thấy vị tỳ-kheo,
thấy cách đi đứng và cặp mắt giác ngộ, nàng liền đem lòng yêu mến tức khắc,
không sao cưỡng nổi.Nàng đánh bạo bày tỏ tâm tình với vị tỳ-kheo, nhưng vị này
cũng nói rõ đã theo hạnh diệt dục, và sẽ không bao giờ lập gia đình. Thời gian
trôi qua, nàng thôn nữ lẽ ra phải dần quên mối tình, nhưng thực tế lòng say mê
ngày càng sôi sục hơn. Dần dần tình cảm này càng nồng cháy đến độ nàng không
còn biết gì nữa. Bà con bạn bè tìm cách dỗ dành, các vị trưởng lão trong làng
cũng như các vị tỳ-kheo đều cho thấy mối tình này là vô vọng. Tuy thế không ai
có thể chữa trị nổi lòng đam mê của nàng.Ngày nọ, vị tỳ-kheo nghe tin nàng
không còn thiết sống, muốn tự vẫn. Vị này liền vào làng và thấy nàng quả thật
trong một tình cảnh bi đát, và không thể làm khác hơn là phải theo lời khẩn cầu
của nàng và cha mẹ nàng, tức là cưới nàng làm vợ.”Ta đã nguyện diệt mọi
dục vọng thế gian. Đồng thời ta cũng đã nguyện theo hạnh Bồ-tát, tức là phải
tìm cách giúp mọi loài hữu tình theo khả năng của mình. Trong tình cảnh này
phải theo hạnh Bố-tát thôi”.
Không bao lâu sau, hai người cưới nhau. Trong buổi
lễ kết hôn, chàng tự nhủ “Đã làm cái gì thì làm cho đến nơi đến chốn”. Tỳ-kheo
đó trở thành một người chồng gương mẫu. Chàng đọc ngay trong mắt những ước muốn
của vợ mình và cũng được trả lại bằng tình yêu đậm đà nhất. Hai vợ chồng tiếp
nối công việc đan giỏ của cha ông và dạy dỗ các con trong nghề đan giỏ. Vị tỳ-kheo
ngày xưa thực hành các động tác nghề nghiệp cũng với sự chăm chú của thiền
định, tuy thế không hề tách biệt với người xung quanh.Hai vợ chồng ngày càng
xây được sản nghiệp lớn lao. Tiếng đồn ngày càng xa, giỏ của gia đình này có
chất lượng vượt xa và nhất là chúng mang lại nhiều may mắn cho người sử
dụng.Vài chục năm, gia đình này trở nên giàu có và người đan giỏ nọ trở thành
một người danh tiếng, nhiều người đến tìm ông xin ý kiến. Con cháu họ tiếp tục
gia nghiệp và cái làng nhỏ bé nọ trở thành nổi tiếng với nghề làm giỏ.
Khi người đan giỏ nọ cao tuổi chết đi, người vợ
chết theo không bao lâu sau đó. Cả hai được tái sinh trong cõi cực lạc phương Tây,
một cõi tịnh độ của Phật A-di-đà.Phật A-di-đà, vị Vô Lượng Quang Phật, tiếp dẫn
sự tái sinh và cho người đan giỏ biết rằng, ông đã làm đúng, khi từ bỏ cuộc đời
tu sĩ để cứu mạng sống của một người khác. “Với lòng từ bi quên mình,
ngươi đã thực hành đúng nghĩa nhất: hạnh diệt dục”, Phật nói như thế. « Vì
thế, ngươi và những người liên hệ nghiệp lực chặt chẽ với ngươi sẽ được nhập
Niết-bàn không bao lâu sau nữa”.
29. Tâm thức tự tại
Thời Phật còn tại thế, cách đây trên hai ngàn năm
trăm năm, có một tu sĩ Ấn Độ tên là Khenpo. Khenpo không được vui khi thấy rằng
nhiều đệ tử của mình bỗng nhiên bỏ mình để trở thành đệ tử của Phật Cồ-đàm.
Tới lúc Khenpo nghe vợ một người đệ tử quan trọng
nhất cũng muốn theo học giáo pháp mới của Cồ-đàm thì ông thấy đã tới lúc ngăn
cản. Ông cho gọi người đệ tử đến và bảo: “Pelbay thân mến, ngươi đang có
mối nguy hiểm lớn. Tên hoàng tử Tất-đạt-đa hồi trước ngày nay tự xưng là Phật
Cồ-đàm đang làm ra vẻ là tay đạt đạo. Thực tế y chỉ là một tên phù thủy ích kỷ
và ngày nay nếu y khuyến dụ được vợ ngươi thì, chắc là ngươi không yên được
đâu.”Pellbay đâm lo, vội chạy về nói với vợ nhưng nàng nhất quyết không để mất
lập trường: “Em sẽ mời Phật và Tăng-già đến nhà ta dùng bữa trưa, lúc đó
anh sẽ được chứng kiến sự thành tâm và trí tuệ vĩ đại của Ngài”.
Pelbay kể lại cho thầy mình nghe, Khenpo liền
khuyến cáo: “Ngươi sẽ thấy, nếu ngươi cho vợ ngươi theo tên đạo sư tân
thời này, điều gì sẽ xảy ra. Chỉ toàn là chuyện khốn khổ! Tên Cồ-đàm này cho
mọi người biết rằng y là một nhà tiên tri, đại từ, đại trí! Nhung ta có thể đối
trị điều này rất dễ, Pelbay. Cứ để cho vợ ngươi mời tên Phật đó đến. Ta sẽ thử
thách cái tiên tri đại trí của y trước mắt mọi người”.
Sau đó Pelbay nghe lời thầy cho đào một cái hố
trước cửa nhà để cho tên phù thủy mặc áo vàng này rơi vào đó làm trò cười cho
thiên hạ. Mặt khác Peibay cho tẩm thuốc độc vào thức ăn và nhốt vợ trong nhà
kho để nàng khỏi báo trước cho đức Phật.Phật nhận lời đến dùng bữa trưa và vợ
Pelbay quả nhiên bị nhốt. Trước khi lên đường đến nhà Pelbay, Phật họp các tỳ-kheo
lại và dặn đừng ai vào cửa trước ngài cả. Ngoài ra Ngài không nói gì
thêm.Pelbay đứng đợi sẵn sau cánh cửa lúc đoàn tùy tùng của Phật vừa đến. Phật
đi trước và bước lên tấm thảm đó không hề lún xuống mà lại biến thành một hồ
sen và Phật đi trên đó. Sau cánh cửa, không gian như biến thành vô tận và bao
bọc thân Phật đầy ánh sáng cùng đoàn tùy tùng.Thấy thế Pelbay quì xuống và kêu
lớn: “Hãy tha thứ, bạch Thế Tôn. Con đã gây tội lỗi không thể tha được”.
Phật nghe lời sám hối của Pelbay và trả lời bằng bài kệ:
“Tâm
giác ngộ đã vượt lên
Mọi nhị
nguyên.
Làm sao
mà Thiện hay Ác còn đụng đến nó được nữa.
Tâm
tỉnh giác xa lìa moị dục ái
của ba
độc(tham, sân, si)
Làm sao
cái khổ còn đụng đến nó được nữa?”
Phật Cồ-đàm cho phép mọi tu sĩ được thọ thực. Sau
đó, ngài nhờ Pelbay thả vợ ra và đưa đến bàn ăn. Pelbay làm theo lời Phật rồi
quì xuống đấm ngực: “Bạch Thế tôn, xin Ngài cùng đoàn đừng ăn xin đợi
chúng con nấu món khác. Con biết Ngài là một đấng tiên tri và đã nhìn suốt con
người của con. Lòng từ bi của Ngài là vô hạn, nhưng con sẽ không bao giờ được
yên nếu Ngài hay bất cứ ai trong đoàn bị ngộ độc”.
Đức Thế Tôn lại trả lời bằngmột bài kệ:
“Tâm
giác ngộ là xa lìa
Mọi
điều Phải hay Trái.
Làm sao
mà nó còn quan tâm đến Đúng hay Sai.
Tâm
tỉnh giác vượt lên mọi tác hại của ba độc
Làm sao
chất độc thường tình còn đụng đến nó ?”
Thế rồi đức Phật cùng đoàn bắt đầu thọ thực,
Pelbay sợ hãi kêu gào. Sau khi cám ơn lòng hiếu khách của gia chủ, Phật rời nhà
và cũng là người bước lên tấm thảm trước và tấm thảm lại biến thành hồ sen. Còn
Khenpo tuyệt vọng ngồi suốt buổi phía sau, ông ta đã nhìn thấy tất cả, trốn ra
cửa nhà bằng cửa sau và không bao giờ xuất hiện nữa.
30. Tên trộm qui y dưới chân cầu
Ngày xưa có một vị Lạt-ma sống bên dòng sông
Dzachu tại miền Đông Tây Tạng và suốt đời thực hành thiền định. Phật tử dâng
cúng tặng phẩm mỗi ngày nhưng vị Lạt-ma chỉ lấy thực phẩm, còn các thứ khác nằm
ngổn ngang không để ý.Có một tên trộm thấy vậy liền nghĩ: ‘Vị Lạt-ma này làm
công việc của ta khoẻ thật!’. Y mò tới và nhặt vài tặng vật nghệ thuật mà các
tín đồ đặt lên bàn thờ của vị Lạt-ma. Lúc đó vị Lạt-ma đang thiền định, mặt
quay về hướng sông. Tuy thế ngài vẫn có cảm giác về một năng lực đen tối sau
lưng mình và một tâm hồn đang gây ác nghiệp.Ngài đứng dậy, chụp cổ tên trộm. Vị
Lạt-ma nhìn sơ qua tên trộm biết ngay người này tuy đang bị những năng lực đen
tối chi phối nhưng vẫn chưa bị cái ác chiếm đoạt hoàn toàn.Nhanh như chớp, vị
Lạt-ma chụp một cuốn kinh, đập lên đầu tên trộm và đọc nhiều lần: “Con xin
quy y Phật, con xin quy y Pháp, con xin quy y Tăng, con xin quy y Tam bảo”. Sau
đó ngài thả tên trộm ra đi, không nói lời gì cả.
Sau đó tên trộm nằm nhoài dưới chân cầu, còn vị
Lạt-ma thì tập trung tâm thức của ngài lên hình ảnh, tâm tên trộm sẽ sáng lên
một mức và bớt bị những ác nghiệp chi phối.Nửa đêm thì tên trộm tỉnh dậy từ cơn
mê ngủ và thấy xung quanh ma quỉ đen tối đứng bao vây mình. Sợ hãi, tên trộm
định la lên nhưng y chột nhớ những câu mà vị Lạt-ma mới đọc cách đây có mấy
tiếng. Y thầm đọc quy y Tam Bảo, quy y Pháp, Phật, Tăng. Ngay trong lúc đọc, y
đã thấy các linh hồn ma quỉ tự ý rút lui, vì chúng không thấy tên trộm còn là
bạn bè với chúng nữa.Trong những ngày và tuần lễ sau đó, lúc nào tên trộm cũng
đọc quy y và tới một lúc nọ, y thu hết can đảm tìm gặp lại vị Lạt-ma và xin ngài
cho y làm đệ tử.
Như tất cả mọi người đều biết, quy y Tam bảo là
bước đầu của cuộc hành trình trên con đường đạo, trên đó các cánh cửa của tri
kiến thánh đạo sẽ mở được ra. Ai kiên trì luyện quy y một cách thành tâm, người
đó sẽ thoát khỏi sự chi phối của những năng lực xấu ác và được thanh lọc. Đó là
trường hợp của tên trộm quy y dưới chân cầu và sau bản thân vị đó cũng có nhiều
học trò. Nhờ niệm quy y mà các đệ tử đó đều được giải thoát khỏi ảo giác của
mình.
31. Nghiệp cũ
Ngày xưa tại
Kashmir có một tu sĩ Phật giáo tên Mirathi. Nhờ tu tập thiền định lâu ngày,
Mirathi có một số năng lực đặc biệt. Học trò của Mirathi kể là ông có thể đứng
trên không và xuất hiện một lúc ở nhiều nơi khác nhau. Ông có tài đọc ý nghĩ
của người khác, kể tiền kiếp của người ta ra hoặc đoán biết những gì sắp xảy
ra.Mirathi kiên trì giữ qui định của tu sĩ Phật giáo là bất bạo động, ăn chay
trường. Sau buổi trưa Mirathi không ăn bất cứ thứ gì nữa cho đến sang ngày hôm
sau.
Một ngày nọ
Mirathi nhóm bếp trong túp lều của mình và đổ vào đó các loại đất đỏ, đất vàng
để làm màu nhuộm áo. Vị tu sĩ già đang ngồi khuấy nồi nước thì có một đám nông
dân đi qua, tìm hỏi một con bò chạy lạc.Một nông dân nhìn nồi nước và la lên:
“Bây có thấy mấy miếng thịt đỏ, thịt vàng này không. Tên già này đã bắt
con bò làm thịt và đang nấu nồi súp”.Các nông dân khác không cần hỏi dài dòng,
chụp đầu Mirathi đang im lặng không nói lời nào và lôi cổ ông về làng.Vị liên
trưởng trong làng kết tội Mirathi ngay đêm hôm đó, không cần biết đầu đuôi.
Người tu sĩ bị xiềng hai chân, nhốt trong căn hầm tối tăm. Mặc dù học trò của
Mirathi kêu oan nhưng người ta vẫn xem là có tội, vì ông không nói lời gì minh
oan, rõ là một sự thú nhận.
Vài ngày sau,
một kẻ chăn trừu tìm được con bò bị thất lạc. Một đám đông ồn ào lập tức tới
nhà niên trưởng đòi thả ngay Mirathi. Vị niên trưởng né tránh trách nhiệm, giao
cho cấp dưới thi hành và cấp dưới cho rằng không phải trách nhiệm của mình rồi
lại giao cho người thứ ba, thứ tư. Cứ thế mà không ai giải quyết cả.Mirathi cứ
chịu cảnh tù ngục như thế, các đệ tử nộp đơn kiện đến nhà vua. Sáu tháng sau,
một học trò mới gặp được nhà vua và trình bày sự tình, một người vô tội bị giam
giữ vì không người nào thấy có trách nhiệm thả ra.Nhà vua hoảng sợ khi nghe câu
chuyện, vì ông là người tin nơi luật nhân quả mà người Ấn Độ gọi là “Karma”.
Ông tưởng tượng một vị tu sĩ ngồi tù oan ức, thậm chí chết oan và các người có
liên quan phải nhận lãnh hậu quả trăm lần. Vương quốc của ông chắc là phải chịu
thiên tai bệnh tật. Ngay tức khắc vua ra lệnh thả vị tu sĩ và đưa về kinh
đô.Mirathi gầy mòn chỉ còn bộ xương, được hai người học trò dìu tới trước mặt
vua. Vua đã cho để sẵn ghế ngồi để tu sĩ không quì trước mặt mình. Vua hỏi:
“Làm sao chúng ta có thể chuộc lại nỗi lầm này? Làm sao ta có thể xin ngài
tha thứ cho? Hay ta cho tất cả những người liên quan đều chịu lại hình phạt
này?”
“Không”,
Mirathi đáp bằng giọng nói chắc chắn, “Xin ngài đừng trừng phạt ai cả. Tôi phải
chịu trách nhiệm về cái khổ của tôi và tôi vui lòng chịu đựng. Không ai trốn
khỏi nghiệp đuợc cả. Và như ngài biết, khổ chính là kết quả tất nhiên của những
hành động sai trái”.Nhà vua ngạc nhiên hỏi: “Tại sao một tu sĩ cao thượng như ngài
mà còn chịu khổ?”Mirathi giải thích với quần thần rằng, trong một kiếp xa xưa,
ông là một tên gây nhiều tội nghiệt. Đặc biệt có một lần ông ăn trộm một con
bò. Bị dân làng đuổi theo, ông chạy vào sân của một ông già, để bò lại đó và
trốn thoát. Ông già bị lên án và bị giam đói sáu ngày liền.
“Vô số đời sống
đã trôi qua từ đó”, Mirathi nói, “vô số lần tái sinh đã để ta trả món nợ này.
Nhưng chỉ đến đời này, ta mới lấy được vị trí của ông già nọ và để tự mình sống
được cái cảm giác vô tội mà bị kết án thì như thế nào. Ác nghiệp của ta như thế
đã xong và ta không có gì hơn là lòng biết ơn sâu xa đối với các người liên
quan và không bao giờ có cảm giác hận thù ai”.
Nói xong,
Mirathi cúi đầu chào và trở lại khu rừng mà cách đó sáu tháng người ta đã bắt
ông. Sau đó ông trở thành A-la-hán, là người đã vượt qua tác động của nghiệp và
là người không phải thực hiện điều gì trên cõi đời này nữa.
32. Hai tên quỉ
Ngày xưa có hai
người Bà-la-môn, bên ngoài trông rất thánh thiện nhưng thực tế lại bị tham dục
và giận giữ chi phối rất nhiều. Một người tên là Pana, người kia là Nava, cả
hai sống tại Ma-kiệt-đà(Magadha) Ấn Độ, chỉ vài trăm năm sau Phật Cồ-đàm.
Hai người này
ngày càng lộng hành, càng có thế lực và ham thích quyền lực, cả xứ Ma-kiệt-đà
ai cũng sợ hãi. Họ là tác giả của nhiều vụ cướp của, giết người và tra tấn,
chiếm đoạt của cải. Mãi đến khi quân lính của nhà vua bắt được và tống giam hai
tên này vào ngục thì dân chúng trong vùng mới thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu xây
dựng lại cuộc sống.Dần dần ngưòi ta quên đi Nava và Pana vì cũng không ai nghĩ
trong ngục thì hai người này làm được gì nữa. Thực tế lại là trong sự cô quạnh
ngực tù, hai người này lại càng rơi vào thế lực đen tối của cái ác và cả hai
đều nguyền rằng sau khi chết sẽ được tái sinh làm quỉ vương Yakscha. Các của
cải trộm cướp được, họ nhờ bộ hạ đem tặng các tu sĩ cao cấp, chỉ với yêu cầu tu
sĩ đó cầu nguyện cho người tặng. “Mong thay các vị biếu quà này được toại
nguyện, dù tôi không biết đến các vị đó”.
Cầu sao thì
được nấy. Pana và Nava chết trong ngục và thần thức của họ đi vào thế giới ma
quỉ. Bây giờ, đối với nạn nhân của họ, hai tên này trở thành vô hình vô ảnh,
tác hại của nó mới là ghê gớm. Không còn bị thế giới vật chất chi phối, hai quỉ
vương này đi vào từng nhà tại Ma-kiệt-đà, ra lệnh vào những đầu óc chịu nghe và
bắt đầu kích thích dục vọng của dân chúng. Không bao lâu sau, Pana và Nava gây
ra một bệnh dịch tại đó và tìm mọi cách buộc những người có đức hạnh phải ra
đi.Tình hình cứ kéo dài như thế cho đến lúc một kẻ biết nhìn ra sự việc và
nguyên nhân mọi suy đồi trong nước và báo cho vị đạo sư giác ngộ Savanasika. Savanasika
là tổ thứ ba của Phật giáo, lúc đó đã già, nhưng ngài liền lên đường đến
Ma-kiệt-đà, ngồi thiền quán trong thế liên hoa ở một hang núi mà hai vị quỉ
vương này hay lui tới và vận dụng thần thông gọi họ đến.Hai vị này không để đợi
lâu. Từ xa họ đã cảm giác hào quang của vị đạo sư, họ không thích thú lắm nhưng
không có cách nào khác hơn là phải đến. Càng tới gần họ càng cảm thấy căm ghét
và muốn ra sức đấu với thứ ánh sáng này, ánh sáng xuất phát từ Savanasika. Với
một đối thủ này, họ có cảm giác chưa hề gặp.
Trước hang núi,
hai vị quỉ dừng lại, vận dụng năng lực của căm ghét lên hang và tác động cho
trần hang đổ xuống đầu vị đạo sư.Savanasika vẫn an nhiên bất hoại trước hang
động đổ vỡ và toát ra sự từ ái của chính tri kiến vô thượng. Hai vị quỉ đâm ra
lo sợ, vận dụng sức công phá thêm một lần nữa rồi lần nữa nhung vị đạo sư vẫn
ngồi yên giữa đá sỏi bay mịt mù.Hai vị quỉ đốt lửa, ném thẳng vào vị đạo sư một
thân cây cháy hừng. Thay vì rút lui, Savanasika cho khắp nơi đều biến thành
biển lửa và gọi lớn: “Tự tính vốn không lay chuyển: không bị lực nào phá
huỷ, không lửa nào đốt cháy, không vật nào ngăn ngại”.Nhưng đó là tự tính,
còn Pana và Nava cảm giác đau đớn vì lửa, lửa đang đốt cháy thân họ, nóng gấp
trăm lần lúc trước, mỗi giây dài như một kiếp. Họ bò lết van xin Savanasika, thú
nhận tội lỗi của mình và xin ngài chỉ cho cách thoát khỏi vòng vây hãm của bạo
lực và thù hằn.Trong lúc hai vị quỉ vương phải chịu cái đau đớn mà trước đó họ
thản nhiên gây cho người khác thì biển lửa đã tắt trong chân như. Chân Như đó
không có gì cả mà lại chứa đựng tất cả, từ đó Savanasika đã dùng năng lực của
tư tưởng để lấy ra biển lửa. Sau đó ngài bắt đầu giảng cho hai vị quỉ vương
nguyên lý cơ bản của Pháp và từ phút đó hai vị này theo vị đạo sư của mình như
hai cái bóng biết sám hối.
Như tất cả mọi
hiện tượng thế gian, dạng quỉ sứ của hai vị này một ngày nào cũng sẽ chết đi và
trong phút giây ấy, hai vị đi vào trong một tầng thiền an lạc, trong đó hai vị
cũng không thể lưu trú mãi. Tuy thế, vì hai vị cũng đã trả ác nghiệp một phần,
và vì thành tâm hướng theo ánh sáng nên cuối cùng hai vị cũng được sinh vào một
cõi sáng sủa.
33. Giấc mơ của một vương tử
Tại miền Bắc Ấn
Độ cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm có một vương quốc, do vua Udayi và
hoàng hậu Vajra Devi trị vì. Vua và hoàng hậu có một hoàng tử tên là Vajriputra
(21), là người sẽ kế vị.Vajriputra là một thiếu niên đẹp trai, thông thái và là
con cưng của hoàng tộc. Từ rất sớm, chàng tỏ ra quan tâm tu học tâm linh hơn là
việc cai quản triều đình, là việc mà người ta định trao cho chàng. Mới chín
tuổi, chàng đã đặt những câu hỏi chỉ làm cho người khác nhăn trán và gây phiền
muộn vì không có vị tri thức nào trong triều có thể trả lời trôi chảy.
Rồi như số phận
đưa đẩy, ngày nọ vị A-la-hán Katyayana được mời vào hoàng cung giảng pháp. Cậu
thiếu niên Vajriputra chỉ vừa nghe giọng nói đã xin vị A-la-hán nọ làm thầy của
mình.Vua và hoàng hậu đồng ý cho Vajriputra đến Katyayana tu học. Sau thời gian
thử thách, chàng được nhận làm Tăng và thay vì mặc áo lụa, chàng mặc y vàng của
một người tỳ-kheo. Sau đó thầy và người học trò cạo đầu đi tu hành đến một
vương quốc láng giềng. Người ta cho rằng, khi từ bỏ gia đình và sứ xở lên
đường, con người đã đi dược một nửa của đọan đường thánh đạo.
Một buổi sáng
nọ Vajriputra đi một vòng khất thực. Chàng đi qua các nẻo đường nhỏ của kinh đô
nước láng giềng này và gặp một phụ nữ còn trẻ, người này ngoắc chàng đi vào một
cái sân tràn ngập những hoa. Chàng ngần ngừ đi theo. Sau vài bước, chàng đã ở
trong sân cung điện của nhà vua Prakanda, nhưng vì mới đến đây nên chàng không
hề biết. Trên các phiến đá quý, giữa các lùm cây, hoa và tiếng chim hót, các
nàng cung nữ đang giỡn đùa dưới ánh mặt trời ban mai. Thấy một Tăng sĩ trẻ tuổi
khả ái,các nàng bật tiếng cười như ngọc và kêu gọi chàng cùng vào ngồi chơi.Sau
một thời gian khất thực, chàng Tăng sĩ đói bụng được phục vụ đủ các món thượng
vị, được chiều chuộng săn đón và chàng ở lại lâu hơn mức cần thiết. Đối với các
nàng, Vajriputra thấy cũng nên đáp lễ bằng cách giảng vài câu kệ về ý nghĩa
cuộc đời, khuyên nên từ bỏ tính chất phù phiếm của cuộc sống vô thường. Ngay cả
với các câu hỏi đùa giỡn chàng cũng trả lời hết sức nghiêm túc.Trong lúc đó thì
hầu cận nhà vua đã báo cáo các chuyện xảy ra trong vườn. Nhà vua không tin
nhưng thân hành đến xem sự thể. Vua núp dưới vòm cây nhìn vào trong, không có
cung nữ nào để ý cả, nàng nào cũng đang say mê ngắm chàng Tăng sĩ và cái miệng
nói của chàng. Nhà vua tức giận quay lại bảo hầu cận: “Đám cung nữ này thì
ai chúng cũng mê mệt, còn như ta đây minh triết hàng trăm lần mà chúng không hay.
Để rồi xem”. Rồi nhà vua cao giọng: “Tu sĩ mà quây quần với đàn bà con gái
là hư hỏng rồi. Cho nó hai chục hèo may ra tỉnh ngộ”.
Lệnh của nhà
vua lập tức được thi hành. Sau đó Vajriputra bị đuổi ra trước cổng thành, mặt
mày nhăn nhó vì đau và tức. Chàng thề sẽ trả thù, sẽ về ngay quê hương đem quân
đi phá ngay lâu đài của Prakandas thành bình địa.Sau đó chàng về gặp thầy và kể
lại câu chuyện. “Con không thể tiếp tục làm Tăng sĩ”,chàng cương quyết.“Con xin
thầy cho trả lại chiếc y vàng và cho phá mọi hạnh nguyện.”
Katyayana gật
đầu đồng ý nhưng khuyên chàng nên nhẫn nhục, đừng thêm một điều bất hảo bằng
một điều bất hảo khác.”Hãy nhớ đến lời dạy của đức Phật Cồ-đàm”, vị
A-la-hán đọc:
“Vui mừng hay đau khổ
mất mát hay thành công
tủi nhục hay vinh quang
hãy nhận tất cả với lòng bình thản,
không tham cầu cũng không ghét bỏ.
đó là con đường thoát
khỏi vương quốc của ảo giác”.
Chàng hoàng tử
không muốn nghe những điều đó. “Không, con đã quyết”, chàng lầm bầm, “con hứa
hẹn quá nhiều, nếu từ nay chỉ biết bất bạo động và lòng từ bi. Con phải bỏ lời
nguyện này thôi, vì lũ côn đồ phải trả những cái giá kiêu mạn của chúng”.
Katyayana gật
đầu đồng ý, nhưng nhắc chàng rằng trời đã tối. “Con cũng biết, ban đêm đi
rừng thật bất trắc; đợi đến sáng mai hãy về, hãy nhận phước lành của ta rồi sau
đó con muốn làm gì thì làm”.
Vajriputra nghe
lời thầy, nán lại một đêm, mỗi lần nhìn chiếc y vàng dính máu, lòng chàng còn
hậm hực.Trong lúc chàng tu sĩ trẻ tuổi ngủ say, vị A-la-hán từ bi dùng năng lực
trí tuệ chuyển cho chàng một giấc mơ nhiều ý nghĩa. Trong giấc mơ, Vajriputra
thấy mình về nhà và sau khi phụ hoàng mất, chàng được lên ngôi. Chàng động viên
binh sĩ và ra lệnh truy nã kẻ thù, biến lâu đài của Prakandas thành bình địa.
Sự thể lại xảy
ra khác hẳn: chàng thất trận bị cầm tù và bị xử trảm. Một đám đông hò reo chỉ
chực chờ đầu chàng bị chém. Trong phút cuối cùng bỗng chàng thấy sư phụ hiền từ
hiện ra, đầy tuyệt vọng chàng kêu cứu: “Bạch thầy Katyayana, tha tội cho
con, hãy cứu con!”.Chàng sợ hãi tỉnh giấc, thấy thầy ngồi bên cạnh mình an ủi:
“Đừng sợ bất cứ mọi hình ảnh xuất hiện trong đời, con ạ. Tất cả chỉ là một
giấc mơ. Con còn nguyên vẹn cả…”
Bỗng,
Vajriputra nhận ra rằng tất cả mọi hình ảnh vừa rồi lẫn cả những biến cố có
thực ngày hôm qua đều như nhau, chỉ như một cơn ác mộng. Sự sân hận và lòng thù
oán của chàng kéo nhau ra đi, với tri kiến mới lạ đó, chúng biến đi như các đám
mây dưới ánh mặt trời. Chàng cúi đầu ba lần trước vị đại sư, chàng biết rằng
cảm tạ bao nhiêu lần cũng không đủ vị thầy đã dùng linh ảnh ngăn mình đi qua
một quãng đời khác, một quãng đời có lẽ sẽ rất khủng khiếp và sẽ đưa vô số con
người vào khổ ải.Rồi Katyayana đưa học trò mình đi vào chiều sâu của giáo pháp
vô ngã để nhận ra rằng mọi sự không có một bản thể gì riêng biệt đứng đằng sau.
Sau đó Vajriputra giác ngộ và càng thâm hiểu những gì đêm hôm đó mình đã trải
qua.
Về sau,
Vajriputra trở thành một trong mười sáu A-la-hán, là những vị đã truyền chánh
pháp của Phật Cồ-đàm, mà ngày nay chúng ta còn biết ơn. Người Tây Tạng cho
rằng, những ai lòng còn sân hận, đầy thù oán và không biết tha thứ thì hãy nên
cầu vị A-la-hán Vajriputra, vì vị vương tước một thời đầy kiêu mạn này biết
cách xa lánh những tâm thức đó.
34. Milarepa, người ham ngủ
Thỉnh thoảng Milarepa,
người du ca đắc đạo cũng rời cảnh độc cư núi rừng để về làng mạc Tây Tạng. Có
lần ngài ngủ trong một tu viện, và vì ngài trông như một kẻ tu khổ hạnh hoang
dã, không ai biết đến nên các vị Lạt-ma cho ngài nằm trước cửa một phòng nhỏ
của vị Tăng khác. Không ai để ý đến ngài cả.
Trong phòng vị
Tăng sĩ nọ đang nằm, còn Milarepa ngồi trước cửa, nhắm mắt. Vị Tăng nọ thật ra
là kế toán trưởng của tu viện, lo lắng cho thu nhập của tu viện, hôm nay không
ngủ được. Ông đang lo ngày mai bán con bò bao nhiêu tiền để có lời. Trong đầu
ông tính toàn chuyện tiền bạc chi phí, chi li từng bộ phận con bò.Sáng hôm sau
thì xem ra ông đã tính xong, chỉ trừ chưa biết giá cái đuôi bò phải đòi bao
nhiêu mới phải. Ông bực mình, lầm bầm cầu nguyện cho đúng phép, thắp cây đèn mỡ
bò lên, đốt hương trên bàn thờ rồi bước chân ra ngoài, đạp nhằm lên người của
Milarepa.Thấy áo quần của Milarepa, ông lắc đầu nhìn con người đang nằm sóng
soài trên bậc cửa. “Mặt trời lên mỗi lúc một cao, còn ngươi mê ngủ đang nằm
đây, không thiền định cũng chẳng cầu nguyện cho lợi ích tập thể, mà tập thể là
người nuôi dưỡng ngươi”, ông càu nhàu phê bình, “Thế mà ngươi dám nói mình là tu
sĩ ư! Cho và nhận của ngươi là cái gì?”
Milarepa đáp:
“Thường thì ta không ngủ lâu như thế này. Nhưng đêm qua ta chẳng được yên
giấc vì suốt đêm phải tính lời lỗ về con bò, con bò hôm nay phải bỏ mạng vì
ta”.
Vị Tăng nọ kinh
ngạc không nói được lời gì. Mặt đỏ hồng, ông nghiêng người trước Milarepa và
cảm tạ. Ông đã nhận ra đây là một sứ giả của đức Phật, Ngài đã gửi người đó đến
đây để cho ông một bài học quan trọng.
35. Hồ đầy châu báu
Taschi la một
thanh niên thích nghe chuyện. Có lần chàng nghe chuyện gần túp lều nghèo khổ
của mình có một cái hồ chứa đầy vàng bạc châu báu, chàng liền lên đường tìm
kiếm cho biết.Hồ nằm trên núi giữa hai sườn đầy tuyết và rất khó đến. Ngoài ra
người ta còn bảo rằng, có một vị nữ thần canh giữ vàng bạc này. Vị này tu không
thù địch với người nhưng cũng không dễ cho ai lấy đi các thứ đó. Là người tò mò
và gan dạ, chàng sắm một cái túi và lên đường đi kiếm hồ.Chàng leo lên tới hồ
thì cũng vừa đuối sức và vui mừng thấy rằng, hồ này không có màu xanh thẫm như
các hồ khác ở Tây Tạng mà lại có màu vàng rực.
Lòng đầy hy
vọng, chàng leo tới bờ hồ thì vừa có một đám mây đen hiện ra trên mặt hồ thành
hình một nữ thần đáng sợ và lơ lửng trước mặt Taschi.Taschi cũng dự đoán được,
chàng thu hết can đảm gọi lớn: “Nữ thần, ta có thể lấy được bao nhiêu châu
báu của người?” Nữ thần nghiêng người qua lại, phát ra muôn ánh sáng khác nhau
trên mặt hồ. Sau đó vị ấy nói bài kệ khó hiểu: “Người xứng đáng thì nhận
mà không hỏi. Kẻ không xứng đáng thì hỏi mà không nhận”.Taschi trả lời:
“Ta không hiểu người nói, ta chỉ muốn lấy những gì ta thật cần thiết
thôi”.
“Thế thì cứ
lấy, cứ lấy đi rồi hãy thấy”. Sau đó vị nữ thần biến mất trong không gian.
Taschi thò hai
tay vào nước lạnh như băng và không bao lâu đã kiếm được ba thỏi vàng. “Juhu”,
chàng nhảy lên mừng rỡ. Chàng liền cho các thỏi vàng vào túi, đồng thời nghĩ ra
một điều mới. “Lượm vàng ở hồ này thật là khoẻ. Ta khỏi cần phải mang mấy cục
vàng này về mà phải về ngay báo cha ta biết, ông sẽ mang bao bố đến, thậm chí
hai bao bố”. Chàng cất mấy thỏi vàng dưới một cục đá bên bờ hồ rồi lên đường về
nhà.Chàng thuyết phục mãi người cha mới chịu tin, sợ còn khó hơn thuyết phục vị
nữ thần. Nhưng Taschi nói mãi ông cũng nghe và hai cha con leo lên đỉnh núi để
thăm lại hồ lần thứ hai.Tới bờ hồ, vị nữ thần lại hiện ra, lơ lửng trên đầu hai
người. “Ngươi còn muốn gì nữa. Ba thỏi vàng không đủ cho ngươi ư”. Chàng ấp úng
trả lời: “Nhưng, cha tôi muốn thật sự thực sự tận mắt xem thế nào”. Chàng
nhìn quanh thì thấy viên đá và các thỏi vàng hồi trước đã biến mất, chàng hỏi
rụt rè: “Liệu cha tôi xin được ít vàng của người chăng? Bọc vàng của tôi
hồi trước để ở đây không còn, chắc hồ đã lấy lại. Xin người cho chúng tôi mỗi người
được lấy một ít rồi từ nay không bao giờ phải xin điều gì nữa”.
Vị nữ thần nhấc
tay gật đầu đồng ý và biến mất. Hai cha con hiểu ý nhau và bắt đầu mò vàng.Chưa
đầy phút sau, mỗi người trong tay đã lượm được ba thỏi vàng sáng loáng. Họ nhìn
nhau, mắt lấp lánh. Người này nói ra ý tưởng người kia: “Ta cần ít nhất
một con trâu kéo và toàn thể gia đình để chở số lượng vàng này đi, dù chỉ một
nửa. Cái ta đang có chỉ là đồ cỏn con, phải tính một số lượng khác mới đuợc”.
Hai người vứt
ngay túi vào hồ và vội lên đường về nhà. Cả nhà được gọi, phân chia kế hoạch.
Lúc đó trời đã tối chưa thể lên núi ngay được và bây giờ cũng là lúc cả nhà ăn
mừng sắp được một gia sản kếch sù. Tất cả thực phẩm bia rượu để dành đều được
đem ra ăn uống. Cả nhà say sưa bàn kế hoạch tương lai, người cha đem lưỡi cày
gỗ ra đốt, vì ông không bao giờ muốn đi cày nữa.Ngày hôm sau thì ai cũng kêu
than nhức đầu và một lúc sau, cả nhóm mới sửa soạn lên đường leo núi. Ngay con
trâu mới mua hôm qua cũng không chịu đi theo và cuối cùng chạy đi mất. Chưa
hết, trong nhà cãi nhau dữ dội vì việc đi đường nào, cuối cùng chia làm hai
nhóm, một nhóm đi thẳng đường lên núi, nhóm kia đi vòng cho bớt nguy hiểm.
Điều gì xảy ra
thật thì không ai rõ, vì sau đó mỗi người trong nhóm kể một cách khác nhau.
Nhưng điều chung nhất là không ai tìm lại được cái hồ đó cả, và có ai tìm đuợc
thì cũng không còn cái hồ hồi trước với nước trong vắt và các thỏi vàng, với vị
nữ thần, vị chơi trò cút bắt cùng con người.
36. Phép tạo linh ảnh
Tại một ngôi
đền nọ có một đám đông người đang tụ tập để nghe lời khai vị của một vị lạt-ma.
Tại Tây Tạng, những buổi lễ đó có khi được gọi là “điểm đạo” hay “chân truyền”.
Trong buổi lễ đó, người tham dự thường để dưới chân vị đạo sư một tấm khăn
trắng, biểu lộ lòng sẵn sàng đón nhậngiáo pháp. Các giới mộ đạo cũng hay mang
theo thực phẩm hay các pháp khí nghệ thuật. Người ta tin rằng càng sẵn lòng cho
bao nhiêu sẽ đuợc nhận bấy nhiêu. Giữa đám đông có một bà già, tay mang một
kilo mỡ trâu. Bà dự định sẽ mang tặng phẩm này dâng cúng và nhận được phước
lành của vị Lạt-ma ban phát.
Thông thường
thì một buổi lễ chân truyền được chấm dứt bằng một nghi thức, trong đó các vị
chủ lễ rờ đầu của mọi người bằng một bình nuớc thánh. Điều đó biểu tượng truyền
tri kiến của thầy qua trò. Nhưng hôm nay, số lượng người đến quá đông, đến nỗi
Lạt-ma chủ lễ phải đề nghị mọi người tự tạo hình ảnh trong đầu là Lạt-ma đã đặt
bình nước trên đầu mình rồi và như vậy là nghi lễ xem như xong. Phép này đuợc
gọi là phéo “tạo linh ảnh”và thường được Phật giáo Tây Tạng áp dụng trong lúc
hành trì thiền định. Đối với các vị tu sĩ tinh tấn rồi thì thực hành phép này
cũng như hành động đó đã thực tế xảy ra, như trong thế giới thật. Thậm chí một
số vị tu sĩcó thể vận dụng linh ảnh cho người khác thấy được nghe thấy thực
sự.Tất cả các người hiện diện đều nghe lời vị Lạt-ma và tìm cách vận dụng linh
ảnh, xem như vị chủ lễ đã rờ đầu mình bằng bình nước thánh và tri kiến của ngài
đã chảy qua mình. Bà già nọ cũng thế, nhờ tu tập lâu ngày đã tạo được linh ảnh,
đã nhận được trí huệ vượt văn tự và hình thức vào tâm.Sau buổi lễ, các tín đồ
lần lượt đi ngang trước vị Lạt-ma. Đến lượt bà già, bà cầm kilo mỡ trâu trước
mặt và nói bằng một giọng rất trầm như giọng Lạt-ma: “Và đến phiên ngài,
bạch Lạt-ma, ngài hãy tạo linh ảnh trong tâm để nhận kilo mỡ trâu này, mỡ trâu
đang nằm trong tay tôi đây”.
Vị Lạt-ma mỉm
cười, bà già tươi cười cho mỡ trâu vào túi và lên đường về nhà, lòng tràn đầy
hỉ lạc.
37. Lạt-ma tái sinh
Khoảng một trăm
năm sau khi Dodrup Chen thứ nhất thiết lập thư viện mang tên ngài tại Golok thì
người ta khám phá ra một đứa trẻ lên bốn, có rất nhiếu dấu hiệu là Dodrup Chen
tái sinh. Các Lạt-ma cao cấp cho mang đứa trẻ vào tu viện, đặt lên ngai, xem là
vị đạo sư cao cấp nhất. Đồng thời các vị cũng chuẩn bị một buổi lễ ra mắt.
Trong buổi lễ,
mới đầu cậu bé tròn mắt nhìn xung quanh, vì toàn bộ các vị chức sắc đều mang lễ
phục sặc sỡ và tỏ vẻ hết sức cung kính với mình. Trước cặp mắt ngưỡng mộ của
mọi người, bỗng nhiên cậu đứng lên ngai và niệm câu thần chú gọi Guru Rinpoche
(đại đạo sư) với một giọng trẻ con. Sau đó cậu bắt đầu múa, vận dụng mọi
ấn quyết của Mật tông. Khi thấy các vị Lạt-ma đứng hàng đầu nhìn mình bằng cặp
mắt hâm mộ, cậu bỗng sụp mi mắt xuống và ngồi xuống ngai một cách lúng túng.Các
vị Lạt-ma vui mừng hết sức vì chưa bao giờ cậu bé đã tiết lộ cho ai nghe bảy
câu kinh bí mật để gọi Guru Rinpoche, đồng thời không ai còn nghi ngờ gì nữa,
đây là một vị tái sinh của một Lạt-ma đắc đạo. Theo thứ tự, các vị nghiêng mình
ba lần sát đất trước mặt cậu bé, để dưới chân cậu nhang đèn, khăn trắng và tặng
phẩm khác.Sau đó người ta đưa cậu bé đi suốt trong viện. Nhằm thử xem cậu nhớ
lại đến đâu, người ta chỉ để Dodrup Chen là người đầu tiên thành lập ngôi tu
viện, sau đó có hai vị viện trưởng khác, cũng là các vị đắc đạo, đến rồi đi.
Người ta muốn thử xem, liệu cậu bé chính là Dodrup Chen chăng.Nửa chừng cả đoàn
người đến một toà nhà nằm ngay giữa tu viện, một ngôi đền thâm nghiêm được che
bởi các năng lực siêu nhiên. Giữa chính điện luôn luôn có một Tăng sĩ chuyên
đọc tụng các kinh sách truyền lại và tay luôn luôn gõ trống. Đến điện cậu bé
bốn tuổi đi thẳng vào đèn và thân mật ngồi bên cạnh vị Tăng đó. Mọi ngưòi đứng
lại chen chúc nhìn xem từng hành động của cậu bé. Cậu bé chưa biết đọc, biết
viết, tay cầm một cuốn sách tụng niệm, lật từ trang này qua trang khác, dường
như kiếm một điều gì.
Tiếng ồn ào
ngưng bặt và tiếng trống cũng dừng vì bỗng nhiên cậu bé cất tiếng đọc mật chú
từ trong sách đó, mật chú chuyên gọi thần bảo hộ do Dodrup Chen soạn cách đó
khoảng trăm năm. Đặc biệt cậu bé bỏ không đọc vài đoạn của mật chú phức tạp
này.Tất cả mọi người đều vui mừng: như thế tu viện đã tìm lại được người sáng
lập của mình rồi. Nhưng người vui mừng nhất là bậc trưởng lão trong giới
Lạt-ma. Ngài nhớ lại rằng, trong một lần xét lại mật chú, Dodrup Chen đã cho
rằng có một dòng là dư thừa và chính dòng đó đã bị cậu bé bỏ qua không đọc.
Không ai ngạc
nhiên là về sau Dodrup Chen, đạo sư thứ tư của tu viện Golok rất sớm nổi danh
vì cậu bé có khả năng lạ thường như đọc tâm ý người khác, tiên tri và mọi thứ
thần thông khác. Các vị Lạt-ma cũng để cho cậu thực hành các thứ đó. Nhưng với
số tuổi ngày càng lớn, con người đắc đạo đó không còn thích biểu diễn các phép
thần thông và vì thế ngày càng giảm chuyện đó đi.
38. Drukpa Kunley ban
phép cho một bức tranh
Tại Tây Tạng,
khi hoàn thành một tác phẩm nghệ thuật người ta thường nhờ một vị Lạt-ma dùng
gạo ban phép lành và điểm đạo cho bức tranh.
Ngày nọ, có một
bà già tay cầm một bức tranh thanka,lên đưòng đến một tu viện, xin gặp vị viện
chủ để ngài ban pháp cho. Bức tranh trình bày thần bảo hộ Sri Heruka và được
cuốn tròn cho dễ cầm tay.Tu viện nằm trên một ngọn đồi. Bà vừa đi vừa nghĩ,
viện trưởng là một vị đạo cao chức trọng, còn em của ngài là Drukpa Kunley lại
là một Tăng sĩ phiêu bạt, thì lại không được như thế. Vị này sống không nhà,
nhưng không xa tu viện. Vừa nghĩ tới đó thì Drukpa Kunley xuất hiện như một
bóng ma từ sau một tảng đá và đứng trước mặt bà.Drukpa Kunley nói giọng lễ
phép, đó là điều bất ngờ đối với bà, hỏi bà muốn lên tu viện làm gì. “Trên đó
ông anh tôi ngồi như một lãnh chúa với đám tùy tùng”, ông nói, “ngoài ra chẳng
có gì đáng coi trọng cả”.
Ai cũng biết
thái độ của Drukpa Kunley đối vói các định chế tôn giáo rồi, bà già cũng thế.
Bà ngần ngừ, nhưng trước sức mạnh tự nhiên của Drukpa Kunley bà không cưỡng
nổi, nói rõ mục đích của mình, mở bức tranh vẽ Sri Heruka cho xem.“Cái bức
tranh này mà bà muốn ban phép à?”, Drukpa Kunlay hỏi giọng ngớ ngẩn.
“Tất nhiên
rồi”. Bà định nói thêm thì không ngờ người tu sĩ nọ thình lình cởi quần ra tiểu
tiện vào đó. “Đây, một người như ta thì ban phép cho mọi thứ tranh ảnh thế này
đây”. Nói xong, Drukpa Kunley quay người đi mất.Bà già hoảng hồn cuốn bức tranh
quý giá lại và chạy lên núi. Bà tìm gặp ngay viện trưởng và hổn hển kể lại hành
đông kimh khủng của ông em.Viện trưởng cười lớn. Ngài không thể giúp gì được.
Ngài biết cái tôi khác của ngài, thể hiện trong dạng của ông em khác đời. Ngài
biết rõ đứa em phải làm thế, không thể làm khác.
“Hãy mở bức
tranh ra”, ngài nói giọng êm dịu. Bà già nghe lời một cách miễn cưỡng. Và xem
kìa, mặt bức tranh được tô bằng một lớp bụi vàng lóng lánh.“Sri Heruka đã tự
mình ban phép cho bức tranh”, viện trưởng nói. “Bà không cần tôi nữa đâu”.
Bà già xuống
núi, lòng còn chút phân vân. Cuối cùng bà treo bức tranh dát vàng lên trên bàn
thờ trong nhà và về sau bức tranh được dân làng tôn thờ như một pháp khí.
39. Cái nhìn xấu ác
Có một ngưòi
rút vào rừng núi miền Đông Tây Tạng để thực hành phép tu viễn ly. Người Tây
Tạng gọi phép tu đó là Chod (23) có nghĩa là “cắt đứt” vì mục đích của phép này
là cắt đứt mọi tư tưởng quán chiếu sai lầm, thứ tư tưởng chỉ làm che đậy thể
tánh trong sáng của tâm thức.
Buổi sáng,
người đó rời lều kiếm một tảng đá để thực hành thiền định thì người em gái mang
lại một hũ sữa chua và thực phẩm cho ông. Người em đợi đến buổi tối mà ông ta
chưa về nên đặt bình sữa lại dưới bàn thờ và trở về nhà.Lúc ông tu sĩ nọ về tới
túp lều thì trời đã tối và không thấy gì cả. Sau bàn thờ chỉ có một ngọn đèn mỡ
tí hon, chiếu một cài gì tròn tròn ông chưa bao giờ thấy.“Đó là con mắt của một
con ma”, ông bỗng sợ hãi, nhưng cũng lúc đó ông định thần nói: “Không, tất
cả mọi sắc thể đều là Không và không có thực”. Ông cẩn thận tháo túi đeo vai và
đập lên con mắt, đồng thời lòng tự nhủ kẻ tu phép viễn ly không sợ bất cứ điều
gì ở thế giới này hay thế giới khác.
Bình sữa
nghiêng một bên và sữa chua văng tung toé mọi phía. Sắc trắng của sữa chập chờn
trong ánh sáng mờ mờ như hàng trăm con mắt ma quỉ. Người đó sợ hãi đập loạn xạ,
con mắt ma bây giờ đã dính lên túi sách và lan ra khắp nơi. Người tu sĩ bỗng
nhớ chỉ còn cách “cắt đứt”. Chỉ một thoáng, ông tách lìa ra khỏi tâm thức đang
bị vô minh che phủ, ở đây hiện hành sự sợ hãi và nhận ngay ra tay mình đầy sữa.
Cái nhìn của chính ông đã thay đổi, hết lo sợ và thế giới cũng thay đổi theo.
Ông cười to.
40. Cuộc đua ngựa bí mật
Cách đây khoảng
130 năm có một biến cố bí ẩn xảy ra tại Kham mà ngày nay người ta còn nhắc nhở.
Ngay tại Tây Tạng cũng không dễ gì có chuyện ba vị đạo sư đạo sư đắc đạo cùng
nhau gặp gỡ một nơi mà lại báo cho mọi người biết trước để già trẻ tụ họp tham
gia cuộc vui. Hồi đó có ba người bạn tại Kham, tuy không thuộc trường phái nào,
nhưng lại được tôn kính như các Lạt-ma cao cấp. Người thứ nhất tên gọiKhyentse,
thứ hai là Jamgon Kongtrul (24) và thứ ba là Chogyur Lingpa. Cả ba có chung một
đặc tính là trong mỗi ngưòi đều chứa đựng những kiến giải cao siêu nhất, nhưng
mỗi người lại đều có tính khí khác nhau và một cách riêng để thức tỉnh, giáo hóa
và giúp đỡ người khác.
Một ngày kia
người ta đồn rằng ba người này sẽ tổ chức một cuộc đua ngựa tại bờ sông Derge.
Ai cũng ngạc nhiên về mục đích của trò này nhưng mọi người đều nô nức đến xem,
hy vọng có điều gì lạ.Cuộc đua ngựa được tổ chức thật. Ba vị đạo sư đắc đạo
ngồi trên lưng ngựa, khán giả reo hò, nhưng họ phân vân không biết mình sẽ ủng
hộ ai thắng, hay liệu cuộc đua này chẳng có người thắng kẻ bại. Cuối cùng thì
người ta thấy rằng ngựa của Jamgon Kongtrul về cuối.Mọi người lại cực kì ngạc
nhiên khi thấy kẻ thua cuộc lại khóc ròng vì người đắc đạo ai lại còn quan tâm
đến chuyện được thua, huống hồ là một cuộc đua ngựa. Người ta đoán rằmg có lẽ
Jamgon Kongtrul già nhất trong ba người và tính của ngài cũng rất mềm mỏng vì
vậy mà ngài buồn chăng.Ba ngày sau, Jamgon Kongtrul mới giải thích như sau: “Ta
khóc vì cuộc đua có giá trị tượng trưng. Trong một linh ảnh ta đã được báo
trước là người thua là kẻ chết sau cùng và là kẻ cuối được vào cõi Phật cuả
Liên Hoa Sinh”. Ta sẽ phải sống dài hơn Khyentse vị tha và Chogyur Lingpa vô
song, đó là một điều đáng buồn”.
Đúng như Jamgon
Kongtrul tiên tri, vị Lạt-ma này sống rất cao tuổi, sống rất lâu sau ngày các
bạn kia nhập diệt và phải đợi đến năm 1899 mời được gặp các bạn trong cõi Phật
Liên Hoa Sinh.
41. Nữ thần Tara
Tại Giác Thành,
là nơi Phật Thích-ca thành đạo, có một Tăng sĩ. Vị Tăng sĩ đó có một thành kiến
với Đại thừa Phật giáo, vị ấy xem Đại thừa là một cái gì trừu tượng. Vị ấy hay
giảng giải với các người nghe rằng, Đại thừa hay nói quá nhiều đến vị đại sư
đắc đạo, các vị thánh, các vị hộ pháp…, đến nỗi mất luôn sự tin tưởng. Vị ấy
chủ trương theo Tiểu thừa, khuyên người đời nên từ bỏ hệ thống Đại thừa quá
mênh mông, chỉ làm người ta mất phương hướng.
Như mọi người
đếu nghĩ, quan điểm nào cũng phải được thử thách và quan điểm của vị ấy cũng
thế. Một ngày nọ, lúc tắm tại sông Ni-liên-thuyền, vị ấy bị nước cuốn trôi. Vị
ấy chới với giữa dòng không biết làm sao thì trong đầu bỗng nhớ đến một vị nữ
thần trong Đại thừa là Tara (26). Trồi lên ngụp xuống trong dòng nước, vị ấy chỉ
còn biết kêu cứu Tara. Đến lúc hầu như tuyệt vọng thì vị ấy bỗng thấy một tượng
gỗ chiên đàn khổng lồ trôi bên cạnh. Tượng này vị ấy đã nhiều lần trông thấy và
cũng đã hít thở mùi thơm của gỗ chiên đàn. Tượng biểu trưng thần Tara như là
người cứu giúp các tâm hồn đang trôi dạt trong biển cả của ảo giác. Vị tu sĩ
này biết rõ như thế vì chính ông là người cũng từng chê cười quan điểm bức
tượng.Bây giờ vị tu sĩ ôm chặt bức tượng và giữ đầu được cao trên mặt nước để rồi
dòng sông xua dạt ông vào một bờ yên tĩnh.Cả vài tiếng đồng hồ sau vị tu sĩ vẫn còn nằm nơi
đó. Sông Ni-liên-thuyền đã kéo rách mất chiếc y vàng. Loã thân và run lẩy bẩy,
người tu sĩ tiểu thừa ôm chặt bức tượng gỗ thần Tara như một đứa trẻ con ôm mẹ.
Tất nhiên sau
đó người tu sĩ bênh vực cho quan điểm Đại thừa, trong đó mọi mức tâm linh đều
được coi trọng, kể cả mức tin tưởng nơi sức cứu độ của tượng thần linh.
42. Lời khuyên của
một bà già
Jigten Sumgon
là một nhà thông thái nổi danh vào thế kỷ 12. Ông nổi danh vì đã vượt qua mọi
kiến thức và lý luận của mình để tìm sự thật nằm ẩn giấu sau mọi ngôn từ và
khái niệm. Ông truyền bá giáo pháp Đại Ấn Quyết tại Tây Tạng và là người phát
khởi một dòng truyền tâm, trong đó sản sinh vô số vị đắc đạo.
Lần đó, Jigten
Sumgon đang ở nhà nơi miền đông Tây Tạng, thì bên nhà láng giềng có người chồng
vừa chết. Người góa phụ khóc lóc chạy kiếm Jigten Sumgon nhờ an ủi và giúp
đỡ.Người góa phụ mới đầu chưa gặp ông, gặp bà mẹ trước. ‘Ngồi xuống đây đã’,
người mẹ an ủi người góa phụ trong bếp và nói tiếp: “Con đau khổ cũng phải,
nhưng không cần thiết phải thế. Tất cả cái gì đã sinh thành thì cũng có ngày
tan rã, hoại diệt và trở về với nguồn gốc của chúng. Cái chết thì không ai
tránh khỏi, mọi sự đều vô thường. Hiểu được như thế cũng là may mắn lắm”.
Góa phụ nọ vẫn
không ngừng than khóc, bứt tóc bứt tai. Bà mẹ Jigten Sumgon lại tiếp tục dỗ
dành: “Nghe đây, cứ khóc đi, cứ bứt tóc đi, nhưng sau đó con phải biết
nghĩ và bớt buồn đi. Đừng quên rằng ngay cả tâm trạng buồn khổ này cũng vô
thường, chẳng có thực thể như mây như gió, và nó cũng sẽ vơi đi như mọi thứ
trên đời. Ta là một bà già và cũng đã buồn đã khổ, đã thấy nhiều người thân đến
đó rồi đi đó. Lời khuyên của ta cho con là: “đừng mang vào lòng bất cứ cái
gì cả”.
Nghe tới đây
thì người thiếu phụ thấy có gì an ổn trong lòng đang chồng chất. Nàng quên rằng
tới nhà này là để kiếm Jigten Sumgon, để nghe lời an ủi của ông. Nàng trở về
nhà, lòng bình yên. Trong suốt tang lễ, nàng vẫn nhớ hoài đến lời khuyên của bà
già và nhờ thế vượt qua được nỗi đau mất chồng, không phải bị dìm trong đau đớn
và tuyệt vọng. Cả làng thấy rõ, nàng bình tĩnh hơn, biết nghĩ hơn cả lúc chồng
còn sống và chẳng bao lâu sau, nhiều người tìm đến nàng để nghe khuyên lơn khi
có chuyện đau buồn.
Nửa năm sau,
Jigten Sumgon đi miền Trung Tây Tạng để tiếp tục giáo hóa phép Đại Ấn Quyết, đó
là phép trực tiếp tri kiến Phật tính đang ẩn chứa trong chính chúng ta. Ngài có
một số đệ tử cao cấp và đang thảo luận về “vòng luân hồi”, về vòng tròn bất tận
của sống, chết và sự tái sinh. Một Lạt-ma già thông thái hỏi vị đạo sư: “Làm
sao tránh được cách nghĩ phải thoát khỏi vòng luân hồi trước khi đi vào cõi
Niết-bàn?” Jigten Sumgon bất ngờ đứng dậy và đọc bài kệ:
“Ta đang hiện
diện, hòa hợp vô ngại
Vì ta nhận ra
rằng từ tính mình hòa làm một,
Với Phật và các
đạo sư.
Ta hoan hỉ.
Chẳng cần phải
cố,
Tôn thờ hay xác
quyết bất cứ điều gì.
Như kinh
Hevajra Tantra đã nói:
“Luân hồi hay Niết-bàn,
Tốt hay xấu,
bên này hay bên kia,
Chúng đều không
thật, chẳng có tự ngã, nói là nói vậy thôi
Chỉ vì nói mặt
này nên nói mặt kia
Chứ các bạn
không thấy hay sao?
Ai thấy tánh
của luân hồi
Người ấy đã đạt
Niết-bàn.”
Ngày hôm sau
Jigten Sumgon nhắc lại buổi trao đổi này và kể cho học trò nghe lời khuyên của
mẹ mình đối với người góa phụ. Ngài nói: “Đối với tôi, chẳng có giáo pháp
nào cao hơn lời nói của bà mẹ: “Hãy nhận ra tính vô thường của sự vật, thấy
chúng không có tự ngã và đừng mang bất cứ thứ gì vào lòng cả.”
43. Tri kiến của một
vị A-la-hán
Tu sĩ khất thực
Katyayana là một học trò của Phật Cồ-đàm, sống khoảng 500 năm trước Công nguyên.
Katyayans được chính Phật Cồ-đàm điểm đạo và trong suốt thời tại thế được xem
là một vị “A-la-hán tự tại”, nổi danh khắp Ấn Độ như một minh triết, đã vượt
qua sống chết và không còn ảo giác. Cũng như các vị giác ngộ khác, Katyayana có
nhiều thần thông, nhưng ngài chỉ dùng nó để giáo hóa và không hề cho những
người khác biết đến. Người ta kể rằng, ngài có thể biến tư tưởng hay sự mong
cầu thành vật chất. Thay vì theo danh lợi thế gian, ngài thích đi đây đi đó,
không hay ai biết và sống bằng của dư thừa, như các vị đạo sư trước ngài.
Có lần, trong
chuyến đi, ngài gặp một người đàn bà đang ngồi trước cửa và đang ăn một con cá.
Người đàn bà nọ mang một đứa trẻ sơ sinh trong tay, có một con chó đi vòng xung
quanh, gặm các miếng xương cá bà vứt cho. Nhưng con chó còn thèm ăn cứ luẩn
quẩn mãi khiến bà bực mình đạp chó.Nhìn cảnh tượng này, vị A-la-hán khả kính
không nhịn được phải cười. Người đàn bà nhăn trán hỏi: “Thầy có gì vui mà
cười?” Bà có cảm giác vị Tăng sĩ này có gì muốn nhắn nhủ bà điều gì. Katyayana
trả lời bằng cách đọc bài kệ:
“Ngươi ngồi đó
và gặm xương cha ngươi,
Và đạp mẹ ngươi
ra một bên
Và nuôi kẻ thù
bằng sữa của ngươi.
Ôi, một cảnh
tượng bi đát
Cái đó sẽ đẩy
trò chơi bất tận này đến bao giờ
Trò chơi của
các loài hữu tình”.
Vị A-la-hán đã
nhìn thấy bằng huệ nhãn rằng đứa trẻ là tái sinh của kẻ thù ngày xưa của người
đàn bà. Con cá chính là người cha trong kiếp trước và con chó không ai khác hơn
là bà mẹ vừa mất cách đó không lâu, mà người đàn bà còn thương nhớ. Bà không hề
biết mình gặm thịt cha mình và vứt xương nuôi mẹ mình, trong khi đó lại sinh ra
đời một kẻ mà ngày trước mình ghét bỏ.
Liệu người đàn
bà có học được điều gì qua bài kệ đó, câu chuyện không kể thêm, nhưng Katyayana
đã kể chuyện này cho học trò nghe nhiều lần và chuyện kể rằng nhiều vị đã thoát
khỏi vòng sinh tử.
44. Trí huệ cũng có
thể “lây truyền”
Vùng Kham tại
miền Đông Tây Tạng cách đây không lâu chỉ là một nơi hoang dã. Nơi đó chỉ một
số rất ít người sống, thỉnh thoảng lại đánh nhau đổ máu là chuyện bình thường.
Nghịch lý thay, chỗ này vừa là nơi vũ lực trị vì, đồng thời cũng là một trung
tâm của phát triển tâm linh, vì giữa sự yên lặng bao la của Hi-mã-lạp sơn thì
ai cũng dễ rơi vào trạng thái đại định.
Patrul
Rinpoche, một vị đại sư của dòng Đại Thành hay đến vùng Kham này. Trên vùng núi
non Markong, ngài ngồi thiền định, giữa các con đường trơ trọi, ở chỗ nối cuả
hai bình nguyên,vì vậy đúng ngay nơi này cũng là nơi các bộ lạc thường đánh
nhau.Lần nọ, vị đạo sư định đi du hành suốt vùng, nhưng ngài bỗng cảm nhận được
sự nóng bức của một năng lực hủy hoại, hai bình nguyên và các đỉnh núi xung
quanh hầu như bị nhiễm độc vì vậy ngài quyết định đem tâm thức an tịnh của mình
thể nhập vào các năng lực sân hận đó và xem cuối cùng điều gì xảy ra.Patrul đốt
một đống lửa nhỏ trên đường đi, nấu trà, ăn một ít thực phẩm đi đường và lúc
cảm nhận có ai sắp đến, ngài liền nằm ngang đường để ai muốn đi qua đều phải
bước qua thân ngài.Không bao lâu cả hai phe đều nghe tin có một tên khùng nằm
ngay trên đường và xem ra có vẻ muốn làm nhà ở lâu tại đó. Ba người kỵ mã mang
đầy vũ khí được ra lệnh tới đường đèo đó, trừ khử tên khùng đó đi.Patrul vừa
nhóm lửa và nằm dài ra thì ba kỵ mã vừa tới. Họ nhảy xuống ngựa: “Ngươi
điên chưa, hay ngươi bị ốm hay ngươi bị cùi? Ngươi nằm giữa đường như thế để
truyền bệnh cho người khác chăng?”
“Đừng lo”,
Rinpoche trả lời, mắt nheo nheo. “Như ta thấy thì các ngươi sẽ không được
truyền. Ta đang ở trong tình trạng Bodhicitta (Bồ-đề tâm) và thứ này thì không
truyền được cho quân đánh nhau như các ngươi đâu”.
Ba kỵ mã lắc
đầu nhảy lên ngựa đi mất. Họ cũng thấy không thể gây đau đớm cho một lão áo
quần rách rưới nhưng tốt bụng.Rồi như một phép lạ xảy ra, hiềm khích hàng chục
năm giữa hai bộ lạc vùng Markhong bỗng nhiên được giải tỏa bằng một hiệp ước hòa
bình, trước đó không ai dám mơ tới. Người ta kể rằng ba chàng kỵ mã đó được lão
già phiêu bạt đắc đạo nọ “lây truyền “cho tâm Bồ-tát và cứ gặp ai lại lây
truyền tiếp thứ “vi khuẩn” đó.Không ai gặp lại người đã lây truyền “vi khuẩn hòa
bình” đó nữa. Nhưng người ta kể rằng, ngày sau, Patrul Rinpoche, trong
buổi hội họp với đông đảo những người tầm đạo, có nói: “Không chừng Bồ-đề
tâm cũng có thể lây truyền, mặc dù ta phải thừa nhận rằng triệu chứng của Bồ-đề
tâm ít khi được phát ra trọn vẹn”.Người nghe biết rõ Patrul nói ý gì với từ
“triệu chứng”: đó là tâm cảm thông và yêu thương, tâm đó nhận ra chính
trái tim mình trong trái tim của mọi loài.
Sau đó Patrul
Rinpoche chấm dứt câu chuyện bằng lời cầu nguyện: “Mong thay Bồ-đề tâm vô
lượng sẽ được lây truyền cho mọi loài, không sót loài nào”.
45. Chấm dứt một
kiếp làm quỷ
Không xa vùng
Nyarong có một thành cổ. Không ai dám tới vùng nơi đó vì giữa ban ngày mà người
ta vẫn nghe rõ tiếng ma quỷ kêu van.Patrul Rinpoche có dịp đi ngang Nyatong,
nghe chuyện đó liền cho rằng loài quỷ này có thể được giải thoát nếu có ai dám
vào thành và tụng đọc bộ luận Bồ-đề hành kinh (Bodhicharyavatara) của Tịch
Thiên (15) (Shantideva) một trăm lần.Tập Bồ-đề hành kinh (27) là một bộ luận
bằng tiếng Sanskrit, thường chỉ dành cho các bậc tôn túc cao cấp. Vào thế kỷ
thứ 19, Patrul Rinpoche giảng giải thêm về bộ này một cách rõ ràng và súc tích
làm nhiều người cho rằng Patrul phải là một hậu thân của Tịch Thiên.
Một học trò của
Patrul là một Lạt-ma trẻ tuổi tên Tsanyak Sherab xin đi và nói: “Con xin
vào thành và đọc cho ma quỉ nghe bộ Bồ-đề hành kinh, cho tới lúc họ được giải
thoát mọi ác kiến”. Dân làng nghe nói đều lắc đầu và khuyên vị Lạt-ma không nên
đi, người ta lo ngại cho tính mạng của vị này vì chưa ai vào thành ra mà lại
không bị nguy hại. Thế nhưng Sherab không lo sợ gì cả.Sau khi vào thành,
Tsanyak Sherab trải tấm chiếu trong một phòng trống và ngồi trên đó. Sau đó ông
bắt đầu tỏa lòng từ bi và nhân hậu ra xung quanh. Ông thiền quán về tính Không,
là thể tánh tạo nên mọi hiện tượng và bắt đầu đọc lớn mười chương của tập Bồ-đề
hành kinh.Ngày này qua ngày khác ông đọc tập luận. Thỉnh thoảng ông đốt chút
lửa ấm để nấu cơm nước. Mỗi khi dân làng thấy có khói bốc lên từ xa, họ lại vui
mừng bảo nhau: “May thay, ông Sherab to gan cũng còn sống”, vì họ nghĩ là không
ai thoát khỏi tay của ma quỷ.
Một ngày nọ, có
một tay liều lĩnh nhất làng thu hết can đảm đến thành cổ để xem vị Lạt-ma và
các thính giả vô hình bây giờ thế nào rồi.Anh chàng nọ ngạc nhiên hết sức khi
thấy Sherab ngồi an tịnh trên chiếu và tập trung nói chuyện với vách tường cổ.
Thấy thế, người nọ cũng tìm một góc ngồi nghe. Sau khi về lại mhà, người nọ kể
cho dân làng nghe chuyện và không bao lâu sau, dân làng kéo nhau từng nhóm đến
thành cổ nọ để nghe tụng Bồ-đề hành kinh. Tới lúc Tsanyak Sherab đọc lần thứ
một trăm xong thì toàn thể dân làng ngồi im lặng như tờ nghe tập luận.
Như một phép lạ
xảy ra, từ đó dân làng không còn nghe tiếng ma quỷ kêu van. Ngược lại, nhiều
người tập hợp trong thành cổ để cầu nguyện, để tu tập thiền định và để cảm nhận
năng lực của Patrul- Tịch Thiên. Họ cảm nhận năng lực đó một cách rõ ràng, như
vị đạo sư đang hiện diện đâu đây.
46. Con lừa tụng to
nhất
Hàng chục Tăng
sĩTây Tạng họp nhau trong một tu viện, đánh chuông và liên tục tụng niệm. Vị
chủ lễ đầu mang vương miện kết bằng lông chim, mặc y đỏ viền vàng. Tất cả các
vị ngồi trên thảm quý, tay cầm các pháp khí nạm vàng rực rỡ. Lúc đó thì Drukpa
Kunleyđẩy cửa bước vào.Không ai ngạc nhiên gì khi thấy vị đạo sư khác đời này
đi vào mà không chịu nghiêng mình sát đất ba lần như lệ thường, nhưng mọi người
đều lo chuyện chẳng lành xảy ra khi thấy ngài ngồi ngay giữa phòng và nghiêng
tai nghe ngóng điều gì.
Các vị Tăng
tiếp tục nghi lễ có vẻ hoang mang, tiếng tụng Kinh có chút lơi lỏng. Dù sao,
đây là một dịp để tập tính nhẫn nhục và cần đối xử với kẻ phá bĩnh này một cách
cố tình.Sau khi ngồi nghe một lúc, Drukpa Kunley đứng dậy, lầm bầm ra cửa. Liệu ngài
đã nghe tụng xong rồi hay ngài lầm bầm mật chú gì, dù sao nếu ngài cùng lầm bầm
tụng niệm thì vẫn hơn. Ngưòi ta vừa hy vọng ngài đi đâu cho xong thì mười phút
sau Drukpa Kunley trở lại và lần này ngài dắt theo một con lừa.Bây giờ thì các Tăng sĩ hầu như không tập
trung tụng niệm được nữa. Vị Lạt-ma kì cục đó không những chỉ dắt một con lừa
vào chính điện mà còn đội cho con lừa một cái vương miện kết bằng lông chim,
rồi dắt đến cho vị chủ lễ, cả hai có chung một vương niệm giống nhau.Tất cả mọi người
đều cố không nhìn, Drukpa Kunley dắt con lừa đến bên cạnh vị chủ lễ bắt nó quỳ
xuống. Vị chủ lễ vẫn giữ tâm an tịnh va tiếp tục tụng niệm. Drukpa Kunley bắt
đầu đá vào hông con lừa cho nó kêu lên, gần như theo nhịp tụng niệm.
Cuối cùng chịu
không nổi, các Tăng sĩ cho ôm Drukpa Kunley đang cười ngặt nghẽo vứt ra ngoài
điện với con lừa, để còn tiếp tục buổi lễ, thứ lễ lạt mà vị Lạt-ma khác người
đó không coi ra gì.
47. Giáo pháp tuyệt
vời của Tịch Thiên
Tịch Thiên là
một vương tử, sống cách đây khoảng 1200 năm tại Ấn độ. Xứ Ấn Độ ngày xưa gồm có
nhiều vương quốc nhỏ, trị vì theo cách cha truyền con nối. Vì thế, nếu có vị
vương tước nào từ chối ngôi vua, theo sống độc cư, thực hành thiền định thì đó
cũng là chuyện hi hữu.
Từ nhỏ, Tịch
Thiên đã nằm mơ thấy nữ thần Tara hiện đến và khuyên không nên đem trí tuệ của
mình áp dụng vào chuyện không đâu, đừng để cho cái chết đến mà không giác ngộ.
Trong đêm trước khi Tịch Thiên được tôn vương thì Bồ-tátVăn-thù (16), hiện thân
của trí tuệ hiện đến và nhắc nhở lại điều này. Sau đó Tịch Thiên từ ngôi, vào
rừng sống như một tu sĩ và thực hành thiền định.Sau nhiều năm sống độc
cư, Tịch Thiên về đại học Na-lan-đà (28) ở Bihar và thệ nguyện giữ hạnh Tăng sĩ
tại đó. Ngài không ưa gần gũi sinh viên và hay rút về căn phòng của mình. Tại
đó, bạn đồng học và thầy giáo khám phá ra ngài ăn mỗi ngày năm bữa cơm.Không
bao lâu sau, người ta đặt tên ngài là “Busuku”, dịch nguyên nghĩa là “kẻ chỉ
biết ăn, ngủ và ỉa”. Ngài còn bị đặt thêm những cái tên như “bị gạo”, vì thực
tế ngài có vẻ lơ là, lười nói. Như bao nhiêu trường hợp khác, không mấy ai biết
trong chàng thanh niên này đang diễn ra điều gì.Thậm chí nhiều bạn đồng học của
Tịch Thiên cho rằng ngài làm hại thanh danh của viện và tìm cách đuổi chàng
khỏi trường. Họ họp nhau bầy ra mưu kế như sau: trong một buổi hội thảo công
khai, mỗi sinh viên phải đọc thuộc lòng một bài Kinh. Trong đó chắc chắn Tịch
Thiên không thuộc bài nào, thế nào ngài cũng phải bỏ trường mà đi.Mới đầu Tịch Thiên không chịu tham gia
buổi hội thảo. Cuối cùng thấy liệu không tránh khỏi, ngài chịu dự với điều
kiện: Ngài phải ngồi trên một ngai chỉ dành riêng cho các vị đạo sư hay ngồi.
Bạn đồng học đều ngạc nhiên trước đòi hỏi vô lý này nhưng họ nghĩ rằng như thế
sau đó sẽ càng làm chàng thêm xấu hổ, nên họ đồng ý.
Tới ngày hội
thảo ngài mạnh dạn đi lên ngai, ngồi xuống với dáng điệu của một vị vương tước
và hỏi các vị thông thái trong hội thảo muốn nghe lại các Kinh điển cũ hay một
giáo pháp hoàn toàn mới.Các bạn đồng học kinh ngạc, nhưng họ đồng ý nghe cái gì
mới mẻ và hy vọng như thế càng làm cho chàng sai trái hơn.Sau đó Tịch Thiên bắt
đầu niệm danh hiệu của chư Phật, chưBồ-tát trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị
lai, với một giọng niệm thi vị tuyệt vời. Sau khi niệm Tịch Thiên hầu như trở
thành chư Phật ba đời, ngài thuyết liên tục và văn chương tuôn ra như có âm
điệu trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Đó là tác phẩm Bồ-đề hành kinhvô song, còn
truyền lại cho đến ngày nay.Tịch
Thiên vừa giảng đến chương thứ chín, nội dung nói vế tính chất vô ngã của toàn
bộ sự vật thì bỗng nhiên thân ngài hầu như mất hết sức nặng và lơ lửng trên
ngai. Sau một lúc thì thân ngài biến mất và hội chúng chỉ còn nghe tiếng nói,
nghe âm điệu du dương và chấm dứt tác phẩm với mười chương.Tất cả mọi người
bây giờ mới biết Tịch Thiên là một vị Phật và lúc nầy biểu lộ lòng kính trọng
thì ngài đã biến mất và không còn trở lại Na-lan-đà nữa. Bạn đồng hành của Tịch
Thiên đã đạt được mục đích của mình, nhưng họ hối tiếc xiết bao. Họ tìm lại
trong phòng ngài thì chỉ thấy hai cuộn Kinh, hai cuộn này cũng còn lưu truyền
tới ngày nay.
Ngày nay người
ta xem Tịch Thiên, người như một con sư tử, là một vị đắc đạo nhất của đạo
Phật. Tác phẩm Bồ-đề hành kinh của ngài ngày nay vẫn còn được nghiên cứu và
đuợc nhiều kẻ tầm đạo trên khắp thế giới học thuộc lòng.
48. Tu sĩ với cái
mũi kỳ quặc
Ngày xưa có một
người suốt ngày chăn bò ngoài đồng cỏ. Trong lúc đó thì cả gia đình chăm chỉ
học tập Kinh điển với một vị Lạt-ma. Mọi người gọi kẻ chăn bò đó là “mũi
trái rạ”, vì lẽ hồi nhỏ ông bị bệnh trái rạ và cái mũi ngày nay còn đỏ hồng, có
sẹo.
Mọi người đều
cho là ông kém thông minh, nhưng ông luôn hỏi xem gia đình học được nơi vị
Lạt-ma nọ những gì, vị Lạt-ma làm gì nói gì. Thường thì lời nói của ông bị gạt
qua một bên, người ta nói rằng đó là “Mật giáo”, không phải ai cũng được biết.
Có lúc ông hỏi: “Mọi người học được mấy điều” thì được trả lời: “Chỉ ba điều
thôi, giáo pháp chỉ có ba chữ thôi nhưng chứa đựng tri kiến toàn thế giới.” Cứ thế mà gia
đình xem thường ông. Ai cũng biết ông tha thiết được học để khỏi thua mọi
người, nhưng ai cũng nghĩ đầu óc non kém như ông thì học được cái gì.
Sau mấy năm.
“mũi trái rạ” mới tự nghĩ ra rằng mình phải tự tìm kiếm hiểu biết cho mình, cái
hiểu biết chỉ gồm có ba chữ mà không ai chịu tiết lộ. Kể từ lúc đó ông bắt đầu
tích trữ thực phẩm và tìm cách bí mật trốn đi. Với một bọc đựng thức ăn
đi đường, một đêm nọ, ông trốn đi lên đường tìm vị Lạt-ma, không nói gì với gia
đình cả.“Mũi trái rạ” chẳng biết tên tuổi vị Lạt- ma, chẳng biết ngài ở đâu vì thực
tế ông chưa từng rời nơi chăn bò. Nhưng ông tin chắc rằng, thế nào mình cũng
kiếm ra một vị đạo sư và học được ba chữ đó.Ông đi từ làng này qua làng khác và
giữa đường nghe nói về một nhóm tu sĩ sống trên núi. Các vị này học với một vị
Lạt-ma. Ông liền đi đến đó và cũng được tiếp đón tử tế. Nhưng lúc nghe giảng,
“mũi trái rạ” thấy giáo pháp phức tạp khủng khiếp, không có gì hấp dẫn cả. Vị
Lạt-ma này nói cái gì dài dòng, chỉ những phép tu bí truyền khó hiểu, chỉ mọi
cách để đạt đạo. Trong lúc đó “mũi trái rạ” biết rõ cái quan trọng nhất chỉ gồm
ba chữ, sao không nghe nói tới.Chỉ nghe một lần giảng, ông đã biết tay Lạt-ma
này chỉ là một tên phù thủy và vội vã rút lui. Người hầu cận Lạt-ma thấy “mũi
trái rạ” sắp rút bèn mời ông ở lại thêm một đêm để ngày mai gặp thêm vị Lạt-ma
trưởng nữa. “Thấy chưa,” ông vui vẻ nhận lời, “ngày mai, ta sẽ hỏi vị đạo sư
này về ba chữ đó và tâm ta sẽ yên”.
Mặt trời chưa
kịp lên thì “mũi trái rạ” đã đứng trước vị Lạt-ma đắc đạo rồi và xin được nghe
ba chữ, ba chữ chứa đựng toàn thế giới đó, ba chữ mà các nhà thông thái ai cũng
biết mà không chịu tiết lộ. Vị Lạt-ma nọ biết rõ, đối với người đã chín thì một
chữ cũng đánh thức họ được, đối với người chưa chín thì một trăm kiếp cũng
không. Ông cười thông cảm: “Lòng ham học của con thật đáng quý trọng, nhưng con
nghe sao về ba chữ đó?”
Nghe đến đây
thì người chăn bò tức giận. “Ngươi muốn trêu ta nữa ư?”, ông kêu lớn. “Ngươi
chỉ là một cuốn từ điển biết đi mặc áo tu sĩ, hay ngươi cũng ích kỷ giấu giếm
ba chữ đó. Đồ …”Người chăn bò tuôn một tràng chửi bới làm vị Lạt-ma nọ cũng
nóng theo. Ông giật cái chuỗi gỗ đeo cổ, quay trên tay và gọi: “Mũi trái rạ,
đâu có gì đâu, Hung Benzar Phet!”. Chuỗi đeo bỗng dập trúng người chăn bò, còn
Lạt-ma trưởng tức giận bỏ ra khỏi phòng.Trong khi các đệ tử khác nghe giảng
pháp thì người chăn bò ôm đầu đang bị u và suy nghĩ chuyện xảy ra có ý nghĩa
gì. “Ta hỏi ba chữ đó, vị Lạt-ma đập cái chuỗi trên đầu ta và cho ta một mật
chú. Phải chăng đó là ba chữ ta tìm kiếm bấy lâu nay. Hung Benzar Phet. Chắc
chắn dúng rồi”.Lòng hoan hỉ, “mũi trái rạ” lên đường về nhà, ông đã tìm
được cái mà người khác đi suốt bao năm không tìm được. Đến nhà, gia đình hỏi
ông đi đâu và tại sao ông lại vui tươi đến thế, khác hẳn thường ngày mặt mày
đăm chiêu như một con chó bị đập.“Mọi người chắc không tin đâu, nhưng thực tế là ta đã học được nơi một vị
Lạt-ma tất cả những gì mà một người cần học”.
“Thật ư?”, mọi
người không tin, “Vị Lạt-ma đó nói gì hay làm gì mà bây giờ ngươi thay đổi đến
thế?”
“Chỉ cần ba chữ
thôi”, “mũi trái rạ” trả lời, “Ba chữ bí mật này người ta phải giữ kín, ba chữ
này ở trong đáy lòng mỗi ngày đều phải tụng niệm”.
Người chăn bò
nọ trở lại với công việc chăn bò, nhưng ông có một chỗ ngồi thiền định giữa các
tấm rạ. Cứ mỗi lần xong công việc, ông lại ngồi trong thế hoa sen và tập trung
cao độ đọc mật chú nọ. Lúc chăn bò, ông cũng tu luyện sự tỉnh giác, mối lần
thấy tâm mình lơi lỏng,ông lại nhẩm: Hung Bezar Phet.Không bao giờ ông hỏi
các chữ đó có nghĩa gì. Đối với “mũi trái rạ”, ba chữ đó bao trùm toàn bộ sự
vật. Với lòng thiết tha tu tập, dần dần người chăn bò trở thành một tu sĩ có
trình độ, mặc dù không bao giờ ông thấy mình là một tu sĩ .
Cứ thế mà nhiều
năm trôi qua, rồi đến một ngày có người kiếm mũi trái rạ trong chuồng bò và nhờ
ông cùng cưỡi ngựa xuống núi có chuyện.”Chủ tôi là một trưởng giả giàu có,
nhưng vợ của ông ta bị ốm. Thình lình bà ta nổi cơn điên như bị ma nhập, không
thể chữa chạy được. Người ta nói có một tu sĩ như ông có thể giúp được, ông có
mật chú đặc biệt. Hiện nay y sĩ và Lạt-ma đều bó tay cả”.Mũi trái rạ ngạc nhiên,
ông chưa bao giờ nghe tin đồn đại về mình. Tuy thế ông cũng sửa soạn lên đường
xuống núi để giúp người bệnh trong khả năng của mình.
Đến nơi, ông
vội vào thăm người bệnh đang vật vã. Không một chút ngần ngại, ông bắt chước
thầy mình ngày trước làm sao thì làm vậy: ông giật xâu chuỗi gỗ đeo trước ngực,
gõ đầu người bệnh và gọi lớn: “Mũi trái rạ, đâu có gì đâu, Hung Benzar
Phet!”Mọi người kinh ngạc khi thấy người bệnh bỗng nhiên hết điên. Bà chớp mắt
nhìn quanh như ai vừa đánh thức bà dậy từ một cơn mê dài và hết bệnh.Từ đó, mũi
trái rạ bỗng thành nổi tiếng là người chữa bệnh. Ông có nhiều thái độ kỳ quái
khó hiểu, nhưng dần ai cũng kinh sợ trước câu thần chú của ông.Rồi tới một ngày
vị Lạt-ma đã từng truyền thần chú cho mũi trái rạ cũng bị bệnh. Mọi người gửi
một đoàn sứ giả với nghi thức hết sức long trọng để mời vị tu sĩ với cái mũi kì
quặc đó đến giường bệnh. Người chăn bò không đợi nói lâu, ông liền đi nhanh tới
chỗ người bệnh, vượt trước đoàn tùy tùng.Ông tự mình vén lều đi vào, đến bên giường và sắp sửa rút xâu chuỗi từ trên
ngực xuống thì vị Lạt-ma nọ kêu tên hầu cận hỏi tên khùng này là ai mà sắp đập
lên đầu ông cái xâu chuỗi. Giọng nói Lạt-ma nghe rất khổ sở vì ông đang bị bệnh
sưng cổ.
“Thầy không
nhận ra con sao?” người chăn bò kêu lên lo lắng. Không, vị Lạt-ma nọ có hàng
trăm học trò và hàng ngàn người đã đến nghe giảng. “Bạch thầy, con đến đây để
thực hành phép chữa bệnh mà thầy đã dạy cho con với lòng từ bi vô hạn, nhờ nó
mà con giúp đuợc người đời”.Từ đó vị Lạt-ma nhớ ra, đó là một lần ông thốt ra
vì giận dữ, một sự giận dữ ít khi xảy ra. Vị đạo sư nhớ ra, ông quay xâu chuỗi
và đập chúng đầu tên khùng này và thực đã đọc một câu thần chú chửi thầm tên
này, câu này rất ấu trĩ, nhằm đối trị vô minh và ma quỉ: Hung Benzar Phet!Vị đạo sư nhớ ra
cười lớn khi thấy những hành động của mình ngày xưa có hiệu quả không ngờ. Và
sau đó tên hầu cận và cả người chăn bò cũng cười, tiếng cười cứ nối tiếp nhau
và nhờ đó cái độc nơi cổ Lạt-ma bị loãng đi và bị tống ra ngoài.Vị Lạt-ma được
chữa lành bệnh theo một cách chưa hề có. Ông lắc đầu tự nghĩ: “Tên chăn bò
khùng điên này thế mà có khả năng học hỏi…Biết đâu chừng, biết đâu chừng bây
giờ y đã đủ sức tiếp nhận giáo pháp ẩn mật của “Sư tử tuyết, bờm sắc xanh” của
giáo pháp Đại Thành, là giáo pháp trực tiếp nhận thức chân như”.
Ông nói với Mũi
trái rạ: “Cảm tạ ngươi.Ta muốn tặng ngươi một tặng phẩm lớn nhất, ta truyền cho
ngươi giáo pháp vô thượng.”
“Sao? Thầy đã
dạy cho con tri-kiến-ba-chữ rồi mà, trong đó chứa đựng hết mọi thứ. Bây giờ lại
còn giáo pháp vô thượng gì nữa. Thôi khỏi cần”.
Cũng may là vị
Lạt-ma tinh thông với mọi tâm thức, nên ông nói cho Mũi trái rạ nghe giáo pháp
vô thượng này chỉ chỉ luận giải thêm cho Tri-kiến-ba-chữ đó thôi, nó chỉ trang
hoàng thêm cho câu thần chú “Mũi trái rạ, đâu có gì đâu có gì đâu, Hung
Benzar Phet!”, làm cho nó thêm linh nghiệm.Mũi trái rạ vui lòng học phép
này và vị đạo sư bắt đầu giảng phép Đại Thành cho người học trò kém thông minh
nhất trong giới những vị được đưa vào tri kiến vô song này. Ông dạy người học
trò này bằng một tâm thức của Chân như viên mãn tuyệt đối.
Những năm sau đó, mũi trái rạ ngộ ra rằng sự viên mãn không phải chứng đạt
gì cả vì thực tế nó luôn sẵn có, chỉ cần tự thân khám phá ra mà thôi. Và bây
giờ, vì mũi trái rạ đã tiến bộ vượt bực, vị đạo sư chính thức truyền cho ông
mật chú Đại Thành đích thực, cũng được diễn tả bằng ba chữ.Cuối cùng, mũi trái
rạ giác ngộ và trở thành một đạo sư của phép Đại Thành.
49. Chuyện một vị ni
tái sinh
Cách đây khoảng
chín trăm năm có một cặp vợ chồng trẻ sống tại Shoto, một thành phố Tây Tạng
gần Drigung. Họ là những người đơn giản, ngoan đạo và không mong gì hơn là sinh
được một đứa con để hết lòng nuôi nấng.Nhưng hai vợ chồng bị hiếm muộn, không
thuốc men nào chữa được, đi cầu nguyện bao nhiêu cũng không có kết quả. Tuy thế
hai vợ chồng vẫn tin rằng có một đứa trẻ chỉ đang chờ cơ hội được sinh ra với
mình và cuối cùng hai vợ chồng quyết đi hành hương ở Katmandu (Nepal), là nơi
có một bức tượng do trời đất sinh ra, nghe nói có một thần lực rất mạnh và cho
tất cả các lời cầu xin được thành sự thật.Trước các bảo tháp ở Swayambu tại
vùng núi non Katmandu, hai vợ chồng quỳ gối cầu nguyện đức Phật Cồ-đàm mỗi ngày
và xin làm cha mẹ của một thần thức nào đang sẵn sàng nhận một thân bằng xương
bằng thịt. Họ chấp nhận bất cứ thức nào, dù thức đó mang lại ác nghiệp, hay dù
thân sinh ra sẽ tật nguyền hay tâm trí thấp kém. Họ sẵn lòng chịu khó khăn gian
khổ, chỉ cần có được một đứa con.
Nhiều tháng
trôi qua, hai vợ chồng thuận thành sống theo qui định của người Phật tử. Rồi
một đêm nọ, cả hai vợ chồng đều thấy chung một giấc mộng:mặt trời mặt trăng
cùng mọc trong bầu trời đêm xanh thẫm và một tia sáng rực rỡ chiếu xuống, xuyên
vào tim của hai vợ chồng.Hôm sau lúc tỉnh dậy, hai người rất xúc động biết mình mơ
cùng một giấc mơ. Họ biết rằng tương lai sẽ hé mở cho mình những điều kỳ diệu,
không kể đứa con sinh ra sẽ là con của mình hay của một cặp vợ chồng khác.Họ
treo đèn kết hoa lên bảo tháp với lòng cảm tạ, bố thí cho người nghèo khổ, cho
người bị hất hủi. Trên đường về nhà, họ không còn cầu xin ước nguyện nữa, mà
nếu có cầu nguyện thì họ chỉ biết cảm tạ về những điều đã xảy ra.
Lâu sau người
vợ mang thai và một năm sau thì sinh con. Khi sinh người mẹ không hề đau đớn,
một bé gái ra đời mang hương thơm đầy nhà, nó có ánh sáng ngũ sắc chói lọi. Đứa
trẻ ra đời mở mắt nhìn quanh một cách tỉnh giác, như xuất phát từ một tâm hồn
rất già dặn.Cả làng Shoto đều đồn đại về đứa trẻ và nhiều vị Lạt-ma đến viếng mục đích
xem đứa bé lạ lùng này là ai. Có người nói: “Đứa bé này là tái sinh của nữ thần
Kim Cương(VajraDakini)”. Có người lại nói của nữ thần Tara. Có người cho rằng
nên đợi lúc đứa bé lớn lên thì tự khắc sẽ biết nguồn gốc của nó.
Không bao lâu,
nguồn gốc đứa bé lại trở thành câu chuyện thời sự trong làng Shoto. Ai cũng bàn
tán về câu chuyện này, ban ngày ngoài đồng áng hay ban đêm bên đống lửa. Có một
Tăng sĩ nhắc lại lời tiên tri của một tập kinh trong tu viện mình như sau:
“Lời tiên tri đó báo trong thế kỷnày sẽ có một nữ thần Dakini(29) sẽ sinh
trong hang Tidro gần Shoto, để giúp hàng ngàn người. Trong bang Tidro, đức Liên
Hoa Sinh đã từng sống và đã từng cứu độ hàng ngàn Dakini trong thiên giới. Như
mọi người đều biết, các vị thiên cũng không thoát khỏi ảo giác; cũng chịu qui
luật vô thường; các vị đó một ngày kia rồi cũng phải chết và tái sinh nơi một
cảnh thấp kém hơn; trừ phi các vị đó cũng tu học giáo pháp để giải thoát khỏi
mọi sự ràng buộc”.Sau lời giải thích đó thì mọi việc đã rõ: đứa bé đích thị là
tái sinh của thần Dakini. Vì nhớ ơn Liên Hoa Sinh mà vị ấy xuống làm người để
cứu độ hàng ngàn người, như ngày xưa Liên Hoa Sinh đã giúp các vị thiên nhân
trong thiên giới. Chỉ có người không quan tâm đến tung tích đứa bé là hai vợ
chồng nọ, họ đầy hạnh phúc. Họ chỉ muốn một điều là đứa trẻ được đầy đủ và lớn
lênphát triển hợp với thiên nhiên.
Đến ba tuổi rồi
mà đứa trẻ vẫn chưa có tên chính thức, người ta chỉ gọi bằng cái tên tạm cho
đến khi một cái tên đúng nghĩa sẽ được thông báo. Đứa trẻ đã học câu thần
chú Tara và lẩm bẩm một cách thú vị, đôi lúc hàng giờ. Đến lúc người mẹ cho con
chơi với trẻ con khác, bỗng nhiên bà biết phải đặt tên con thế nào. Khác với
những đứa trẻ khác, đứa bé này không hề la khóc khi bị ai xô đẩy, ăn hiếp và
giật đồ chơi. Thay vào đó, nó lại đọc thần chú Tara một cách nghiêm túc, hầu
như nó biết rằng làm như thế, nữ thần Tara sẽ cứu độ. Sau đó không bao lâu, nó
chỉ cho bạn biết cách đọc chú Tara và đi đâu nó cũng vẽ vời những chữ đó.Cuối cùng cha mẹ
đặt tên đứa bé là Drolma, tên này là từ Tây Tạng chỉ nữ thần Tara. Tara là dạng
xuất hiện nữ tính của Bồ-đề tâm. Drolma cũng đồng nghĩa với “giải thoát”.
Từ lâu, người
ta đã biết đây là tái sinh của một vị đạo sư.Nhưng cũng như mọi chúng sinh trên
trái đất, Drolma cũng phải trải qua nhiều đau khổ, và với đau khổ đó con người
hoặc phải phát triển hơn hay chịu vùi dập. Drolma chưa đầy mười tuổi mà cha mẹ
nàng đã chết sớm và nàng phải ở với một người cậu. Ông cậu là một người đã già
và không hề hiểu được tâm hồn của cháu gái mình. Đối với đứa cháu cứng đầu này,
ông cậu thấy mình phải uốn nắn nàng cho phải, sau đó ông định gả nàng cho một
nông dân trong làng. Mặc các Lạt-ma hay trưởng lão trong làng nói gì, ông cậu
nhất định không chịu tin nàng là một tái sinh của một vị nữ thần, chứ đừng nói
tới Tara tái sinh. “Mỗi người thì cũng là tái sinh của người khác”, ông cậu
nói. “Thì cũng chẳng có gì đặc biệt để đội mũ lên đầu cho người đó và cho nó
làm đủ thứ chuyện”.
Nhiều bà con
cũng đồng tình với ông cậu. Họ cho rằng cô bé mười bốn tuổi này phải lo lấy
chồng sinh con đẻ cái, chứ đừng làm chuyện đạo sư gì, đừng giảng giải gì cho
cái làng quen đồng áng này những chuyện cao xa, những chuyện mà cô bé trẻ tuổi
này không thể tự mình biết đuợc.Đám cưới với con trai nông dân hầu như đã định
sẵn, trong lúc đó Drolma cúi đầu, nhưng phản đối quyết liệt: “Con sẽ đi Kham, ở
đó con sẽ gặp một tu sĩ, số phận đã định con lấy người đó. Chúng con sẽ
sinh con đẻ cái, những đứa trẻ đó sẽ trở thành Rinpoche (đạo sư quý báu), sẽ đi
vào lịch sử của đất nước”.
Bà con thở dài
ngao ngán và coi thường những lời tiên tri của đứa trẻ non dạ. Tuy thế họ
cũng phân vân, không rõ con người Drolma còn gì bí ẩn. Có thể nàng là một thiên
tài, là hiện thân của Tara, nhưng đúng hơn nàng không hề được cha mẹ dạy dỗ gì
về đời sống thực tế này.Khi Drolma lên mười lăm tuổi thì có một thương nhân đi
ngang qua Shoto. Drolma dồn hết chút của cải, chạy đến xin cậu cho mình ra đi
theo đoàn. “Con cám ơn cậu đã dành nhiều ưu ái cho con, nhưng con phải theo
người này đi Kham, là nơi con phải đến”.
“Ta cấm con
không được rời khỏi nhà”, ông cậu la lên. “Làm sao con biết người này đi Kham?
Con nói chuyện riêng với y à? Con hẹn hò với hắn, không cho ta biết ư?”
“Không”, Drolma
trả lời, “con có thông tin của con từ một nguồn khác. Bây giờ con phải đi giờ
đã điểm!”
Cậu Drolma dùng
mọi cách giữ nàng lại, kể cả uy quyền làm cha nuôi. Nhưng khi ông thấy nàng
nhất quyết ra đi, ông đành phải hạ giọng năn nỉ. “Ta xin con đừng đi, hãy
nghĩ lại trước khi tai họa ập đến với con, ta có trách nhiệm với con”. Phần lớn
quyến thuộc của Drolma cũng có mặt, cả nửa dân làng cũng ra can gián. Cuối cùng
nhiều người tiễn đưa nàng đến cuối làng, nơi mà thương nhân và đám tùy tùng
đang đợi.Drolma nói với thuơng nhân: “Tôi không có gì đáng giá cho ông, nhưng
nếu mang tôi đi Kham, ông hưởng được phước lành cách khác”.
Thương nhân
ngạc nhiên: “Nhưng tại sao cô lại biết tôi đi Kham?” Thật ra thì ông cũng có
quyết định đi nẻo này mới đây thôi. Drolma im lặng. Nàng ôm ông cậu và nói: “Chúng
ta sẽ gần nhau, cách này hay cách khác. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ cùng đạt
giác ngộ. Cậu hãy luôn huớng tới Tara, vì Tara và con là một”. Nàng gỡ tay ông
cậu ra và kêu lớn với mọi người: “Trong cõi Phật Tara, chúng ta sẽ gặp
nhau”.Với lời này, nàng rời bỏ quyến thuộc bằng xương bằng thịt ra đi và tìm
cho ra người quyến thuộc tâm hồn, một tu sĩ ở Kham, một người mà không ai biết
liệu họ có thật trên đời này chăng.
Vài tuần sau,
đoàn thương nhân đến Kham. Tại thị trấn Dento Tsongur, Drolma từ giã đoàn và đi
thẳng vào một nơi hoang dã, cứ như nàng biết rõ đường đi nước buớc. Qua thời
gian, đoàn người đã biết tính cương quyết của Drolma nên cũng không ai ngăn cản
nàng nữa. Ai cũng biết muốn ngăn nàng thì phải dùng vũ lực mới được, mà điều đó
thì không ai muốn.Drolma đi thẳng vào lều của một trong những tu sĩ có
tiếng nhất vùng đó. Tsultrim Gyamtso là một truyền nhân của gia đình Kyura, như
Drolma đã từng tiên tri mấy năm về trước. Thay vì nhận lãnh cơ nghiệp của cha
và lập gia đình bình thường, chàng lên đuờng sống nơi hoang dã, thệ nguyện sống
viễn ly và diệt dục.Tsultrim ra trước lều, chào người khách bất ngờ. Ngày hôm
nay chàng không định gặp ai và dân làng xung quanh cũng ít ai khi gặp chàng mà không
báo truớc. Tsultrim nhìn cô gái mặc quần áo nghèo khổ đang đứng ở bậc cửa, lòng
đầy hình ảnh lạ lùng. Giấc mơ và sự thực hòa vào nhau một cách đáng sợ và trước
khi người tu sĩ định thần lại thì cô gái đã nghiêng mình chào với một nụ cười
của người hiểu chuyện: “Tôi… là người bạn đời, đã định sẵn cho anh. Trong tình
yêu thương của Tara, chúng ta sẽ lấy nhau và có con với nhau, ánh sáng của
chúng ta sẽ làm sáng lên cõi trần này”.
Tsultrim
Gyamtso không nói được tiếng nào, đứng qua một bên nhường chỗ cho Drolma vào
lều. Trong một giấc mơ cách đây không lâu, chàng thấy một nữ thần Dakini sắc
lục hiện lên và báo trước, con cháu của chàng sẽ có những khả năng tâm linh vĩ
đại, sẽ làm lợi cho con người hàng thế kỷ. Bây giờ, giấc mơ đó bắt đầu sáng tỏ,
sứ giả của một thế giới khác đang cần chàng, một tu sĩ diệt dục, để làm sứ mạng
đó.
Trong những
ngày và tuần sau đó, Drolma và Tsultrim làm quen thêm với nhau, vì trong một
hay nhiều kiếp trước, hai người đã từng chung sống với nhau dưới dạng này hay
dạng khác. Hai người nhớ lại kỷ niệm ngày xưa và niềm vui đoàn tụ tưởng không
dứt. Không bao lâu sau, cả hai đều biết rõ họ sinh ra là để vì nhau và đời này
họ cưới nhau. Tuy nhiên, Tsultrim chỉ là một tu sĩ độc cư nghèo và không có gì
để cử hành hôn lễ với tất cả nghi thức, đó là không kể chuyện lập gia đình và
sinh con đẻ cái. Drolma nói “Anh đừng lo. Hãy mời gia đình và bạn hữu tới
tham dự buổi lễ. Em sẽ lo tất cả.”Thấy vợ còn ngây thơ trẻ con, Tsultrim
Gyamtso bật cười: “Em không sợ gì trong thế giới này sao? Cũng không sợ bố mẹ
chồng thuộc dòng Kyura nghiêm khắc sao?”
“Không, em chủ
động sinh vào thế giới này để giúp tất cả mọi người không chút phân biệt. Không
phải em có sức mạnh của thiên giới mà sức mạnh đó tác động thông qua em. Vì vậy
em biết rằng mọi việc em làm đều tốt lành và tất cả ai theo em sẽ đều giác
ngộ”.
Drolma lên mười
sáu lúc nàng cưới vị tu sĩ đã nhập dòng Tsultrim Gyamtso. Lễ cưới được tổ chức
với sự tham dự của hơn một trăm khách và cả trăm người đó đều xác nhận rằng,
lúc đó trong túp lều nghèo nàn và chung quanh xa hàng mẫu đất có một thứ ánh
sáng êm dịu tỏa ra; còn Drolma thì đánh chiếc trống nhỏ và mắt đăm đăm nhìn bầu
trời. Một mùi hoa lạ chưa từng có lan khắp nhà, trên bàn thờ những ánh sáng li
ti nhảy múa, rực rỡ hơn bất cứ ánh sáng thế gian nào. Khách mời đều nhận được
mùi vị ngọt ngào của một thứ nước thánh, tuy không thấy thật nhưng tất cả đều
được thọ hưởng.Sau buổi lễ, Drolma xoè bàn tay cho chồng thấy bốn miếng xương
trừu có dạng vuông vức kỳ lạ vừa hiện trong lòng bàn tay. Drolma cũng ngạc
nhiên trước hiện tượng này, nhưng nàng biết ngay và nói: “Đây là dấu hiệu chúng
ta sẽ có bốn đứa con trai, chúng sẽ đạt giác ngộ ngay trong đời này”.
Như tiên tri,
Drolma sinh bốn con và mỗi người đó đều được điểm đạo. Drolma và chồng cũng có
nhiều đệ tử và trở thành đạo sư có tiếng. Lúc đứa con thứ tư đến tuổi trưởng
thành, Drolma đưa các con và một số đệ tử về lại hang Tidro, là nơi đạo sư Liên
Hoa Sinh đã từng sống và giáo hóa cho các nữ thần Dakini.Khi Drolma đến nơi thì
hang động sù sì bỗng biến thành một cửa thành dẫn vào thiên giới. Người ta nhìn
thấy một phong cảnh như bằng ngọc quý dựng lên, thiên nhiên tuyệt đẹp hàng
đoàn, hàng đoàn xuất hiện. Drolma căn dặn mọi người đừng quên rằng cảnh đẹp
tuyệt vời này cũng chỉ là ảo giác. Dù chân như rất gần với chúng ta, gần hơn
tất cả nhưng chúng ta luôn luôn chỉ thấy ảo giác của một đời sống bị trói buộc.
Với những lời đó Drolma bắt đầu lễ điểm đạo.Nhiều giờ trôi qua, sau nghi lễ Mật tông, Drolma
đã cho giới đệ tử thâm nhập được thiên giới, ngộ hiểu các vị thiên nhân và Phật
tính uyên nguyên của các vị đó. Trong thời gian ngắn ngủi này, nhiều đệ tử đã
chứng ngộ được nhiều khả năng siêu nhiên mà tu tập thông thường phải mất hàng
năm. Drolma dặn dò những thần thông đó không phải là mục đích tu học, chúng chỉ
là kết quả tự nhiên trên đường liễu ngộ chân như.Cuối cùng Drolma đặt
cuốn Kinh lên bàn thờ trong động và tuyên bố trách nhiệm của nàng trong thế
gian này đã hoàn thành. Nàng long trọng thệ nguyện rằng sẽ cứu độ mọi người tầm
đạo trong vài ngàn năm tới, một khi người đó nghĩ, nhớ hay nhắc đến tin nàng.
Sau đó nhiều điều xảy ra không ai còn nhớ rõ. Drolma chết trong động Tidro của
Liên Hoa Sinh, mỗi người hiện diện thấy sự việc một cách khác nhau. Truyền
rằng, nàng lên một con ngựa sắc xanh bay về cõi thần Dakini, có thiên nhạc vang
lừng tiếp đón. Các con nàng chỉ mỉm cười khi nhắc đến cái chết của mẹ, làm ta
biết rằng lúc chết cũng như lúc sinh, nàng không hề đau đớn mà đó là một biến
cố hỉ lạc.
Drolma và con
cháu nàng đã đi vào lịch sử của Tây Tạng, là các vị đạo sư quan trọng. Cháu của
Drolma là vị đạo sư Jigten Sumgon cao trọng. Đến ngày nay, dòng giáo hóa
Drigung Kagyu của Drolma vẫn còn, một dòng lấy các lời khai thị của nàng trong
động núi cách đây trên 900 năm làm cơ sở. Người Tây Tạng tin rằng, nếu có ai
nhớ, nghĩ tới nàng thì sẽ được nàng nghe đến và tiếp dẫn. Và ai làm theo lời
khai thị của nàng, sẽ sớm được giác ngộ hơn người khác.
50. Mộng và thực
Trên sườn ngọn
Everest, cao khoảng sáu ngàn mét so với mặt biển, tu viện Thubten Choling nằm
cheo leo, xem như một tu viện Phật giáo nằm trên nóc nhà của thế giới. Viện
trưởng là Trulshik Rinpoche, ngày nay là một vị Lạt-ma và đạo sư đã già của
trường phái Nyingmapa (30). Người Tây Tạng tôn sùng ngài và xem ngài là một bậc
giác ngộ, là người đã vượt qua mọi ảo giác. Đó là thứ ảo giác chồng chất nhiều
tầng làm con người không tri kiến được tâm thức mình, làm con người không thể
liễu ngộ chân như.
Hàng chục năm
trôi qua mà Trulshik Rinpoche hầu như không bao giờ rời khỏi tu viện. Thế nhưng
năm 1991, ngài nhận lời cùng đi với Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, vị đứng đầu Tây Tạng
đến New York để nói chuyện tại Madison Square Garden và giảng giáo pháp về tự
tính giác ngộ trong mỗi con người. Trong những năm tu học, chàng thanh niên Trulshik
luôn luôn nghĩ trong đầu mình sẽ đuợc gặp đạo sư Gyalwa Karmapa(31) để được học
hỏi thêm. Gyalwa Karmapa thứ 16 là chưởng môn của trường phái Kagyu (32), là
người nắm giữ một bí quyết lâu đời. Bí quyết này dành cho các học trò đã chín
muồi, chỉ cần một hành động thân khẩu nào đó là giải thoát cho học trò khỏi sai
lầm tự tạo.
Suốt năm này
qua năm khác, chàng Trulshik chỉ mong tạo cơ hội để gặp Gyalwa Karmapa. Chàng
lên đường đi từ Tibet qua Sikkim để gặp Karmapa tại đó nhưng sau thời gian khó
nhọc đến nơi vị này đã đi Ấn Độ để dạy phép Mahakara bí truyền. Trulshik vội đi Ấn Độ nhưng Karmapa lại đi nước khác trước. Làm cách nào, Trulshik cũng
không gặp được vị đạo sư này cả.Chàng không còn cách nào khác hơn là tự mình tìm
hiểu lý do sâu xa nào đã gây ra chuyện này. “Phải chăng có năng lực xấu ác gì,
xui ta phải xa thầy, để thử thách ta? Hay nội tâm ta còn che đậy, có một ác
nghiệp hay một tri kiến sai lầm?” Chàng tự đặt cho mình những câu hỏi và sau đó
thực hiện mọi phép như sám hối, thiền quán hay nuôi dưỡng lòng từ bi. Chàng
thực hành bố thí, ra sức tu tập chính kiến, tụng đọc thần chú, giữ hạnh hiếu
sinh và cứu độ chúng sinh.Khi
cầu nguyện chàng chỉ còn mong cầu được Gyalwa Karmapa điểm cho phép Mahakara
trước khi ngài nhập diệt. Nhưng sau đó Gyalwa Karmapa mất năm 1981 mà Trulshik
không hề được gặp.Nghe tin đó, Lạt-ma Trulshik tuyệt vọng. Đó là nỗi thất
vọng lớn nhất đời ông vì không còn ai giúp ông vào thánh đạo một cách nhanh
chóng. Người ta kể rằng ông phải mất hàng năm mới chấp nhận được thực tế này,
đời này ông không còn đạt được mục đích lớn nhất nữa.Sau đó, trong một trạng thái vô sở cầu thì một
phép lạ xảy ra cho Trulshik. Một đêm nọ, hoàn toàn bất ngờ, Gyalwa Karmapa đã
chết lại hiện ra trong giấc mơ. Tâm trí của Trulshik lúc đó đã rỗng không thì
hình ảnh đó hiện ra rực sáng và không thể nào quên. Ngày xưa lúc ông còn mong
cầu tha thiết thì không được, bây giờ không còn mơ ước gì thì Gyelwa Karmapa
lại đến: vị Phật sáng rực trong dạng Karmapa cho ông hay, sẵn sàng truyền cho
ông phép Mahakara.Trulshik hỏi câu hỏi đầu tiên; “Cái gì có thực, cái gì không
có thực?”
Đạo sư đáp:
“Tất cả đều có thực tất cả đều không có thực. Đúng là một nghịch lý. Từ phương
diện tuyệt đối thì tất cả mọi thứ nào được tạo thành, thứ đó có đặc tính, mọi
thứ đó đều vô thường và không thực. Chỉ cái đó, cái tạo nên mọi thứ trong
vũ trụ thì lại là thực, nhưng cái đó lại phi tính chất, phi hình thể, không
ngăn ngại. Cũng chính vì thế mà cái đó lại hết sức diệu dụng, toàn năng.
Từ phương diện tương đối mà nhìn thì mọi sự, dù nhỏ nhặt nhứt cũng xuất phát từ
cái đó, từ cái duy nhất và không hề rời nó”.Gyalwa Karmapa bắt đầu khai
thị như thế. Khi tướng trạng của ngài hòa tan trong Không, nơi mà dạng đó xuất
phát, thì Phật tính trong tâm của Trulshik thức tỉnh, thức tỉnh từ một giấc mơ.
Kể từ đó thì
Lạt-ma Trulshik không thấy có sự khác nhau giữa giấc mơ ban đêm và giấc mơ ban
ngày, thứ mơ mộng làm người ta tưởng rằng có một cái tôi riêng rẽ, hiện diện
tách riêng khỏi một cái toàn thể. Tất cả những cái vô thường này chỉ nằm trong
một giấc mơ lớn mà ngày nào đó mỗi chúng ta sẽ thức tỉnh cho dù con đường đến
đó còn có khó nhọc bao nhiêu đi nữa.
51. Nhà khổ hạnh và
người nuôi chó
Tu sĩ khổ hạnh
Kukkuripa Ấn độ sống hàng chục năm trên một hòn đảo của một cái hồ nhiễm độc.
Trần như nhộng, râu tóc mọc dài, gầy như que củi, ông sống trong một hang đá
với khoảng năm trăm con chó. Ông thương yêu đàn chó hết mực và xem chúng là
thiên nhân hiện hình.Nhiều người tầm đạo tìm đến ông, đến người nuôi chó và xin
ông vài lời khai thị cũng như xin truyền ít năng lực. Kể cả Marpa, “nhà dịch
thuật”, cũng được ông điểm đạo.Về sau, lúc đắc đạo Marpa ca tụng ông như sau:
“Thầy dạy ta đã chỉ rằng, ngay cả những xúc động thấp kém nhất của loài xúc
sinh dục giới cũng còn quý hơn cả vàng ngọc, vì thật ra chúng là – như tất cả
mọi thứ khác – đã vô thủy vô chung hoàn toàn thanh tịnh, không hề uế nhiễm,
không hề xấu ác. Tất cả đếu là hiển hiện của một cái tuyệt đối, bất sinh bất
tử, của Đại Ấn quyết, của ánh sáng rực rỡ của Chân như; ngay cả bóng tối cũng
chính là ánh sáng”.
Có một tu sĩ
khổ hạnh nọ tên là Nagpo Tschopa thực hiện được nhiều tiến bộ, đạt được một số
khả năng siêu nhiên. Ông giữ nguyên tắc bất di bất dịch từng ngày là sống loã
thể, đi công nhiên ngoài phố để chứng tỏ mình đã rũ bỏ mọi ràng buộc thế gian.Lần nọ, Nagpo
Tschopa gặp một bà dệt vải ngoài chợ nhìn mình từ đầu đến chân và hỏi: “Nào,
nhờ tu tập, ngài đã đạt thần thông nào chưa? Một tu sĩ không thần thông cũng
như cây không có trái. Phép tu của ngài sinh ra quả nào nói thử.”
Nagpo Tschopa
liền đưa mắt nhìn một cây đang trổ hoa bên vệ đường. Trong chớp mắt, cây liền
rụng hết lá. “Thân của ta trần trhuồng, không che đậy”, Nagpo Tschopa nói,
“cũng thế, tâm của ta đã thoát khỏi tâm dục và vô minh.” Bà dệt vải xem ra không
thán phục: “Nếu đã hủy phá được thì ngài cũng có cách biến chúng thành lành lặn
được.” Vừa nói xong, bà dẹp đồ nghề dệt vải qua một bên và đưa tay chỉ các ngọn
lá nằm rải rác. Trong chớp mắt, lá bay về lại cây và cây tiếp tục trổ hoa.Người
tu sĩ cúi mình thán phục khả năng bà dệt vải và đi tiếp. Trong mùa trăng sau,
Nagpo Tschopa thực hành một buổi lễ thệ nguyện phức tạp. Ông đem mọi thứ cúng
dường như thực phẩm, trái cây và vàng bạc lên bàn thờ, lạy cả trăm lần khắp tám
hướng. Sau đó ông nhập định và cầu thiên nhân xuất hiện. Như bao lần, thần
Dakini chủ trí tuệ xuất hiện dưới dạng một nữ thần. Nhưng thay vì thu nhận đồ
cúng dường, thần Dakini cho hay tối nay thiên nhân bận việc khác: “Tối nay
chúng ta bận phải đến với người tu sĩ nuôi chó, đồ cúng dường của vị ấy cao quý
hơn cả.” Nói xong, nữ thần rút lui ngay.Nhưng người tu sĩ nọ không dễ như thế, ông kêu lên nóng nảy: “Tên quái vô
kỉ luật đó có gì mà ta không có gấp ngàn lần hơn? Ta là người áp dụng gắt gao
mọi qui định của Mật tông cũng như hành trì mọi lễ nghi!”
Bỗng nhiên nữ
thần Dakini lấy dạng của người đàn bà dệt vải và dùng giọng của bà đó mà nói:
“Đúng như thế đó, hỡi con người lập dị! Ngươi là người bám vào qui định. Ngay
cả sự lập dị của ngươi cũng bị qui định. Kukkuripa không hề có qui định nào cả.
Y không có dự định, không có chủ trưong gì cả. Không một kế hoạch nào làm mờ
mắt y, y không nhai lại điều gì do ai dạy bảo cả. Và vì y không có đạo sư nào
khác hơn chính là đạo sư nằm trong người y, chúng ta lại cần tìm đến y hơn cả”.
Trước khi nhà
đạo sĩ khổ hạnh kịp phản đối điều gì, nữ thần Dakini đã biến mất để cùng với
Kukkuripa hoan hỉ và năm trăm con chó hòa nhập với ánh trăng.
52. Phép chuyển hóa tâm
thức
Ngày nọ, một
Lạt-ma đi du hành qua một vùng cô quạnh, đầy gió lạnh tại miền Bắc Tây Tạng.
Nơi đó chỉ có ít gia đình sống với đàn trâu, xa tất cả mọi tu viện, đạo tràng.
Vị Lạt-ma đi bộ, toàn thân lẫn trong đống áo quần xác xơ, ăn tạm lá cỏ qua
ngày. Thỉnh thoảng có vài kẻ chăn cừu ném cho vài miếng thức ăn.
Ngày nọ, vị
Lạt-ma thấy một người đàn bà chạy từ trong một lều đá ra, kêu ngoắt dữ dội. Ông
dừng lại và người đàn bà hỏi: “Ông chỉ là một kẻ ăn xin thông thường hay một
Lạt-ma có tu học?” Người khách trả lời dửng dưng: “Cả hai đều không.” Người
đàn bà bắt đầu lên tiếng khóc: “Cha tôi vừa mất và chúng tôi đang cần một vị
Lạt-ma biết phép chuyển tâm thức để đưa thần thức ông vào cõi Tịnh độ. Lúc tôi
mới thấy ông thì tưởng ông đến có chủ ý, tưởng có người đã đưa ông đến đây để
giúp gia đình chúng tôi! Thôi hãy vào nhà đi và tìm cách chỉ cho hồn vía cha
tôi biết phương hướng rời bỏ đời sống trần gian này mà đi vào cõi Phật”.
“Tiếc thay tôi
chỉ là kẻ còn non tay”, vị Lạt-ma nói thật, “bản thân tôi cũng chỉ là kẻ tìm
đạo, còn học tập chính kiến và tìm cách định tâm. Chưa ai dạy tôi cách chuyển
thần thức người chết cả, đó là phép tu ẩn mật, là một nghệ thuật, có lẽ là nghệ
thuật lớn nhất trên cõi đời này. Tôi còn chưa biết đọc biết viết và mới học
thuộc vài bài Kinh thôi”.
Trước cặp mắt
khẩn cầu của người đàn bà, Lạt-ma nói thêm: “Nhưng tôi có được một khả năng đặc
biệt, đó là lòng tin kiên định và tha thiết nơi sức mạnh của Lạt-ma Karmapa, bà
có biết ngài không? Đó là một vị Phật sống, ngay phút này đang ở trên trái đất
này, lấy dạng của một người Tây Tạng, mặc áo của một Lạt-ma. Nhưng đó là một vị
Phật sống”.
Người đàn bà
nói: “Thế thì cầu ngài đi để tiếp dẫn cho cha tôi”. Bà cầm tay Lạt-ma kéo thẳng
vào nhà, cả gia đình đang ngồi quanh xác chết.Tại giường, vị Lạt-ma
quì xuống và ông không biết làm gì hơn là giơ hai tay lên và gọi: “Karmapa
Kjenno, Karmapa, hãy nghe!”, ông cũng đọc hoài câu đó, cứ như đọc thần chú.Với
làng thiết tha và sự tôn kính sâu xa từ trái tim mình, ông kêu gọi sự cứu độ
của Karmapa dễ cả trăm lần. Sau lần thứ một trăm thì như có ai bảo, ông lấy
tràng hạt bằng gỗ gõ nhẹ vào đầu người chết và ra lệnh thần thức người chết hãy
kiếm cõi Tịnh độ Dewachen để tái sinh tại đó và nhất quyết không vào bất cứ cõi
nào khác, hữu sắc hay vô sắc.
“Karmapa
Kjenno, Karmapa Kjenno”, Lạt-ma gõ nhẹ tràng hạt, ra lệnh thần thức, nhân
danh Karmapa mà tái sinh trong cõi Phật, không dừng lại với bất cứ hiện tượng
nào, “Karmapa Kjenno”, cứ thế ông niệm hàng giờ.Trời đã tối, khi những
kết quả đầu tiên của phép chuyển hóa tâm thức (người Tây Tạng gọi là Phowa) bắt
đầu rõ nét thì một mùi thơm dịu xuất phát từ đầu người chết và tóc trên đỉnh
đầu bắt đầu rụng bớt và đầu người chết dường như sưng lên, ngay tại chỗ thỏm
đầu. Ai cũng biết, đó là dấu hiệu chắc chắn khi thần thức thoát ra khỏi thân và
người cha đã về lại đất Phật với đầy đủ sự tỉnh giác.Tất cả mọi người đều vui
mừng, thậm chí reo lên, sung sướng quên mình như ta thường thấy nơi những con
người đơn giản. Họ chúc tụng vị Lạt-ma, cảm tạ và xin ông nán ở luôn tại vùng
đó. Họ sẽ xây cho ông một căn nhà đá, xin ông trở thành đạo sư của toàn làng để
có thể trao truyền phép chuyển tâm thức Phowa, cùng với một đại sư Karmapa vô
hình.Vị Lạt-ma ở lại với dân
làng một thời gian và mọi người đều tin vị đại sư Karmapa chính là một cánh cửa
vào đất Phật Dewachen dù ngài không trực tiếp hiện diện. Cả gia đình đó đều cầu
khẩn tới ngài vì họ biết rằng cõi Dewachen không phải đợi người ta lúc chết mới
mở mà ngay tại đây và bây giờ, ai cũng có thể tìm kiếm được.
Một ngày nọ,
tin tức bay tới miền Bắc Tây Tạng xa xôi: vị Karmapa hiện đang ở miền Nam và
đang truyền bá giáo pháp. Vị Lạt-ma nọ nghe tin, vội vã từ giã dân làng và đi
về phía Nam.Vài tháng sau, ông quì trước Gyalwa Karmapa và nhận phước lành của ngài,
sau lưng là một hàng dài tín đồ, Tăng sĩ, tầm sư từ mọi nơi của đất Tây Tạng.
Ông nhìn thẳng vào mắt Karmapa không nói một lời. Trên mặt vị Phật sống bỗng
xuất hiện một nụ cười rạng rỡ. Ngài cúi mình, nói nhỏ vào tai vị Lạt-ma du sĩ:
“Lần đó trên miền Bắc, làm phép chuyển tâm thức cũng mệt lắm nhỉ?”Sau đó Karmapa lấy vòng cầu nguyện đeo cổ,
cầm trên tay, gõ vài cái vào đầu Lạt-ma và nói thêm: “Nhưng lần đó, chúng ta
cũng làm được việc rồi… Tất cả đều tốt cả chứ?”
“Tốt cả”,
Lạt-ma du sĩ trả lời, nước mắt đầy tròng. Bây giờ ông đã biết rõ, một tâm thức
giác ngộ như Karmapa không hề chịu sự ngăn ngại của thời gian hay không gian,
vượt qua mọi trở ngại tưởng chừng có thực, để gần học trò của mình, dù người
học trò đó đi tới cõi nào, sắc giới hay vô sắc giới.
53. Đạo sư đốt trầm
Cách đây vài
ngàn năm có một vị thánh tên là Vipasyi, sống tại Ấn Độ. Lúc còn tại thế, ông
đã ngộ Niết-bàn và từ đó không hề quan tâm đến đời sống vật chất, thân thể. Ông
không quan tâm mình đói hay no, không cần biết mùa mưa có mái nhà che thân hay
không, cũng không cần biết mình đang sống hay chết. Lúc giác ngộ, ông đã đạt
điều đáng mơ ước nhất và vì thế ông ngồi yên trên một tảng đá, không kể mưa
nắng, không động đậy một ngón tay ngón chân, không chịu làm gì cả.
Từ Vipasyi phát
ra một năng lức êm dịu, một trí huệ rực sáng và lòng từ bi mà ai cũng cảm thấy,
nên có nhiều người đến với ông. Vì Vipasyi cho phép ai cũng được tới gần, không
phân biệt tốt xấu hay dở, nên nhiều người quý trọng ông, dâng tặng nhiều thứ
như thực phẩm, y phục, thậm chí cho cả lâu đài để ở, cho nên cuối cùng cái gì
ông cũng sẵn có mà không cần phải làm gì cả.Một thương nhân giàu có
tên Njemy đến với Vipasyi, mang theo thức ăn hảo hạng và nói: “Con xin mời ngài
và các đệ tử ở trong nhà con ba tháng, mỗi ngày xin cúng ba bữa ăn nóng. Xin
hãy cho con làm điều nhỏ mọn này, vì được nhìn vào mắt ngài thì cái gì con cũng
sẵn sàng cả”.
Vipasyi, người
vô sở cầu, gật đầu chấp nhận. Lúc đó có một vị sứ giả của nhà vua vừa đến và nói: “Khoan đã, hỡi ngài Vipasyi. Hoàng thượng gửi con đến để đưa ngài vào
cung điện. Nơi đó ngài và hàng trăm đệ tử có thể vui sống và thiết lập cả
một tu viện nếu ngài muốn. Ngài sẽ được tiếp đãi một cách vương giả, ăn mặc
sang trọng. Hãy đi với con, kỵ mã đang chờ”.Vipasyi mỉm cười lắc
đầu: “Hãy báo Hoàng thượng, ta xin cảm ơn, nhưng ta hứa sẽ ở với thương gia nọ
ba tháng rồi. Hãy báo rằng, lòng hào hiệp của nhà vua sẽ tác động lại tốt đẹp,
không kể giúp cho ta hay ai khác”.Nghe lời này, vua có cảm giác bị thương nhân
nọ cạnh tranh. Ông gọi các cận thần và hỏi: “Có một thần dân nhanh tay hơn ta.
Tên thương nhân Njemay đã lấy mất cơ hội được phục vụ bậc giác ngộ Vipasyi,
khiến ta mất dịp vun trồng công đức. Ta phải làm sao bây giờ?”
Một cận thần
gian xảo hiến kế: “Thần có một giải pháp rất hữu hiệu. Với sự đồng ý của bệ hạ,
thần cho cấm ngay việc buôn bán củi gỗ. Tên thương nhân nọ sẽ không có củi
đâu mà nấu bữa ăn nóng của nó. Còn hoàng gia chúng ta sẽ sẵn củi lửa, nấu ăn
cho cả đạo quân còn được”.Vua nói: “Thật là ý kiến hay. Ta chỉ lo, không biết làm
như thế có tạo được công đức hay khong”. Các vị thần khác cũng lắc đầu lo ngại.
Một vị khác nói: “ Tại sao chúng ta không làm như Vipasyi căn dặn, hãy tìm một
vị đắc đạo khác, ta sẽ cúng dường cho vị đó thì công đức nhà vua cũng được vun
bồi vậy”.Cuộc thảo luận diễn ra sôi nổi nhưng tính lại trong cả nước chỉ có
Vipasyi xem ra là đắc đạo nhất, nên cuối cùng ngay đêm đó vua ban lệnh cấm
không được buôn bán củi gỗ.
Một thời gian
sau, khắp nơi đều đồn đại rằng nhà vua đã mất trí mới ra lệnh cấm buôn bán củi
gỗ. Và mọi người cũng nhận thấy thấy rằng chỉ có thương nhân Njemay là bị binh
lính nhà vua canh gác cẩn mật. Khắp nơi, người ta cứ đốt lửa nấu ăn như thường,
chỉ có Njemay và khách mời là Vipasyi phải ăn rau cải sống. Đối với vị Phật đắc
đạo này thì điều này không đáng vui, chẳng đáng buồn; ông không có ý kiến gì
cả, nhưng Njemay lại có sáng kiến độc đáo. Njemay ra chợ và mua của
một bà già toàn bộ trầm hương. Chồng bà này chết trước đó không lâu. Ngoài ra,
ông còn đặt hàng, nhờ bà cung cấp thật nhiều trầm, bao nhiêu cũng được. Ông sẽ
mua hết trầm đến hết đời của bà và trả giá rất cao. Bà già hầu như muốn khóc
trước hạnh phúc to lớn này và ca tụng tên tuổi Njemay, đến nỗi các thương nhân
khác cũng tụ tập quanh Njemay và không tiếc lời ca ngợi ông.Bị binh lính nhà
vua theo dõi với cặp mắt nghi ngờ, Njemay về nhà và dùng lửa trầm hương nấu ăn.
Ông đốt từng thỏi trầm lớn và nấu một bữa ăn tuyệt diệu, dọn ra trong lá chuối
cho Vipasyi và đệ tử. Sau khi đọc lời cầu nguyện dùng bữa, Njemay nói: “Thật là
một vinh dự cho con, được phục vụ bữa ăn cho đạo sư. Nhưng con mong tới ngày,
không phải chỉ dọn bữa mà ngày đó đạt được chính tri kiến, và giúp được mọi
loài hữu tình chỉ với sự hiện diện và trái tim nhân hậu của mình”.
Ngày qua ngày,
khói trầm hương bay khỏi bếp của Njemay, truyền đi khắp nơi, lan cả qua thành
phố bên cạnh, ngày nay trở thành một thành phố hành hương.Khi nhà vua nghe tiếng
lành của thương nhân này, ông nghĩ lại và cho vị cận thần thôi việc, người đã
khuyên răn ông những điều không hay. Ông cũng nhường lại ngôi cho con,
không trị vì nữa. Còn Njemay thì học hỏi được rất nhiều nơi vị Phật đã sống
trong nhà ông ba tháng và được phục vụ các bữa ăn nóng. Njemay được tái sinh
trong một cõi trời mang tên là A-la-hán Anga, “đạo sư đốt trầm”. Tranh tượng
thường vẽ ngài trên tay cầm trầm hương. Người ta nói rằng ai thấy hình ngài,
đụng tới tượng ngài hay chỉ nhắc đến tên ngài là đã được lợi ích. Kẻ nào tha
thiết theo con đường tu học mà ngài đã đề ra, kẻ đó sẽ luôn luôn hưởng một mùi
trầm nhẹ nhàng.
54. Gặp gỡ Bồ-tát
trí tuệ
Yahden Tulku là
tái sinh của một Lạt-ma Tây Tạng, trở lại trần gian để hoàn thành việc tu
học. Trong đời trước, ông đã thông thạo kinh điển Ấn Độ, Tây Tạng và đã được
điểm đạo. Bây giời ông theo học môt vị đạo sư để tiến thêm một bước nữa trên đường
đạo.Khi nhập diệt, vị đạo sư nọ để lại cho ông môt cuốn bí lục (50) và môt bản
đồ chỉ đường đến một ngọn núi với năm đỉnh cao miền Tây Trung Quốc. Ngọn núi
này là Ngũ Đài Sơn (33), được xem là trú xứ của Bồ-tát Văn-thù, vị Bồ-tát
chủ trí tuệ. Văn-thù có hàng ngàn tên và ngài cầm lưỡi kiếm bén cắt màn tối của
vô minh. Người ta nói rằng, ai thành khẩn đến Ngũ Đài Sơn thế nào cũng gặp ngài,
trong một dạng hình nhất định, đó là điều chắc chắn.Tuy thế chỉ có những
người có căn cơ, với cặp mắt trong sáng, mới nhận ra được Văn-thù. Vì thế
Yahden trên đường đi Trung Quốc, luôn luôn thiền định và chính niệm. Nếu không
thiền định thì ông cũng đọc danh hiệu của Văn-thù hàng nghìn lần.
Sau sáu tháng,
Yahden Tulku mới tới Ngũ Đài Sơn. Sau đó ông leo 108 bực thang để lên tới đền
thờ đức Văn-thù trên đỉnh núi.Ba con chim đậu trên bảo tháp trắng như tuyết thờ
tóc Văn-thù. Chim kêu réo đòi thức ăn, xung quanh không một bóng người. Trên
đỉnh núi hầu như tĩnh lặng, không có dấu hiệu nào của thiên giới, vị lạt-ma
miệng tụng niệm từ từ leo lên đỉnh.Trên cao, một con chó già nằm phơi nắng. Nó
đã quá già. Không còn đủ sức để sủa. Mái điện thếp vàng chói ánh mặt trời vào
mắt Yahden như một tấm gương. Ông nhìn xuống bàn chân mình đã sưng lên vì cuộc
hành trình.Trong điện bỗng vang lên ba tiếng chuông, có một vị đệ tử nào của Văn-thù
vừa đánh lên. Như được tiếp thêm sức mạnh. Yahden lại tiếp tục leo lên.Khi sắp
lên bậc cuối cùng bỗng một người ăn xin cụt chân xuất hiện. Lão nhìn Yahden
bằng cặp mắt đầy gân máu, bò xuống bậc thang và thò tay ra xin bố thí.“Đáng tôn
thờ thay, cái duy nhất trong thiên hình vạn trạng”, lão ăn xin nói, nhưng xem
ra lão không hiểu mình nói gì. Yahden vội lấy một ít thức ăn trong túi cho lão.
Ông thấy một nụ cười rạng rỡ trên nét mặt người ăn xin mà từ ngày thầy mất đến
giờ ông chưa thấy lại.“Đáng tôn thờ thay, cái duy nhất trong thiên hình vạn
trạng và cái thiên hình vạn trạng trong cái duy nhất. Thứ nhỏ mọn này ta không
cần đâu”, người ăn xin kêu lớn và vẫn cười rạng rỡ, nụ cười làm vị Lạt-ma bỗng
tràn đầy hi vọng và tin tưởng. “Ta không can thứ nhỏ mọn này, ta cần tâm thức
trọn vẹn của ngươi”.
Bây giờ thì
Yahden biết rõ ai trước mặt mình. Trong phút giây đó thì hiện thân của Văn-thù
đã biến mất.Yahden nhìn quanh và nhảy từng bực thềm. Một lần nữa chuông điện lại gióng
lên 108 tiếng. Yahden không biết làm gì hơn là quì lạy bay nhiêu lần trước
tượng thờ Văn-thù. Trên mái điện chim kêu chiêm chiếp như muốn cười nhạo
Yahden.
55. Tursi về nhà
Khenpo Yonga là
viện trưởng viện Gemang ở Kham thuộc Tây Tạng và sống vào thế kỷ thứ 19. Trước
khi nhận nhiệm vụ này, ông đã được nhiều đạo sư điểm đạo trong đó được vị đại
sư Patrul Rinpoche, một đại sư xuất chúng của trường phái Đại Thành hướng dẫn.
Đại Thành là giáo pháp dạy cách trực nhận Chân như, vì vậy thực ra cũng không
thể gọi là giáo pháp, mà đúng hơn là một kinh nghiệm đảo lộn tận gốc rễ, chỉ có
hành giả thấy cái điều mà thật ra chẳng có gì bí ẩn cả.
Sau khi đắc
dạo, Khenpo Yonga có nhiều học trò, phần lớn là các vị Lạt-ma thông thái hay
các bạn đồng tu nam giới. Cũng có nhiều chuyện đáng kể xung quanh các vị này
nhưng không có chuyện nào kỳ lạ bằng chuyện của Tursi.Tursi là một cô gái đến
nghe Khenpo giảng pháp. Sau đó nàng hay đến tu viện Gemang nghe giảng rồi một
ngày kia nàng mang một cái lều đóng trước cửa tu viện, ngủ tại đó để sáng hôm
sau kịp thời nghe giảng đạo.Nàng rụt rè đứng xa trong điện, trong lúc các bạn nam
giới tranh nhau đặt câu hỏi để được Khenpo Yonga hay Tulku Mura trả lời mà các
vị này cũng là một đạo sư đắc đạo. Tursi quá rụt rè đến nỗi các Lạt-ma hay hỏi
han, chuyện trò hóm hỉnh để làm cho nàng mạnh dạn thêm. Nhưng mỗi lần như thế
nàng lại khóc, làm ai cũng nghĩ nàng quá yếu đuối hay ít ra nàng cũng không có
đầu óc hóm hỉnh khôi hài. Nhưng nhờ lòng thiết tha kiên trì với hai đạo sư
Khenpo và Tulku Mura mà nàng vẫn tiếp tục học hỏi trong tu viện được.
Một buổi sáng
nọ, lúc Khenpo Yonga vừa giảng đến Tính Không mênh mông vô hạn thì bụng Tursi
đầy hơi phát ra tiếng. Tất cả mọi người đều co người lại mà cười về cách trả
lời bình phẩm của con người đối với đạo pháp. Tursi tay ôm mặt khóc, xin Khenpo
tha tội. Vị đạo sư nhân từ tha thứ, lại khuyên rằng muốn hiểu và truyền bá đạo
pháp cần có một tâm hồn khoan khoái, không vướng điều gì cả. Ngài lại còn hóm
hỉnh cảm ơn Tursi về cách đóng góp ý của nàng cho buổi sáng.Sau buổi đó như
thường lệ, Tursi rút vào núi để tham thiền. Tu viện không tiếp tế hay cung cấp cho
nàng thực phẩm. Thế nhưng nàng cũng chẳng cần cả gia đình giúp đỡ, vốn cha nàng
là một thương gia giàu có. Nàng hầu như thoát ly khỏi gia đình, mỗi lần về thăm
nhà, nàng chỉ đóng lều ngay trước nhà mà ngủ.
Một lần nọ trở về,
nàng tắm sông trước khi vào nhà, lần đó có một người chăn cừu thấy nàng tắm.
Nàng rửa sạch thân thể theo đúng nghi lễ. Mẹ nàng nghe nàng tắm trần truồng
ngoài sông lấy làm lo ngại, bảo: “Con ta sống quá lâu xa gia đình, thật đáng lo
cho lối suy nghĩ của nó”.Cha mẹ nàng nghiêm khắc hỏi chuyện: “Con nghĩ sao khi mọi
người biết con tắm ngoài sông, mà không về nhà để tắm”. Tursi trả lời nhẹ
nhàng: “Hôm nay con tẩy sạch thân thể vì sẽ vào nhà cha mẹ lần cuối”.Mẹ nàng
ngạc nhiên khắc hỏi chuyện: “Con bảo sao, hôm nay con vào nhà sau bao năm không
chịu vào, chuyện gì thế?” Người cha vui mừng: “Con có lý do của con. Bao nhiêu
năm nay ta không mong gì hơn là con trở về nhà”.
Tursi vào nhà,
ở với gia đình suốt ngày. Tới tối nàng rút trong túi ra một cuốn sách, đặt lên
bàn thờ. “Sách này chứa nhiều lời khai thị quan trọng. Ngoài ra sách này đã
được Khenpo Yonga và Tulku Mura tự tay ban phép, nó chứa đựng nhiều năng lực
huyền bí”.Cha mẹ nàng đưa mắt nhìn nhau vì Tulku Mura vừa mất trước đó vài
ngày, hai ông bà muốn giấu tin này sợ nàng đau buồn. Tursi thấy cái nhìn đó và
nói: “Con đã biết Tulku Mura nhập diệt cách nay không lâu, chuyện đó con không
thể không biết. Cha mẹ sợ con biết chăng? Cha mẹ chưa biết thực tế thế nào.
Tulku Maru sống hay chết hoàn toàn như nhau. Ngài hiện diện trong tâm thức sâu
kín của con”.
Cha mẹ nàng gật
đầu, hai ông bà biết lời này nghe ra là phải nhưng họ chưa thâm hiểu.
Tulku nhắc lại về cuốn sách: “Không có gì quý hơn cuốn sách này. Hãy để trên
bàn thờ và quỳ lạy mỗi ngày để nhận được phước lành từ đó. Trước khi con ra đi,
cha mẹ mỗi người hãy để sách lên đầu và tha thiết cầu nguyện, cha mẹ sẽ thấy
không có gì mà không thực hiện được”.Cha của nàng vui vẻ làm ngay, nhưng mẹ nàng lấy cớ
đã nhận phước lành của hai vị đạo sư rồi nên không muốn làm. Người cha thuyết
phục, bà mẹ mới chịu làm. Sau đó Tursi đặt lại cuốn sách trên bàn thờ, với một
ấn quyết khó hiểu. Nàng ra khỏi nhà ngủ trong lều.Trong đêm đó, tuyết rơi mạnh. Sáng hôm sau, cha mẹ
tìm thì nàng đã biến mất. Cha nàng tìm mãi chỉ thấy áo trong áo ngoài của nàng.
Cuối cùng, trên một ngọn đồi nay tuyết, người ta thấy nàng ngồi nhập định, trần
truồng, tay bắt ấn của nữ thần Tara. Nàng đã chết.Người cha lấy làm lạ
rằng mình không hề buồn rầu mà lại có một niềm cảm khái vô biên. Con gái của
ông đã chết với ý thức toàn vẹn và đã vượt ra khỏi vòng tử sinh, nàng ngồi đó
với khuôn mặt khinh an và tỏ rõ khả năng của một kẻ đắc đạo, như kinh sách
thường mô tả.Xét kỹ thì người ta thấy vùng ngực nàng còn hơi ấm trong lúc tay
chân đã lạnh giá, đúng y như trong kinh sách Mật tông Tây Tạng viết. Đó là dấu
hiệu của sự hòa lẫn thần thức với Linh quang rực rỡ, ánh sáng này là hiện thân
của Pháp thân xuất hiện lúc thần thức vừa ra khỏi tấm thân xương thịt. Người
cha để nguyên xác con ngồi như thế trên đồi.Đúng lúc ấy, Khenpo Yonga đi cùng với một nhóm
người đến một tu viện gần đó. Người cha bắt gặp đoàn này và kể chuyện đêm qua.
Khenpo vội đến nơi thì Tursi đã ngồi trong tuyết trắng hơn 12 tiếng, như một
tượng Phật. Tới bây giờ mà da dẻ của nàng còn trắng hồng hào. Vị đạo sư và
nhiều dân làng dựng lều quanh đồi để theo dõi. Đến ngày thứ ba thì xác
nàng gục xuống và không còn dấu hiệu gì của hơi ấm và sức sống. Khenpo Yonga
nhờ các Tăng sĩ cho lập một bản thảo và bia đá tại chỗ, thường thì nghi lễ này
chỉ dành cho các Lạt-ma cao cấp nhất.Cuối cùng Khenpo Yonga chủ trì buổi lễ hỏa
táng và giải thích: “Thật ra thì từ ba năm qua, Tursi đã chuẩn bị nhập tâm thức
mình với Pháp thân. Bây giờ chắc chúng ta đều biết, sự ngây thơ của nàng không
phải là sự yếu đuối. Chỉ ai hoàn toàn tự nhiên và trong sáng mới có thể nhập
được với Pháp thân. Nàng chết tức là nàng trở về nhà. Đáng ca ngợi thay, hiện
thân của Tara, bạn đồng tu đã giác ngộ của chúng ta. Hãy đi theo nàng!”
Trong tro của
Tursi, các vị lạt-ma tìm thấy một đốt xương sống nguyên vẹn, có hình như nàng
ngồi trong dáng điệu của nữ thần Tara sắc trắng. Từ đó, đốt xương này được thờ
trong tu viện Gemang. Song song người ta lấy tro nàng bắt thành một bảo tháp tí
hon hình cái chuông và cũng được thờ tại đó.
56. Trừu, bò và dê
xin qui y
Ngày xưa có một
con trừu mập mạp, cùng với một con bò, một con dê và một số thú vật nuôi lấy
thịt khác, đang ăn cỏ trong sân một tu viện. Đúng lúc đó thì tu viện có khách:
một đoàn Lạt-ma ăn chay từ miền Nam đến nay và được tiếp đón niềm nở.Sau đó,
các vị khách nhận ra rằng trong tu viện này các vị Tăng sĩ ăn thịt, như thế là
không giữ đúng luật cấm sát sinh rồi. Cuối cùng hai bên tranh luận kịch liệt,
từ giờ này qua giờ khác. Con trừu tò mò đứng nghe bên cửa sổ.
Một lão lạt-ma
chủ nhà vừa nêu ý kiến: “Vùng miền Bắc lạnh lẽo này không trồng trọt gì được,
chúng tôi sẽ chịu chết đói nếu chỉ sống bằng cây cỏ. Đúng là đức Phật không cho
ta giết hại, nhưng nay chúng tôi chỉ ăn thịt thôi”. Lạt-ma của phe kia liền
đáp: “Nhưng các vị cũng thấy rằng nếu không giết động vật thì thịt đâu mà ăn!” Vị
Lạt-ma ăn thịt phản đối: “Thế thì các vị mang áo quần giày dép cũng bằng lông
thú này. Đó là không kể các vị mặc quần áo sang trọng bằng tơ lụa, trang hoàng
bàn thờ cũng bằng tơ lụa. Bộ tơ lụa không phải là nước mắt của hàng trăm kén
tằm hay sao? Rồi các tràng hạt bằng ngà voi của các vị, bao nhiêu voi chết cho
đủ để các vị làm tràng hạt?” Lý luận này buộc các vị Lạt-ma ăn chay phải chịu
thua. Phấn khởi, các vị ăn thịt nói tiếp: “Các vị hãy nghĩ đến vô số côn trùng
phải mất mạng dưới lưỡi cày bừa. Hay lúc tưới tiêu, hay lúc gặt hái, để cho
chúng ta vài can gạo hay ít hoa quả. Nên thà hy sinh mạng sống của con vật duy
nhất để duy trì đời sống của nhiều sinh vật còn hơn là để hàng triệu tỉ sinh
linh khác chết vì một miếng bánh mì?”
Con trừu nghe
đến đây lấy làm lo ngại. Tất nhiên nó không hiểu hết toàn bộ cuộc tranh cãi
này, nhưng tâm lo sợ của nó làm bật lên tiếng kêu be be. Ngoài tiếng trừu kêu,
con bò con dê cũng chạy lại và đứng dưới cửa sổ nghe ngóng.Một Lạt-ma nói:
“Nỗi đau khổ của loài hữu tình thật vô biên. Phần lớn người ta không ai
hiểu được tâm thức thú vật khi chúng bị giết để ăn thịt. Nhưng con người phải
chịu mọi hậu quả nó gây ra, dù nó không hiểu hết những gì nó làm”. Đến đây thì
một Lạt-ma trẻ tuổi đến bên cửa sổ, lẩm nhẩm: “Con xin qui y Phật, con xin qui
y Pháp, con xin qui y Tăng”. Các con vật đã nghe câu chuyện này nhiều quá và
cảm thấy phần nào yên tâm với lời này. Các con bò, trừu, dê tự nhủ: “Con xin
qui y với kẻ nào không sát hại con”. Chúng đã nghe nhiều lời thề nguyện và bộ
óc đơn giản của chúng thấm nhuần đôi chút.
Sau đó các vị
Tăng ăn chay ra đi. Vị Tăng trẻ tuổi nọ bước ra sân, nhưng các con vật bây giờ
không sợ sệt gì cả. Bên cạnh vị Tăng đó có ông con trai nhà nông đi cùng là
người chuyên giết thịt, thế nhưng các con vật đó không lo lắng gì.Vị Lạt-ma lầm bầm: “Án ma ni bát mê hồng”, mắt nhìn đàn thú dò xét. Nghe sáu tiếng này,
các con vật lấy làm yên dạ vì đó là thần chú đại bi, đó là một tư tưởng vĩ đại,
xuyên suốt mọi thứ.Con trừu
tự nhủ: “Cầu cho các vị an lạc, nhờ các vị mà ta được qui y Tăng, qui y với các
đệ tử của Phật”. Bỗng nhiên vị Tăng tuổi trẻ nọ đi thẳng vào con trừu và quay
người đi. Tên đồ tể liền chụp con trừu, cột bốn chân, lôi đi làm thịt.Con bò và dê
hoảng hồn. Chúng bắt đầu nghi ngờ vị Lạt-ma miệng tụng “Án ma ni bát mê
hồng”, chúng bắt đầu nghi ngờ pháp Phật. Sau một lúc, con bò nghĩ lại, tự nhủ:
“Tên trừu có lẽ quá hấp dẫn vì bộ lông và thịt ngon của nó. Nó cũng đâu xứng
đáng được qui y Tăng. Chắc vì thế mà vị Lạt-ma nọ phải hy sinh nó. Còn ta nay
chắc không nỗi nào, ta đã giúp các vị cày cấy năm này qua năm khác. Ta không
qui y Tăng đâu, trong Tăng cũng có đồ tể. Ta qui y Pháp, giáo Pháp của đức
Phật”.
Hồi sau, vị
Lạt-ma nọ lại ra sân, lần này ông chỉ thẳng vào con bò, miệng niệm chú đại bi
không ngớt. Con bò bị kéo đi làm thịt, kêu la thảm thiết. Con dê bắt đầu suy
nghĩ vè số phận của mình, về giáo pháp do các vị đang trao truyền.“May thay, ta là
kẻ hoàn toàn vô dụng. Sữa của ta thì cạn, da ta đầy sẹo, thịt ta đắng, đầy gân.
Kẻ nào vô dụng, kẻ đó may mắn. Ta xin qui y Phật, ngài là người cứu độ tất cả
chúng sinh, không phân biệt hữu dụng hay vô dụng”.Lạt-ma nọ lại ra sân và lần này tới phiên con dê.
Trong nhà làm thịt, ba con vật kêu la thảm thiết làm một con dơi phải tỉnh giấc
ngủ. Dơi treo mình trên sàn nhà, nhìn xuống đất đầy máu thịt và tự nhủ một cách
tỉnh giác: “Phật tính có sẵn trong ta là cái duy nhất cần qui y”.
Sau đó dơi nhắm mắt ngủ tiếp.
57. A-đề-sa giác ngộ
A-đề-sa(Atisha)
là con trai một lãnh chúa, sống trong một vương quốc tí hon tại miền Đông
Bangale. Ông sinh năm 980 và khi còn nhỏ đã nằm mơ thấy nữ thần Tara sắc lục
hiện ra và nói bằng một thứ tiếng không lời: “A-đề-sa (34), ngươi sinh ra không
phải để vướng bận đời sống thế gian. Trong 552 kiếp vừa qua, kiếp nào ngươi
cũng tìm kiếm chính quả. Trong đời này ngươi sẽ thành công. Ngươi sẽ giác ngộ
và cứu độ vô số kẻ tầm đạo”.
Không bao lâu
sau, A-đề-sa thệ nguyện làm Tăng sĩ và theo học với nhiều vị đạo sư thời bây
giờ. Đạo sư Mật tông Rahula đưa ông tới mức độ của một vị Acharya (giáo thụ).Người giáo thụ
trẻ tuổi này nổi tiếng là một nhà hùng biện, nhưng chàng biết rõ rằng, ăn nói
lưu loát và lối suy nghĩ có qui định sẽ không mang lại gì cả, nên chàng lên
đường tìm kiếm con đường ngắn nhất dẫn đến giác ngộ. Chàng tự nhủ: “Theo Bồ-tát
đạo thì muôn ngàn kiếp sau ta cũng không đắc đạo được. Bồ-tát lúc nào cũng quên
mình, chỉ lo tìm ánh sáng giác ngộ noi chúng sinh khác. Nếu thế thì ngàn năm
sau ta cũng còn quanh quẩn mãi trong vòng trói buộc của ảo giác”.
Chàng thanh
niên cảm thấy buồn rầu mệt mỏi. Chàng nằm trên ghế định ngủ thì bỗng nhỏm dậy,
nghe tiếng gọi của đạo sư. Chàng liền vội đến Rahula.Rahula nói: “Nghe này,
ta đã gọi con. Bất cứ sự đeo bám nào nơi cái ngã sẽ ngăn con không được hòa với
cái đó, với cái vô cùng đó, cái đã sản sinh ra từng cái ngã nho nhỏ. Dù
cho con có những thần thông ghê gớm, đầu óc con có phát triển một cách thiên
tài, con có thâm nhập thiền định sâu sa, và con có chứng được Niết-bàn, thì
chúng cũng chỉ là những con đường vòng, con đường gián tiếp. Con phải ngộ ra
rằng, cái gọi là cái tôi đó chỉ là một sự nhầm lẫn của tri thức, sự nhầm lẫn
này đã lặp đi lặp lại quá nhiều kiếp rồi. Sau đó con cũng thấy cái ngã nơi
người khác chẳng qua cũng là một sự nhầm lẫn của tri thức. Nhận ra thế nhưng
cũng đừng có coi trọng nhận thức đó, nếu không con lại rơi vào cái bẫy của ngã.
Hãy nhận ra cái vô cùng đó trong mỗi hiển hiện của nó. Con sẽ
thấy ở đâu cũng là nó. Hãy quên cái không thật để cái thật phơi bày. Con chính
là những gì con tìm thấy nơi người khác. Hãy thấy ánh sáng giác ngộ nơi
người khác, đó là con đường ngắn nhất để đạt giác ngộ của mình”.
A-đề-sa gật đầu
và cám ơn vị đạo sư. Thật ra thì chàng đã nghe qua lời này, nhưng khi nghe nó
từ lời một vị đạo sư, và biết rằng Rahula đã thấy ánh sáng nơi mình, lòng chàng
tràn ngập một tình thương không diễn tả được.
“Ai là người
thoát khỏi sự ràng buộc của ảo giác, ai là người nhập Niết-bàn”. Rahula nói
tiếp: “Cái người đó, người từ chối chuyện này để chạy theo chuyện kia,
người đó chỉ là kết quả tri thức đang tưởng tượng. Hãy nhớ rằng tri thức đó,
đang sử dụng một thứ nhị nguyên không bao giờ có thật. Cái an lạc nội tâm đang
hiện hữu từng giây phút trong con, trong tự tính của con. Kẻ nào cứ tìm tòi,
dòm ngó, kẻ đó đang quên những gì nó đang có, đang cùng nhìn ngó với nó”.
A-đề-sa lại gật
đầu hiểu ngộ như ngàn lần trước đó… nhưng lần này, chàng tự thấy thêm rằng,
kinh nghiệm là những gì chúng đến rồi đi, và vì thế chúng không phải là cái gì
thường hằng, không thể là cái gì đưa đến tri kiến về tự tính.Rahula trả lời:
“Không có gì để tìm cả. Tất cả điều đáng làm đang tự xảy ra trước mắt con.
Nhưng nếu con cứ muốn tìm một cái gì thì ta cho con lời khuyên như sau: Hãy tự
đồng hóa mình với đức Quán Thế Âm và hiểu rằng Ngài và con cũng chỉ là
một”.Nhưng tri thức là thứ không hề yên nghỉ, A-đề-sa vẫn cứ tìm con đường ngắn
nhất. Chàng thực hiện mọi phép thiền quán và siêng năng lui tới Giác Thành, là
nơi Phật Cồ-đàm thành đạo, đi nhiều vòng quanh tháp.Chàng vừa đi vòng thứ
một trăm quanh tháp xong và tự đồng hóa mình với Quán Thế Âm thì có hai phụ nữ
ở đâu lại gần, ngồi xuống và trò chuyện với nhau.Một bà nói: “Bà nghĩ sao,
làm sao đạt được giác ngộ nhanh nhất?” Chỉ nhìn thoáng qua, A-đề-sa đã biết hai
người này không phải tầm thường. Khuôn mặt rực sáng như được chiếu ánh sáng và
thái độ của họ biểu hiện một sự cao quý, chỉ có thể xuất phát từ một tâm hồn an
lạc sâu xa. A-đề-sa biết họ là sứ giả của một thế giới cao hơn, và họ nói với
nhau là để cho chàng nghe.Bà
kia cười đáp: “Quên mình là con đường ngắn nhất, còn đường nào khác? Bà bỏ quên
cái ngã và bỏ quên cái khổ. Chỉ còn một điều duy nhất đáng làm trên thế giới
này, đó là hãy hết mình phụng sự người khác”.
Ngày hôm sau,
A-đề-sa đang thiền định dưới gốc cây Bồ-đề trong Giác Thành thì một bà già ăn
xin xấu xí đến. Một kẻ cùi đi cà nhắc tới và bắt đầu chuyện trò với người ăn
xin. A-đề-sa không muốn nghe nhưng nội dung câu chuyện vẫn bám vào óc chàng:
người ăn xin giảng cho kẻ cùi nghe rằng, từ bi là con đường thoát khổ. “Hãy tự
đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, thay vì mong chờ người ta thông cảm và
giúp đỡ ngươi. Ngươi đang bị lòng ích kỷ của chính ngươi kiềm tỏa”, người ăn
xin nói.
“Thật là lạ”,
A-đề-sa nghĩ, “ ở đây xem ra ai cũng biết con đường giác ngộ và cũng phù hợp
với lời thầy. Chỉ có ta, có ta là còn nghi hoặc”.
Hôm sau,
A-đề-sa đi vòng xung quanh bảo tháp ở Giác Thành, tay lần chuỗi hạt, bỗng nghe
chim hót ríu rít. Chim vừa đậu xuống tổ được làm bên cạnh đầu gối của tượng
Quán Thế Âm. Chàng có cảm tưởng tiếng chim hót như nhắc lại thắc mắc của mình.
Và ngước nhìn tượng Quán Thế Âm, chàng nghe nét mặt bức tượng hầu như nói:
“Muốn nằm yên trong tự tính, ngươi hãy rũ bỏ mọi vướng mắc, mọi thành
kiến. Sau đó, dù nghe qua có mâu thuẫn, ngưoi hãy mang tất cả gánh nặng của chị
em ngươi, nếu thấy họ có lỗi thì hãy tha thứ hết cho họ. Chỉ có thế ngươi mới
tự giải thoát ra khỏi ảo giác của một cái ta, cái ta tưởng chừng nay tội lỗi”.
A-đề-sa đứng
yên như tượng, lòng tràn đầy tri kiến, thứ tri kiến chàng đã biết nhưng lần này
không còn một thứ nghi hoặc nào cản đường. Trong tâm chàng bỗng hiện lên một
linh ảnh: một người lạ nói với tình thương vô biên. Trên một vùng đất xa lạ,
người đó ngồi dưới bóng dừa và giơ tay vẫy A-đề-sa ngồi xuống bên cạnh.Một thời gian
sau A-đề-sa lên đường đi Sumatra, một hòn đảo nhiệt đới, nơi đó đạo sư giác ngộ
Serlingpa, vị thầy sau cùng đã đợi sẵn. Chàng ở tại đó 12 năm và được Serlingpa
truyền đạo cho, thường bằng tâm truyền tâm.Sau khi Serlingpa nhập diệt, A-đề-sa
trở thành truyền nhân, nắm giữ một phép bí truyền của Đại Thừa Phật giáo. Đó là
phép tonglen, được dịch là chuyển hoá. Đó là phép trong đó hành giả chấp
nhận cái năng lực tối tăm, thô bạo của sự ích kỷ của người khác, rút năng lực
đó vào trong tâm mình và biến nó thành con đường của lòng từ bi rực sáng.
Tonglen, một khi được hành giả thượng căn áp dụng là một phép chữa bệnh vô
song, nhưng đó là một phép tu khó khăn nên đến giữa thế kỷ 20 vẫn còn bí
truyền.
Trong những năm
sau đó, A-đề-sa trở về Ấn Độ và giảng dạy tại đại học Vikramaschila. Hàng ngàn
ngưòi đã được gặp ông và còn nhớ ông là người có những tri thức lạ lùng về con
người của chính họ. Lời tiên tri của nữ thần Tara đã thành sự thật và một ngày
kia, nhà vua Tây Tạng nghe đến tên tuổi và lòng từ bi rộng khắp của ông. Nhà
vua cử một đoàn sứ giả qua Ấn Độ, dâng cúng nhiều vàng bạc để mời cho được
A-đề-sa qua Tây Tạng.Mới đầu A-đề-sa xin cho được suy nghĩ, nhưng thực tế ông
không suy nghĩ gì cả, chẳng tìm lời câu trả lời gì trong tri thức của mình, mà
liên hệ với Quán Thế Âm và Tara để xin các ngài hướng dẫn.Tara bằng cách
nói không lời, cho biết Tây Tạng bây giờ và mai sau rất cần sự hiện diện của
A-đề-sa. Nhưng Tara nói thêm, nếu đi Tây Tạng A-đề-sa chỉ sống đến 72 tuổi, còn
nếu ở lại Ấn Độ thì thọ 92 tuổi. Sau đó A-đề-sa lên đường đi Tây Tạng, không
chút ngần ngừ .
Nhờ con ngưòi
này mà Phật giáo Tây Tạng được phục hưng, nhất là phép tắc quy luật của cả một
xã hội được chỉnh đốn lại từ gốc. Tại Tây Tạng, A-đề-sa được xem là vị đạo sư
của quy y, vì nhờ ông mà vô số người thoát khỏi được vòng vây hãm của ảo giác.
Năm 72 tuổi, ông rời thế giới này, trở về sứ xở của vô biên, đúng như Tara đã
tiên đoán.
58. Khu rừng đầy nữ
thần Tara
Cách nay hàng
chục đại kiếp có người đàn bà tên là “Ánh trăng trí tuệ”. Là một nữ Bồ-tát,
trong thời trẻ tuổi, bà đi rất xa trên thánh đạo, nhưng có nhiều vị tu sĩ nghĩ
rằng vẫn nên giảng dạy cho bà, mặc dù bà không hề muốn.
Một buổi sáng
nọ, Ánh trăng trí tuệ vừa ra giếng múc nước cho gia đình thì nhiều tu sĩ trờ
tới, nói: “Ánh trăng trí tuệ, người đàn bà thông minh đó và có nhiều khả năng
hứa hẹn. Vì vậy chúng ta khuyên ngươi cầu nguyện làm sao cho đời sau tái sinh
thành đàn ông để được giác ngộ hoàn toàn”.Ánh trăng trí tuệ lắc
đầu nói: “Cách phân biệt giữa nam-nữ hay giữa ta-người là đặc trưng của đầu có
biết phân biệt, nhưng không thoát khỏi tính chất nhị nguyên. Các ngưoi được gọi
là tu sĩ, hành giả đạo học, mà sao còn nói với ta điều đó được?”Nói xong, với
cử chỉ của một bậc thánh, nàng giơ hai tay lên trời, tự nguyện chỉ sinh làm nữ
giới và sẽ truyền bá giáo pháp cho đến lúc toàn bộ loài hữu tình thoát khỏi suy
nghĩ nhị nguyên.
Vài ngàn năm
trôi qua, Ánh trăng trí tuệ cứ tái sinh làm nữ giới cho tới một lúc bà đạt giải
thoát hoàn toàn và đạt cấp giác ngộ vô thượng. Kể từ đó bà được mang tên
“Tara”, dịch nghĩa “tinh tú”.Dân Tây Tạng gọi Tara là “mẹ của tất cả các vị
Phật” và gọi bà là “Đạo sư giải thoát”. Người ta cho rằng chính Tara, trong
thời kiếp hiện nay là người đã giúp một vị nam giới thành chính quả, vị đó trở
thành đạo sư được truyền tụng nhiều nhất. Người Ấn Độ gọi đó là Quán Thế Âm,
người Tây Tạng gọi là Chenrezig. Trong truyền thuyết Tây Tạng thì Chenrezig,
sau khi đắc đạo, lòng biết ơn Tara đến nỗi ngài thần đọc thần chú Tara đến
mười triệu lần, nhằm dùng âm điệu của thần chú Tara để giúp chúng sinh
trong khắp cõi xứ.Vì thế từ đó Tara được xem là nữ thần cứu độ “tám lỗi lo
và nguy hiểm”. Người ta kể ra hàng ngàn câu chuyện liên quan đến mật chú Tara,
với sự rung động cứu độ của ngài ban phát. Một thương nhân Tây Tạng kể một bức
tượng Tara nhỏ ông thường mang theo đã cứu ông khỏi bị trâu húc. Một Lạt-ma
khác kể, hình của Tara đã có lần cứu ông thoát chết vì một viên đạn.
Một chuyện khác
kể về thành phố Mathura ngày xưa, trong đó có khoảng 500 tăng và ni tu học tại
đó. Điều này làm một tên quỉ sứ không vui và y tìm cách phá các hành giả thiền
định.Tên quỉ này bắt đầu nghiên cứu nhược điểm từng ngưòi một và y sẽ hiện ra
trong dạng mà mỗi hành giả sợ hãi nhất. Đối với các trí thức học giả thì quỉ
nhỏ to rằng thiền định sẽ dẫn tới điên loạn và mất trí nhớ. Một vị Tăng sĩ rất
dễ thương hiền hậu thình lình trở lên cộc cằn thô lỗ. Các vị khác thì sa vào
thói rượu chè hay ác kiến. Các vị kiên trì nhất thì bệnh hoạn, thiếu tinh tấn.
Không bao lâu sau, không còn ai trong Mathura thực hành thiền định, tu học Phật
pháp mà không bị những hiện tưọng kỳ dị theo đuổi.Sau đó, một vị sư già bỗng nhớ lại ngày xưa thầy
mình có dặn dò một điều. Lời dặn đó khuyên rằng, khi tói một mức sâu của thiền
định thì phải nên tự buông mình và đồng thời cầu xin Tara giải thoát ra khỏi ác
kiến của ma quỉ.Vị sư thực hành điều dặn dò đó và được Tara hiện cho thấy
linh ảnh và khuyên phải làm các phép. Vị sư liền tụ họp các bạn đồng tu, yêu
cầu các bạn đó mang lại tranh tượng của Tara, gồm 21 dạng khác nhau. Từ mọi đền
đài, tu viện tranh tượng của Tara được dồn lại và cả hàng trăm vị tu sĩ đi vào
rừng, treo tranh tượng đó lên cây.Kết quả không phải chờ lâu: kể từ lúc đó tên
quỉ muốn hiện hình gì thì hiện, nhưng các vị hành giả thiền quán không hề lay
động, các vị đó cứ xem mọi hoạt động của ma quỉ đều là một dạng xuất hiện của
Tara. Với cách đó thì họ không bao giờ phải sợ hãi và không có hậu quả nào xảy
ra. Tên quỉ nọ cũng không làm gì hơn được, vì trong tự tính sâu xa nhất, nó
cũng chỉ là một dạng xuất hiện của Tara thật, của một Tính Không viên mãn hoàn
toàn. Cũng nhờ đó mà tâm thức tên quỉ cũng từ từ rời bỏ tính chất quỉ của y,
không còn tự đồng hóa với dạng hình của quỉ và dạng quỉ đó chết đi, để tâm thức
tái sinh trong một cõi khác và để vùng rừng vĩnh viễn an vui.
Sau đó không ai
ngạc nhiên khi cuộc sống dân chúng trong Mathura phồn vinh hẳn lên. Trong vùng
đó người ta còn ca bài “hai mươi mốt bài ca dành cho Tara”. Đến ngày nay mà các
bài ca trung cổ đó còn được hát trong các đền đài hay tu viện nữ giới.
59. Người con mù của
vua A-dục
Hai trăm năm
sau ngày Phật Cồ-đàm nhập diệt, một viên tướng tên là A-dục (Ashoka) nắm quyền
lãnh đạo Ấn Độ. Là một vị vua nay uy quyền, ông thống nhất sứ xở chia năm sẻ
bảy, cho xây đường xá, đào giếng, bệnh viện nhà nghỉ và nhất là bảo tháp, đền
miếu, mà ngày nay người ta vẫn còn xem là một trong những công trình to lớn của
con người. Mới đầu A-dục vương (35) là một con người hiếu chiến, nhưng về sau
ông được một Tăng sĩ Phật giáo khuyên nên theo chủ trương hòa hiếu, bất bạo
động. Nhà vua gặp vị Tăng sĩ này lần đầu trên đường đầy bụi bặm và thấy xót
thương. Nhưng khi tới gần, ông nhận ra ánh sáng an tịnh trên khuôn mặt vị tu
sĩ, và ông thấy nơi người du khất này một cái gì mà một quốc vương như ông tìm
kiếm lâu ngày chưa được.
A-dục gia nhập
tăng đoàn và bắt đầu thiền định. Ông đi sâu vào giáo lý của Phật và nhiều lần
hành hương đến thăm cây Bồ-đề tại Giác Thành, một gốc cây thánh vì đây là nơi
Phật Cồ-đàm thành đạo. Trước đó không lâu, vua A-dục lấy vợ, nàng tên là Tisja
Rakscha. Vị hoàng hậu này không vui khi thấy nhà vua cứ đến tham vấn Tăng đoàn,
không quan tâm đến nàng.Tisja Rakscha cảm giác bị bỏ bê và ghen tức đến mức nàng
sai cận thần ghi chép giờ giấc nhà vua đến Giác Thành bao nhiêu và thời gian
dành cho nàng bao nhiêu. Cuối cùng khi so sánh, nàng giận dữ tới mức sai cận
thần cho đốn chặt cây Bồ-đề. Cây đó bị chặt thật nhưng lạ lùng thay, qua ngày
mai nó lại mọc lên như cũ.Sau đó Tisja tìm mọi cách quyến rũ người con trai lớn
của A-dục. Thái tử Kunala là con ghẻ của nàng và là người thừa kế ngôi cha.
Nhưng Kunala biết rõ âm mưu của nàng lên thẳng thừng từ chối. Vị hoàng hậu trẻ
tuổi hậm hực và quyết báo thù hai cha con.Nhân dịp nhà vua lại đi thăm đền ở Giác Thành,
hoàng hậu âm mưu với triều đình bắt tội Kunala nhốt vào ngục, bộ hạ của nàng
lẻn vào ngục khoét mắt chàng.Không ai cứu chàng kịp, chàng trở thành mù lòa.
Trong cơn tuyệt vọng, chàng nhớ lời một vị hiền nhân đã già nói cách đó nhiều
năm: “Không có gì trên đời này là thường hằng. Bất cứ điều gì ngươi sẽ có, rồi
nó cũng sẽ mất. Vì vậy hãy giữ những gì mà ngươi là, và lúc đó những cái mất
lớn nhất sẽ trở thành những cái được lớn nhất”.
Cai ngục lấy
mất ánh sáng của mắt chàng thì ngay lúc đó ánh sáng trí tuệ bùng lên và Kunala
thấy tất cả sự vật đúng như chúng là, vượt ra ngoài thông thường cảm nhận của
thế gian. Bây giơ chàng biết vị hiền nhân nọ đã biết trước số phận của chàng
nhưng không ra tay cứu giải.Càng lúc, Kunala càng đi sâu vào thế giới bên trong
và để mặc cho trời đất muốn xử sao với người có tội cũng được. Chàng không cần
khai báo gì cả vì A-dục không bao lâu sau đã biết ai là người gây tội khoét mắt
con mình và cho Tisja Rakscha hưởng hình phạt xứng đáng.
Kunala rời bỏ
ngai vàng và nhường ngôi cho con trai làm vua Ấn Độ. Sau đó ông rút vào rừng
miền Tây Bắc, sống như một tu sĩ và an nhiên tu tập thiền định. Cuối cùng,
chàng đối trị được lòng sân hận luôn luôn quay trở về trong tâm và hoàn toàn xả
bỏ. Rồi cũng tới ngày mà chàng cảm tạ Tisja Rakscha về hành động xấu ác đó, vì
cũng nhờ đó mà chàng mở được con mắt trí tuệ và lên ngôi vua của sứ xở nằm ngay
trong tâm mình. Từ một con người mù loà Kunala đã sinh ra một bậc A-la-hán có
thiên nhãn, một bậc hiền nhân. Vô số con ngưòi đã tìm được an ủi và sự cứu độ
với vị đó.
60. Đạo sư với khẩu
súng
Cách nay khoảng
trăm năm có một đại hội gồm toàn các vị Tăng sĩ và tu sĩ cao cấp tại Đông
Tây Tạng để cùng nhau cầu nguyện. Các vị đó cử hành một nghi lễ Mật tông quan
trọng ngoài trời, bên cạnh một khu rừng rậm. Tất cả mọi người đều nhìn theo vị
chủ lễ, ông tụng niệm và đọc thần chú, sau đó mọi người lặp lại.Bỗng một tiếng
động khả nghi làm một vị lạt-ma đứng hàng sau cùng phải xoay người lại. Ông nín
thở, trong lúc đó thì cả nhóm người cảm giác bất an khó chịu. Tất cả đều quay
người nhìn phía cánh rừng, hầu như họ bị một năng lực gì hấp dẫn mạnh mẽ, hơn
cả năng lực muốn hoàn thành buổi lễ.Giữa các cành cây là một người đàn ông mặt mày khó
chịu, trên tay cầm một khẩu súng cũ, mắt nảy tia máu nhìn trừng trừng các vị
Tăng sĩ. Sau lưng ngưòi đó là lố nhố một số người, tay cầm súng, mặt mày khó
ưa.Vị chủ lễ nghe ai kêu một tiếng nhỏ. Ông đứng dậy đi về phía người đầu đảng
rồi bỗng nhiên phủ phục năm dài xuống đất ba lần, tỏ dấu tôn quý nguời đó. “Doe
Khyentse Rinpoche”, ông kêu lớn, giọng đầy cảm phục. “May mắn thay, ngài đến
với chúng con ở đây. Ngài có làm gì thì chúng con cũng biết từ nơi ngài toát ra
trí huệ và từ bi. Xin đến ngay. Nhưng xin ngài và các vị hãy để súng xuống để
ban phước lành cho chúng con theo cách bình thường”.
Vị chủ lễ quì
xuống, cúi đầu về phía người đàn ông nọ để xin phước lành. Bây giờ thì cả nhóm
đều biết đang hiện diện ở đây một vị đại sư xuất chúng, nhưng cũng đáng sợ
nhất, đó là Doe Khyentse, một vị tu sĩ đắc đạo khác đời. Vị này giết thú vật,
ăn thịt, uống rượu và dộng đầu học trò cho đến lúc họ giác ngộ mới thôi. Ngay
cả Patrul Rinpoche, vị đại sư vô thượng của phía Đại Thành trong thế kỷ 19 cũng
được đối xử như thế. Doe Khyentse đã chụp lấy chàng Patrul đúng lúc, tấn công
chàng và cho chàng một kinh nghiệm giác ngộ không bao giờ quên.Cả đám Tăng sĩ
hết sức hồi hộp không biết vị đạo sư khác đời này sẽ làm gì đây. Họ nín thở
ngồi nhìn Doe Khyentse. Thay vì để tay lên đầu chủ lễ để ban phép, Doe Khyentse
chỉa khẩu súng lên mây, bắn một phát.Tiếng nổ làm chủ lễ choáng người. Ông và cả đám co
người lại, trong đầu trống rỗng, bị ném lui vào tự tính, vốn không hề có luật
gì cả. Kẻ nào lưu trú được trong trạng thái này, kẻ đó có thể thấy sự vật không
bị biến chiếu của đầu óc che đậy. Trạng thái này được gọi là Đại ngộ.Vị đại sư
nhìn sơ qua đã biết ngay trong đám ai là kẻ đã tỉnh giác và giác ngộ, ai là
người còn cần vài tiếng súng nữa. Vị chủ lễ vẫn quì, mắt nhắm nghiền và mỉm
cưòi như một vị Phật. Một vị Tăng khác được đánh thức, cười mãi không thôi. Một
vị thứ ba khóc vì sung sướng. Nhiều vị khác xem ra không thay đổi gì cả. Nhưng
mắt một vị đại sư là mắt thánh nhân, Ngài thấy hết. Ngài xoay người đi thẳng
vào rừng, không nói một tiếng, trước khi cả đám người làm ngài phiền nhiễu bằng
những lời cám ơn.
Tại sao Doe
Khyentse lại sống như một dị nhân trong rừng trong núi? Nhiều ngưòi trong đám
đó tự hỏi như thế sau khi ngài bắn phát súng bỏ đi. Câu trả lời là câu hỏi
ngược lại: Ai biết được điều đó. Đạo lộ của những thánh nhân thì không thể thăm
dò tới nơi.
61. Người vợ thích
hợp
Một vị Lạt-ma
thực hành thiền định và bỗng thấy xuất hiện một linh ảnh. Ông cầu mong được chỉ
giáo những gì phải làm trong giai đoạn sắp tới và linh ảnh chỉ rõ ông
phải làm gì.Vị Lạt-ma gọi ba người thân nhất đến và nói: “Ta phải tìm cho
ta một bà vợ thích hợp, một người đàn bà mà ta cùng nàng đạt tri kiến toàn vẹn.
Linh ảnh vừa báo cho ta biết nàng đang ở trong một thung lũng gần đây và đang
đợi ta”.
Ba đệ tử này
gật đầu nhưng hơi ngạc nhiên về thầy mình, vì ông áp dụng phép Mật tông này xem
ra quá trễ. Đó là phép tu Tantra, trong đó người đàn ông tìm được chính mình
nơi ngưòi đàn bà và ngược lại.Vị Lạt-ma mô tả người đàn bà như sau: “Hãy đi từ
thung lũng này qua thung lũng khác và kiếm cho ra nàng, đó là nữ hoàng của Trí
tuệ uyên nguyên, hiện thân làm người. Nàng này năng lực huy hoàng như
năng lực thiên nhiên, nhưng năng lực đó bị che kín. Hãy đem nàng đến cho ta,
nàng chỉ đợi một dấu hiệu từ phía ta”.
Trong lúc các
học trò đi tìm kiếm thì vị Lạt-ma hầu như liên tục thiền định trước bàn thờ.
Sau ba ngày thì ba Tăng sĩ nọ về nhà tay không.“Đâu, người bạn đồng hành của ta
đâu, người chỉ dành riêng cho ta?”, đạo sư hỏi ngay.
“Chúng con tìm
hoài mà không thấy ngưòi đàn bà như thầy mô tả, dù gần giống cũng không có”,
học trò trả lời rụt rè. “Chỉ có một người đốn củi tồi tàn xấu xí, tuổi đã trung
niên, nhưng có sức mạnh của trời đất ban cho. Nhưng bà ta một mắt bị mù, mặt
mày dơ bẩn, tay vung một con dao đã cũ, ai nhìn cũng phải sợ. Bà ta không cho
chúng con lại gần, không sao nói chuyện được. Ngoài ra không thấy ai nữa cả.”
“Đúng bà ấy
rồi”, vị Lạt-ma kêu lên mừng rỡ, học trò ngớ người đứng nghe. “Người đó, các ngươi
chỉ thấy dạng ma quái của người, đó không ai khác hơn là vị nữ thần một mắt
Ekajati trong nhân trạng, vị nữ thần có thân một bên là nữ, một bên là nam; và
chỉ một mắt, vì nàng chỉ nhìn thấy nhất thể. Hãy đem nàng đến ngay cho ta. Hình
dáng nàng thế nào cứ mặc”.
Các học trò lo
ngại không biết làm sao nói với bà già. Cuối cùng họ cũng làm được một điều là
trao quà cưói của thầy cho bà đó. Quà gồm có một tấm khăn trắng mà bà già chỉ
sờ một cái rồi để qua một bên.Ba ngày hôm sau, vị Lạt-ma thân hành đến lều bà
già, trong đó bà già sống độc cư từ nhiều năm nay với một con trâu và một con
dê. Vị lạt-ma chỉ nhìn vào mắt bà đã biết, bà chính là một nữ thần của trí huệ
uyên nguyên. Ông kính cẩn cúi đầu ba lần trước hình dạng tồi tàn này và xin bà
hãy truyền cho phép tu, phép này không thể dùng văn tự mà diễn tả được.
Rồi bà già đốn
củi thành hôn với vị Lạt-ma, cuộc đời họ hầu như nở hoa và ngày càng giàu có,
cái giàu có không đo bằng vàng bạc. Và không phải chỉ có vị Lạt-ma mới được
hưởng lộc này. Bất cứ ai chấp nhận được năng lực của vị nữ thần này lúc bà hiện
diện thì đều được truyền cho những tri kiến và cảm khái vô tận.
62. Người kên kên
Một tu sĩ ngồi
trong thế liên hoa bên cạnh một nhà chứa xác và thiền quán về tính chất vô
thường của sắc thân. Xung quanh toàn là thân người chết, chân tay ngổn ngang.
Đó là thời xa xưa, lúc người ta chưa hỏa thiêu hay chôn cất, vì tại Tây Tạng,
gỗ là của quý và mùa đông hầu như không kiếm ra. Ngoài ra người ta còn tin
rằng, khi cho xác mình để thú vật ăn thì đó là hành động bố thí tốt đẹp cuối
cùng của đời người.
Một đàn chim
kên kên bay lại, xem ra vui sướng với xác người. Đó là những con chim khổng lồ,
đen từ đầu đến chân, kêu quang quác bên cạnh xác ngưòi làm vị tu sĩ khó lòng
nhập định. Tu sĩ tức giận lấy một viên đá ném trúng cánh một con chim, vài sợi
lông đen rơi lả tả.Đàn chim bay lên cao. Sau khi sự yên lặng trở lại, người tu
sĩ bắt đầu tụng Kinh, giọng tụng ngân nga cầu siêu cho người chết, truyền cho
người chết cái ấm áp tâm thức và năng lực sống của mình.
Vài tháng sau
người tu sĩ du hành một mình qua một vùng núi non ít người ở. Ông đang tìm cách
khất thực, dồn ít thức ăn để có thể thiền nhập hai tuần liền không phải gián
đoạn. Từ xa ông thấy cái làng nhỏ với vài mái lều đá. Ông đang đói ghê người,
tưởng tượng dân làng toàn những ngưòi chăn trâu mộc mạc sẽ coi trọng một tu sĩ
như ông và sẽ dâng cúng nhiều thức ăn.Gần đến nơi, ông đánh trống rung chuông và tụng
đọc kinh Chod, kinh cúng dường, trong đó tín đồ mang cả thịt xương của chính
mình ra cúng, nhằm chứng tỏ mình không còn bị trói buộc nơi sắc thân này
nữa.Vừa tụng ông vừa gõ cửa lều đầu tiên. Cửa mở. Lời tụng của vị tu sĩ im bặt.
Trước mắt ông là một người đàn ông cổ dài, gầy nhom, giương đầu ra như một con
kên kên tìm mồi. Thân người ông quấn trong một cái áo dài rách mướp, tay cầm
một cục đá to.“Chính ngươi,
đồ tu sĩ giả mạo”, ngưòi đó gầm gừ. Trước khi người tu sĩ nói được điều gì,
người đó vén áo qua một bên, cho thấy vết thương trên áo chưa lành. “Xương vai
ta bây giờ còn đau! Hãy im ngay cái bài tụng cúng dường đó, nếu không ta đập
ngươi ngay tại chỗ và sẽ ăn thịt ngươi ngay, kể cả ruột gan phèo phổi”.
Người đàn ông
nói xong rụt đầu lại, xong lại nhanh như chớp giương đầu ra như muốn mổ vào mặt
tu sĩ. Ngưòi tu sĩ sợ hãi thụt lui vài buớc, nhưng bây giờ người đàn ông bỗng
mỉm cười thân thiện, nheo một mắt. Sau đó ông đóng cửa lại đánh rầm. Người tu
sĩ hôm đó ôm bụng đói đi ngủ, ông chịu nhịn và tâm ông quanh quẩn với câu hỏi:
“Một con kên kên phải chăng có thể biến thành thầy dạy và ngược lại? Hay đó chỉ
là phản chiếu của tâm ta? Dù tất cả đều do tâm tưởng tượng, phải chăng đó cũng
là một bài học? Người kên kên đó thực tế là ai? Và nhất là: ta là gì, ta là ai?”
63. Doe Khyentse la
mắng tử thi
Doe Khyentse đã
cứu độ vô số người, thường bằng những phương thuốc kỳ khôi nhất. Một trong
những học trò đặc biệt của ngài là Dodrup Chen đệ nhị (22), thân tái sinh của
Dodrup Chen đệ nhất, mà vị này lại là thầy dạy của Doe Khyentse. Dodrup Chen đệ
nhất mất năm 1821. Vài chục năm sau, tâm thức từ bi của ngài trở về trái đất và
được các Lạt-ma cao cấp nhận biết. Và số phận kỳ diệu đưa đẩy, chàng Dorup Chen
thứ hai lại theo học với Doe Khyentse vốn ngày xưa là học trò của mình.
Một vị tái sinh
thường chỉ cần ít thời gian để phát huy lại khả năng sẵn có của mình và vì vậy
thường làm cho thầy bạn xung quanh kinh ngạc. Dorup đệ nhị là một trong những
thần đồng, với sự hướng dẫn đúng đắn, có thể phát triển nhanh chóng và sớm đạt
những điều then chốt trong đời.Dorup đệ nhị là một thanh niên trẻ khi chàng vừa
thiết lập một tu viện Dorup Chen tại Golok. Tất nhiên người ta đã hướng dẫn
chàng thành Tăng sĩ và nghĩ vị tái sinh của đạo sư phái Đại Thành sẽ thành viện
trưởng. Thế nhưng, dù có nhiều người thất vọng, chàng cương quyết từ chối,
không theo qui định Tăng sĩ, không chịu mọi hạn chế gì nữa. Tuy thế người ta
vẫn một lòng tin nơi vị tái sinh trẻ tuổi mặc cho chàng từ chối, tu viện vẫn cứ
để chàng yên.Tới lúc Dorup đệ nhị lấy vợ và lui tới với vợ ngay cả trong viện
thì tu viện mới mời chàng đi nơi khác, mặc dù ai cũng biết chàng trai này có
nhiều quyền thuật và nhất là biết cách truyền tâm thức cho người chết lên một
cõi cao hơn, giỏi hơn bất cứ người nào.
Sau đó, Dorup
đi Dartsay-Doe, một thị trấn gần biên giới Trung Quốc và trở thành đạo sư của
lãnh chúa vùng đó. Thời gian sau, một bệnh dịch lan tràn làm nhiều người chết.
Dorup Chen liền tìm mọi cách có thể để tìm hiểu nguyên nhân và chận đứng dịch
bệnh. Cuối cùng, không có kết quả, chàng dùng phép Tonglen(36), thời đó
là một bí truyền. Với phép đó, hành giả tự đặt mình vào người bệnh và rước bệnh
qua mình.Bệnh dịch biến mất nhưng Drdrup Chen bây giờ mang bệnh đậu mùa. Trước khi
chàng chết, nhiều vị Lạt-ma của tu viện DodrupChen ngày trước tới bên giường,
dường như muốn tiễn đưa người bạn đồng môn lần cuối. Thực tế là các vị đó đến xin
Dodrup Chen khi chết đừng biều diễn thần thông gì, đừng tỏ vẻ gì là một vị đắc
đạo, để tu viện khỏi mang tiếng xấu đã đuổi một vị đắc đạo ra khỏi cửa, chỉ vì
ngày xưa chàng xử sự không đúng phép tắc.Dodrup gật và hứa với các vị Lạt-ma
điều đó. Các vị sắp sửa lên đường về Golok thì dân vùng thị trấn Dartsay-Doe
xin các vị ở lại vài ngày để làm lễ an táng cho Dodrup với đầy đủ nghi thức.Không bao lâu sau triệu chứng sắp chết
xuất hiện. Dodrup thân nóng hổi, lăn qua trở lại trên giường bệnh. Chàng cào
cấu khắp nơi và cuối cùng chết trong sự kiệt sức.Các vị sứ giả của tu
viện Dodrup Chen cúi đầu xấu hổ. Các vị tỏ vẻ tiếc tuổi chàng chết quá sớm,
nhưng thực tế là vui mừng vì tu viện không phải mang tiếng xấu. Họ vừa định ra
khỏi phòng, định làm một lễ hỏa táng nhỏ thì bỗng nhiên Doe Khyentse tung cửa
đi vào. Như mọi lần, lúc nào ngài cũng mặc áo da và cầm một khẩu súng trong
tay.Các vị Lạt-ma sợ hãi bước lui một bước nhưng Doe Khyentse không thèm nhìn
tới. Ngài đã hiểu ngay sự tình, đưa mắt nhìn tử thi, hỏi lớn: “Hê, ngươi nghĩ
thế nào đây. Thật sự ngươi muốn là một tên lây bệnh vô tích sự nằm chết ở đây
hay sao?” Doe Khyentse bật lên tiếng cười và nói tiếp: “Nghe đây, không một đạo
sư Đại Thành nào của trường phái chúng ta lại chịu chết như ngươi cả. Nào, ngồi
đây, ngồi đây ngay ngắn xem. Hãy bày tỏ sự thật của nội tâm ngươi.”
Tiếng quát tháo
của Doe Khyentse làm mọi người chạy đến. Họ chen chúc bên cửa và chứng kiến một
chuyện lạ.Doe Khyentse nhìn tử thi la lối lần nữa. Một phút trôi qua mà chưa có gì
xảy ra. Bỗng nhiên xác chết nhảy dựng lên, tréo chân ngồi theo thế liên hoa,
nhấc bổng khỏi đất khoảng nửa mét. Quanh đầu người chết, ánh sáng ngũ sắc tỏa
ra, có tiếng nhạc êm dịu hầu như phát ra đâu đó. Trong vòng một dặm, không gian
hầu như biến đổi, có những rung động kỳ lạ, thiên giới hình như nghiêng mình
xuống chào hỏi. Các người hiện diện bắt đầu nức nở. Doe Khyentse vỗ tay, tiếng
vang như sấm.
Sau đó tu viện
Dodrup Chen nghe tin này, họ nửa cười nửa khóc. Dodrup Chen đệ nhị đã chết như
một vị đại sư đắc đạo và được an táng đúng nghi thức, dù cho các bạn đồng môn
không hề biết hết sự đóng góp của người chết.
64. Nha sĩ Tây Tạng
Tu viện Sera
gần kinh đô Lhasa Tây Tạng là một tu viện lớn nhất thế giới cho đến năm 1959.
Có lúc tu viện này chứa hơn bốn ngàn Tăng sĩ. Nhiều vị Lạt-ma và y sĩ (Geshe)
ngày nay còn sống đều đã tu học trong viện này. Thubten Yeshe cũng tu tại đó,
ông là Lạt-ma đầu tiên nhận học trò người phương Tây.
Lúc lên mưòi
bốn, Thubten Yeshe chỉ là một tiểu tăng trong viện, có lần bị đau răng kinh
khủng. Hàm chàng sưng vù lên, không ăn không nói gì được, cuối cùng chàng được đưa
tới một vị hiền nhân trong viện để chữa.Thubten Yeshe miễn cưỡng vào trong một
góc nhỏ rách nát của viện, trong đó có một vị Tăng già sống đã lâu, nghe nói
ông yên tâm hơn nếu người ta gửi chàng đến một y sĩ có học hành đàng hoàng, vừa
có kiến thức y khoa, vừa có tu học tâm linh, phối hợp với nhau mà chữa cho
chàng. Nhưng thời bấy giờ chưa ai có ai học ngành răng cả, vì thế mà Thubten
đành phải tới cụ già nhà quê này.
Cụ già hầu như
cả mấy năm không tắm gội, trông rất dơ bẩn. Cụ cười chào chàng thân thiện, mời
chàng uống trà nóng và miệng lẩm bẩm thần chú gì không rõ.Nhìn chén trà, Thubten Yeshe
muốn lợm giọng. Răng chàng lúc đó lại càng đau nhức dữ dội, chàng thấy không
còn giải pháp nào khác. Thubten quỳ xuống tấm thảm bẩn thỉu và để chén trà lên
môi. Cụ già bỗng nhoài người ra, thổi vào chỗ đau bằng một hơi thở không lấy gì
thơm tho.Thubten Yeshe muốn nhảy dựng lên vì ghê tởm, nhưng chàng cắn răng ngồi
yên không phản đối. Cụ già thổi ba lần như thế. Sau đó Thubten Yeshe ra về,
nghe dặn ngày mai phải đến lại nữa. Một tuần liền, cụ già thổi chỗ sưng nhức đó
chỉ bằng hơi thở của mình.
Tới ngày thứ
bảy thì chỗ viêm đó nứt và chảy mủ ra. Cụ già cười vui thích, thổi mạnh lần nữa
và sau đó chỗ viêm biến mất. Vài giờ sau thì Thubten Yeshe hoàn toàn bình phục,
còn cái răng thì vẫn nguyên vẹn không phải mổ.Trong năm đó tiếng đồn
vang xa, nhiều y sĩ xem xét thấy vết sẹo còn sót lại trong miệng chàng. Sau đó
một ngày kia vết sẹo cũng biến mất. Thì ra Lạt-ma Thubten Yeshe đã tự phát
triển khả năng chữa bệnh năm ngay trong người mình. Ngài cũng đã truyền phép đó
cho nhiều người tầm đạo phương Tây. Sau đó ngài mất đi trong sự tỉnh giác hoàn
toàn và cách đây không lâu, tái sinh lại nơi một vùng đất xa, đó là nước Tây
Ban Nha.
65. Vị toàn năng bất
tử
Kangyur
Rinpoche là một đại sư của phái Đại Thành, sinh tại Riwoschee, miền đông Tây
Tạng, cuối thế kỷ 19. nhiều đại sư thời đó đã truyền cho ông nhiều tri kiến
riêng. Suốt nhiều năm, ông thực hành thiền định, viễn ly. Nhờ đó ông có thể
tiếp nhận được nhiều giáo pháp của nhiều đạo sư vô hình. Sau khi tu học đựoc
một loạt các giáo pháp đã thất truyền và tìm kiếm một số bí lục cất giấu trong
vùng rừng núi Tây Tạng, ông được xem là người “tìm của báu”.Năm 1975 ông mất
trong tu viện mà ông đã sáng lập tại Darjeeling.
Trong thời niên
thiếu, chàng Kangyur Rinpoche nghe các mẩu chuyện về một vị toàn năng
(Shiddha), sống hoang dại trong rừng núi Tây Tạng và đã đắc đạo từ mấy năm
trước, nhưng lại không rời bỏ thế giới và từ bỏ tấm thân tứ đại này. Người ta
đồn rằng, vị đạo sư hoang dại đó được Yeshe Tsogyal (37) thân truyền cho kinh Bát-nhã
ba-la-mật(38) cách đây mười một thế kỷ. Bà truyền cho vị này bằng cách đọc
nhỏ vào tai, theo cách truyền giáo của thời đó, thầy đọc cho trò nghe khi tới
thời. Yeshe Tsogyal lại là học trò nữ xuất sắc của Liên Hoa Sinh và đựoc Liên
Hoa Sinh đích thân truyền cho kinh Bát-nhã ba-la-mật.Kangyur nghe chuyện vị
toàn năng hoang dại này một cách khâm phục, và ngược lại với nhiều ngưòi khác,
chàng tin có thật. Chàng cùng với một người bạn thân, một Lạt-ma trẻ khác, tìm
hiểu về vị toàn năng nọ, nhưng không ai trả lời rõ vị đó bây giờ bao nhiêu
tuổi, sống ở đâu, có ai gặp chưa. Người ta chỉ biết, nếu có thật thì vị ấy tất
già và lui tới đâu đó trên miền núi cao Đông Tây Tạng.Hai vị tin tưởng và quyết
lên đường tìm vị toàn năng huyền bí nọ và sẽ xin ngài đích thân truyền cho bài
kinh đó.Cả hai vừa tụng đọc vừa kéo nhau vào rừng, mang theo thực phẩm và y
phục mùa đông cho nhiều tuần. Kangyur không có chút nghi ngờ gì mình sẽ đạt
được mục đích, một mục đích mà kẻ minh triết nhất cũng không dám mơ tói.Suốt
tuần, hai chàng đi hết vùng hoang dã của Hi-mã-lạp sơn và tập trung tâm trí lên
vị tu sĩ toàn năng đó bằng phép thần giao cách cảm. Một ngày nọ, hai
người thấy một đàn sơn dương chạy trên sườn núi không xa. Giữa đàn dê núi
là một bóng, rõ là bóng người, da như da thú, bờm tóc dài như ngựa, chạy bằng
bốn tay chân và biến mất theo đàn thú. Đó là một dáng người gớm ghiếc mà hai
ngưòi đã từng thấy qua, có thể so sánh với các hung thần trong các bức tranh
Thanka (39)Tây Tạng.Hai người thấy xong đều sợ hãi, pha lẫn với niềm tin tràn
trề. Họ vội chạy theo đàn sơn dương, dọc trên các sườn núi, và vừa nhận ra rằng
bóng người đó tách ra khỏi đàn thú và biến mất trong một khe đá.Lòng đầy kính
trọng, hai người từ từ đến khe đá. “Chúng tôi tới để xin ngài truyền tri kiến”,
họ gọi lớn. “Xin hãy cho thấy mặt và nhận chúng tôi làm đệ tử”.
Sơn nhân đó
không phản ứng gì, sau khi hai người khẩn cầu nhiều lần. Kangyur và bạn liền
ngồi trước cửa hang và bắt đầu tụng niệm, đầu cúi lạy hang đá. Sau đó cũng
không thấy động tĩnh gì, các vị đó bèn tụng Kinh tán thán, Kinh nào nhớ được là
các vị đó cứ tụng và cuối cùng họ tụng bài tụng tán thán Kinh Bát-nhã ba-la-mật,
tán thán tính Không, tán thán Chân như mênh mông tuyệt đối, nay diệu dụng và từ
bi.Cuối cùng hai người cử hành nghi lễ Mật tông. Họ đọc danh hiệu chư Phật,
chư Bồ-tát và các vị thánh ba đời và cầu mong các ngài chứng giám nghi lễ.
Thình lình, vị toàn năng đó chui ra khỏi hang đá, hầu như ngài cảm thấy khi
mình đã nghe lời cầu xin thì mình cũng phải chứng giám.Sau một phút im lặng đầy kính sợ, vị Kangyur trẻ
tuổi hỏi: “Ngài tên gì?”
“Ngài tên gì”,
sơn nhân đáp lại và đứng thẳng ngưòi lên.
“Ngài bao nhiêu
tuổi, bạch bậc Toàn năng?” “
“Ngài bao nhiêu
tuổi, bạch bậc Toàn năng?” người đó lại trả lời.
Cuối cùng cả
hai đều biết rằng con người trần truồng có cặp mắt giác ngộ của Phật đó chỉ
biết lặp lại câu hỏi chứ không nói lời nào. Hai vị Lạt-ma đưa tặng người đó thứ
nước “Chắt lọc chân như”, đó là một loại bia đựng trong cái sọ người, theo đúng
truyền thống của Mật tông. Sau đó cả hai bỗng cất tiếng ca bày tỏ lòng thiết
tha muốn học hỏi. Sơn nhân đó vừa nghe qua, bỗng cũng cất tiếng ca.Ngài ca rằng
hơn mười năm qua chưa từng nói tiếng người; ngài cho biết trong mình chẳng mang
tí tri kiến nào cả, vì thực tế chẳng có gì để trao truyền, từ ngài cũng không
mà từ bất cứ người nào khác cũng không, không có gì để chứng đạt. Rồi thì bất
ngờ thay – hai vị Lạt-ma tóc dựng đứng – người đó đọc kinh Bát-nhã ba-la-mật,
đọc như một nguồn nước tuôn trào. Người đọc bất tận, khi lên khi xuống như một
dòng sông uốn lượn, cho đến cuối cùng của bài kinh thần thánh.Rồi chợt tỉnh
cơn mê, sơn nhân nhìn hai thính giả đang ngẩn ngơ, và ông đột nhiên mở mắt lớn,
vùng chạy lên triền núi, đuổi theo đàn dê.
Kangyur và
người bạn trở về thế giới loài người và cố kể lại những gì mình nghe thấy. Hai
vị cũng kể tên sơn nhân cho thế nhân biết: Samma Drubtschen. Ôi, ngày nay chỉ
tên gọi Samma Drubtschen đã làm nhiều người tóc dựng đứng, rởn ra gà khi nghĩ
về một điều tri kiến cổ xưa được nhắc lại. Người ta cho rằng, ngày nay Samma
Drabtschen vẫn còn sống trong núi rừng Tây Tạng.
66. Tiếng chim tâm
thức
Vairochana(40) là
một đạo sư thiền quán Tây Tạng sống vào thế kỷ thứ tám. Tại Samye, tu viện Tây
Tạng đầu tiên, ông được Liên Hoa Sinh điểm đạo cho và sau đó học tập trở thành
dịch giả. Rồi ông tuân lệnh vua Tây Tạng Trisong Deutsen (41) đi Ấn
Độ, học giáo pháp Đại Thành để về truyền bá lại cho dân chúng.
Chàng thanh
niên hai mươi tuổi Vairochana đi bộ, vượt Hi-mã-lạp Sơn và tới Giác thành, là
nơi chàng học tập giáo pháp cơ bản Đại Thành. Sau đó chàng tìm tháp chín tầng
của Sri Simha (42), đó là nơi mà Liên Hoa Sinh và Vimalamitra (43) đã từng khai
thị phép Đại Thành cao cấp.Tháp Sri Simha nằm rất sâu trong rừng gỗ chiên đàn, một
loại gỗ thơm. Khu rừng này và mọi sinh vật sống trong đó rất huyền bí, vì chỉ
có rất ít người được vào tới giữa rừng. Đường xa mệt mỏi, Vairochana vừa nghỉ
chân dưới bóng một gốc cây thì có một nữ tu sĩ rất trẻ, đầu đội một bình nước
đi qua.Chàng thanh niên Tây Tạng đứng dậy, cúi đầu chào ba lần rồi hỏi: “Thưa
cô, tìm đâu ra tháp của ngài Sri Simha, cô chỉ đường tôi đi được chăng?”Cô tu sĩ này đi tiếp, không nói một lời
cũng chẳng hề xoay đầu lại. Chàng nhìn bình nước trên đầu cô, vận dụng phép tâm
thức thành sức nặng mà chàng đã học trong viện Samye, làm bình nước nặng lên
hàng tấn. Cô tu sĩ phải đặt bình nước xuống và không nhấc lên nổi nữa. Sau đó
cô quay người qua Vairochana, nhanh nhẹn vạch ngực ra cho chàng thấy một
Man-đa-la ngay giữa tim nàng, đó là một đồ hình vẽ nhiều vị thánh, biểu
tượnghuyền bí và hình thù kỳ lạ. Cảm thấy tâm thức mình tràn ngập một thứ tri
kiến chưa hề có, Vairochana quì xuống dưới chân cô tu sĩ.
“Hãy đứng dậy”,
vị thánh này nói sau một phút im lặng dài như thế kỷ. “Ta sẽ xem, liệu Sri
Simha tiếp ngươi được chăng”.
Vairochana cũng
rút ra một Man-đa-la mạ vàng, đặt vào tay nàng. “Xin gởi cho viện trưởng, xin
nhận ở đây lòng thành kính nhất. Cái này là của cải duy nhất của tôi trong thế
gian và được vua Trisong Deutsen cho mang theo. Tôi tới đây để xin được ngài
Sri Simha điểm đạo vào phép Maha-Ati Tantra vô thượng”.
Ngày hôm sau, Vairochana
được gặp Sri Simha. Lòng tràn ngập sự cảm tạ sâu xa, chàng nằm dài ba lần
và sau đó quì trước vị “sư tử hống”. Nhưng Sri Simha giải thích cho chàng không
phải ai cũng thích hợp để tu học pháp Maha-Ati. Chàng hỏi tại sao, thì Sri
Simha trả lời: “Sữa của sư tử tuyết quý giá vô ngần, không lẽ bình xí nào cũng
đựng được ư? Ngoài ra vì vua của nước này sẽ chém đầu bất cứ ai giảng dạy pháp
Maha-Ati, đó là giáo pháp phủ nhận cái nhị nguyên, nó sẽ chôn vùi quyền lực của
nhà vua và toàn thể thiên hạ sẽ loạn lạc”.
Sau đó, mỗi
ngày chàng dịch giả Tây Tạng đều cầu xin Sri Simha được khai thị cho phép
Maha-Ati, lấy lý do đã vượt bao khó khăn gian khổ mới đến được đây.Cuối cùng
thì Sri Simha đồng ý, nhưng ngài đòi chàng phải tuyệt đối giữ bí mật. Mới đầu ngài
dạy chàng với các vị khác trong những tầng thấp của tháp, ôn lại giáo pháp của
Phật về nguyên lý nghiệp và nghiệp lực, luật nhân quả… Về sau, buổi tối, chàng
được lên tầng cao của tháp để học những giáo pháp bí mật nằm ngoài phạm vi nhân
quả.Qua giờ tí, Sri Simha đưa chàng vào 18 bài khai thị đầu tiên của phép
Maha-Ati. Sau đó ngài dùng sữa dê vẽ văn tự Sanskrit lên một tấm lụa trắng và
cho hay các chữ này chỉ hiện lên khi hơ tấm lụa trên lửa. Ngài bắt chàng phải
thệ nguyện không được tiết lộ bừa bãi, và viết 18 câu kệ lên tấm lụa, để Vairochana
mang về Tây Tạng.
Trong những
tháng sau đó, Sri Simha dạy cho chàng những giáo pháp bí mật nhất thế gian và
cũng lần đầu tiên trong lịch sử, các giáo pháp đó được viết bằng văn tự.Vairochana đem
về được quê hương các bí lục đó và dịch ra tiếng Tây Tạng, đặt tên chúng là
“Tiếng chim tâm thức”. Sau đây là vài hàng của các dòng chữ quý báu đó, đã được
dịch từ Sanskrit ra tiếng Tây Tạng:
“Cái vạn trạng
không hề rời cái duy nhất.
Tất cả mọi sự
đều ở ngoài mọi qui ước,
Không đầu óc nào
với tới được.
Tất cả mọi sự
không hề dính tới tính nhị nguyên,
Thứ nhị nguyên
tốt xấu do đầu óc tự nghĩ ra.
Vì mọi thứ, tự
nó đã là viên mãn, là tuyệt diệu,
Không liên quan
gì đến mọi cố gắng, mọi mong cầu điên đảo,
Nên người hãy
yên nghỉ trong nhất thể từ xưa đến nay.”
Vairochana kể
tiếp: “Tôi cố ở bên ngoài, với con người vô song này và nhận được nhiều giải
thích, nhiều khai thị, thường thường ngài nói nhỏ vào tai. Nhưng có lần, đi dạo
tới một góc vắng của rừng chiên đàn, Sri Simha chỉ tay lên trời đọc:
“Chân như vươn
mình tới vô cùng.
Nếu ngươi biết,
nó là gì, và cứ để nó như thế,
Thì tất cả đều
hiện ra viên mãn,
Không có chút
bợn nhơ, tuyệt diệu.
Có gì hơn được
nó?”
Trước khi Vairochana
rời Ấn Độ về nước thì đạo sư đầu tiên của Đại Thành là Garab Dorje (45) hiện ra
cho chàng thấy trong một linh ảnh và trao cho chàng hơn một trăm ngàn câu kệ,
mà Vairochana còn giữ cho hậu thế. Garab Dorje, vị “đạo sư vui cười” nói:
“Cái tỉnh giác
của tự tính chúng ta là Phật tính.
Từ xưa đến nay
đã thế.
Tâm như không
gian: rộng mở, vô ngại, phi tính chất,
không sinh,
không diệt.
Ai là người có
thể,
Xuyên qua cái
vạn trạng mà thấy cái tự tính,
và lưu trú trong
đó,
kẻ đó là người
thực hành thiền định,
thâm sâu và đúng
đắn
và thâm nhập
chân như không hề chút cố gắng.”
Trên đường từ
Ấn Độ về Tây Tạng, Vairochana lưu trú được trong tự tính, nên có chút thần
thông phát sinh. Người ta gọi đó là phép “chân bay”, nói về những người hết tin
trọng lực là có thật thì cũng không bị qui luật đó trói buộc. Nhờ biết vận dụng
hơi thở, con người có thể động viên sức mạnh vật chất cho phép mình nhấc bổng
thân hình và đi đến mọi nơi với thời gian kỷ lục. Nhiều kẻ thực hành cũng có
thể vận dụng phép ấy tới một mức nhất định; các nhà nghệ sĩ nhảy múa đôi lúc vô
tình biểu diễn được phép thoát trọng lực và đó là dấu hiệu đầu tiên của sự bay
bổng.Với phép đi tuyệt vời này, Vairochana về lại Tây Tạng, giáo hóa cho nhà vua
về giáo pháp Đại Thành. Và lần này cũng thế, với một bí mật nghiêm ngặt. Ban
ngày, Vairochana sống như mọi Tăng sĩ và dạy giáo pháp nhân quả. Nhưng ban đêm,
sau khi cửa đóng lại, ngài dạy vua những gì mà ngài đã giác ngộ.
Trong đời ngài,
Vairochana còn bí mật dạy thêm nhiều người khác tri kiến thâm điệu đó và truyền
ánh sáng của mình rộng ra. Cuối cùng ngài chết trong rừng già Nepal như một đại
sư đắc đạo.
67. Jomo Manmo, nữ
thần ngủ quên
Jomo Manmo lúc
còn nhỏ chuyên giữ đàn bò cho cha và làm những việc cực khổ nhất trong nhà,
không chút than vãn. Có thế nàng mới thỉnh thoảng làm bà mẹ ghẻ vui lòng
được.Vào một buổi sáng mùa xuân êm dịu, lúc Jomo Manmo vừa lên mười ba, nàng
lùa bò ra sau một đồng cỏ, ngồi nghỉ trên một phiến đá. Bỗng nàng lạc vào một
giấc ngủ say.Nghe một tiếng ca nhẹ nhàng, nàng thức dậy đứng lên. Tiếng ca phát ra từ
một hốc đá gần đó, trong lúc nàng ngủ, không hiểu sao động đá đã mở cửa.Nàng
ngạc nhiên nhìn xung quanh. Xung quanh có một thứ ánh sáng kỳ diệu. “Hay ta lạc
vào cõi thiên thai?”, nàng vui mừng tự nhủ. “Không chừng ta chết rồi và sinh
vào cõi Phật?”
Nàng nhẹ nhàng đi vào trong động. Trong bóng tối của động, nàng thấy một
nhóm nữ thần đang hành trì nghi lễ Mật tông. Xung quanh các vị nữ thần Dakini
đó toàn là tay chân xác chết, và thú dữ đang giành nhau ăn thịt. Không hề sự
hãi hay khước từ, Jomo Manmo bước tới. Vị nữ chúa của Dakini, một vị nữ thần
đầu heo, mõm nhỏ giải, cũng bước một bước về phía nàng.“Tới đây và đùa giỡn với
chúng ta!”, vị thần nói. “Ngươi có biết chăng, từ lúc mới sinh, ngươi đã thuộc
hàng các thần thiên giới, như tất cả phụ nữ?”Jomo Manmo im lặng không nói.
“Ha, ta thấy ngươi chưa rõ cái tự tính không ô nhiễm của chính ngươi. Hãy
xem đây…”
Trước mắt nàng,
nữ thần đầu heo bỗng biến thành vô sắc, không hình tướng. “Ngươi hoàn toàn tự
do, từ vô thủy, ngươi đã hoàn toàn tự do, không bị trói buộc gì cả”, nàng nghe
tiếng nói của vị vô sắc đó. “Hãy có cam đảm mà thể hiện sự tự do đó, đừng ngần
ngại gì cả. Toàn vũ trụ là thân ngươi, mọi chúng sinh là tâm trí ngươi! Hãy nhớ
tới cái trí tuệ uyên nguyên, trí đó ngươi đã mất lúc vừa sinh ra”.
Vị thần vô sắc
lấy lại hình tướng, rút một cuốn sách nằm dưới một tảng đá và đặt lên đầu Jomo
Manmo. Trong giây phút đó, cô bé mười ba tuổi bỗng tràn đầy một tri kiến kỳ lạ,
bị ném vào trạng thái của tự tính, nữ chúa đã đưa nàng lại trạng thái của chân
như giác ngộ, mà thật ra nó không hề lìa con người.Cuốn sách này mang đầy những
văn tự cổ xưa và được đưa tận tay cho Jomo Manmo, nhờ nàng đem về cho thế giới
loài người. Trước khi nàng rời động, nữ chúa trí huệ nọ nói thêm: “Ngươi sẽ
giác ngộ và nhờ sách này mà ngươi sẽ giác ngộ rất sâu xa, và ngươi sẽ dạy lại
cho hàng hậu thế.”
Ngày hôm đó,
Jomo Manmo bắt đầu có thái độ lạ lùng, so với người đời, như các vị Toàn năng
sống trước nàng thường có. Nàng không còn phân biệt điều gì nữa, tất cả đối với
nàng đều thanh tịnh và thánh thiện; đối với mọi thứ nàng không khởi tâm tham
cầu hay chối bỏ, mọi thứ mà chúng ta thường gọi là tốt xấu. Nàng không thấy
mình bị ép uổng điều gì và sống tự tại như một con chim trời.Không bao lâu sau,
trong làng người ta đồn rằng nàng ngủ quên bên cạch một cái hang đá của Liên
Hoa Sinh ngày xưa. Hang đá đó ngày trước đã bị sập nhưng nay đã tìm được lối
vào. Truyền thống Tây Tạng vẫn xem hang này là nơi gặp gỡ của thiên nhân, của
người học đạo và của ma quái; và vì vậy Jomo Manmo có danh hiệu là “người bị
quỉ vương ám ảnh”.Nhưng cuốn sách, mà nàng mang về chứa đựng nhiều mật pháp
của Liên Hoa Sinh, đó là vị đại sư vô thượng của giáo pháp Đại Thành. Cách đây
hàng trăm năm, cuốn sách đó do vị học trò nữ xuất chúng của Liên Hoa Sinh là
Yeshe Tsogyal giấu dưới hốc đá, để chính bà, trong một hậu kiếp tức là Jomo
Manmo tự tay tìm lại. Trong tay của Jomo Manmo, cuốn sách trở thành phương tiện
giải thoát cho vô số chúng sinh, có tên là “Tập hợp bí mật của các nữ thần
Dakini”.
Những năm về
sau, Jomo Manmo chọn vị đạo sư Chowang làm bạn đồng hành và truyền bá giáo pháp
siêu việt đó một cách khôn khéo tuyệt vời. Tới năm 36 tuổi, bà thực hành diệu
pháp với hai nữ tu sĩ khác trên một ngọn núi lạnh lẽo của miền Trung Tây Tạng.
Các người chăn thú tò mò thấy ba người đàn bà leo lên núi, họ nhìn theo xem ba
người này làm gì. Theo lời kể lại thì ngay lúc đó, cả ba đều giơ tay ra và đâm
người xuống núi. Nhưng họ không hề rơi xuống vực mà lại bay vào trong trời
cao vô tận và không bao giờ trở lại nữa.
Các lời giáo hóa
của Jomo Manmo không bao giờ bị quên lãng, ngày nay vẫn còn được truyền lại.
68. Không thiền định
thì cũng mất tỉnh giác
Một tu sĩ nọ
hành trì thiền dịnh hai mươi năm trong một hang đá gần Golock và đã phát triển
tri kiến về mối tương quan đích thực của sự vật. Càng lúc ông càng rơi vào
trạng thái hỉ lạc và sáng sủa, giữ tâm vô niệm và một ngày đó ông tự xem là
giác ngộ và quyết định đi tìm Jamgon Kongtrul để xem ngài phán đoán thế nào.
Jamgon Kongtrul
sống trong một tu viện đi nhiều ngày đường mới tới. Khi người lữ khách tới nơi,
Kongtrul tiếp đãi một cách niềm nở, nhưng chẳng hỏi han gì về việc kia. Nhằm
bắt đầu nói chuyện giác ngộ, người tu sĩ kể về chuyện đã hai mươi năm chuyên
tâm thiền định và kể những phút cao điểm của các lần thiền quán.
“Ôi thật nhiều
công phu”, Kongtrul kêu lên và tỏ vẻ kinh ngạc. “Đáng sợ thật! Hãy từ bỏ ngay
tức khắc”.
Người tu sĩ
ngẩn ngơ. Vị đạo sư Kongtrul liền giải thích ngay, trong thiền quán lúc đầu
hành giả phải cố gắng thực, nhưng về sau để tâm tự nhiên hoàn toàn, vì thiền
quán đích thực chính là để tâm lưu trú trong tự tính. Ông khuyên: “Về Golok lại
đi, vào lại hang đá ngồi một mình trong đó, nếu ngươi muốn. Nhưng ta khuyên
ngươi ba năm nữa đừng thiền định gì cả và cũng đừng tu tập tâm linh làm gì cả.
Hãy cứ giữ mình trong dạng tự nhiên nhất, mặc cho điều gì xảy ra, đừng xao lãng
là được. Cứ giữ tự do giữa làm và bỏ, giữa nghĩ ngợi và không nghĩ ngợi, ngươi
sẽ đạt tới cái điều mà ngươi luôn có”.
Vị tu sĩ chớp
mắt không tin. Kongtrul Rinpoche nói tiếp: “Ngươi chỉ giác ngộ khi thật sự từ
bỏ mọi suy tưởng – bỏ luôn cả những phép tu dày công. Bây giờ là lúc hãy quên
cái thành tựu sống độc cư hai mươi năm của ngươi, và điều đó chỉ xảy ra nếu
ngươi từ bỏ thiền định”.Nói xong, ngài đẩy người tu sĩ ra cửa.
Bỏ thiền định,
người tu sĩ trở về hang đá. Mới đầu ông không thể theo lời khuyên của vị đạo
sư, không thể không làm một điều gì. Sau một thời gian, ông mới đạt được tâm an
nhiên, không tham cầu cố gắng. Cũng ngay phút đó thì tự tính, thứ tâm thức đứng
ngoài mọi nhị nguyên bỗng vươn lên như mặt trời mọc, chiếu rọi mọi góc cạnh sâu
xa nhất của vô cùng. Phật tính đó tỏa lan ánh sáng rực rỡ không ngăn ngại.Ba
năm sau, người tu sĩ trở lại thăm Kongtrul Rinpoche. Ông nghiêng người trước vị
đạo sư, không nói một lời.
Kongtrul, mặt
mày sáng rực, chĩa hai ngón tay cái lên trên, dấu hiệu của “Đạt đạo”. Sau đó vị
tu sĩ không-thiền-quán này trở thành một đạo sư đắc lực của phái Đại Thành tại
Đông Tây Tạng, vì các lời giảng dạy của ông thật dễ hiểu kẻ kém tới mấy
cũng rõ.
69. Cái trống rỗng
mênh mông của Gampopa
Trong những năm
còn trẻ Gampopa đã phải chịu nhiều nỗi khổ. Ông là một y sĩ của thế kỷ thứ 11,
nhưng tài năng ông không ngăn cản được vợ và các con ông chết trong một nạn
dịch. Sau mất mát này, ông thề nguyện sống đời Lạt-ma và trở thành tu sĩ khất
thực. Không bao lâu sau, ông gặp một đạo sư xuất chúng nhất thời bấy giờ, đó là
vị tu sĩ phiêu bồng Milarepa. Lúc gặp Milarepa là lúc ông phải vứt bỏ mọi tri
kiến, mọi tin tưởng và bắt đầu lại từ đầu.
Dưới sự hướng
dẫn của Milarepa, ông thiền định mỗi ngày ít nhất sáu tiếng trong một
hang đá không xa hang của thầy. Có lần ông đến thăm thầy và kể với chút hãnh
diện rằng mình đã tham thiền liên tục sáu tiếng không nghỉ.“Hừ”, Milarepa nói,
“nhưng cái gì xảy ra suốt trong trời gian đó?”
“Không gì cả”,
Gampopa trả lời. “Con không nghĩ gì cả, và ở trong một sự trống rỗng mênh
mông”.
“Ngươi gọi đó là
trống rỗng mênh mông à?”, Milarepa kêu lên. “Làm sao ngươi thiền định sáu tiếng
liên tục được mà không nghĩ ngợi, không cảm giác gì cả? Sai bét! Ngươi chỉ đè
nén ngươi thôi và tự ép mình vào trong một trạng thái đó có thích thú gì không,
nhưng ta nói cho ngươi nghe, hãy bỏ nó đi, hãy bắt đầu lại từ đầu, và làm như
sau”.Nhà du ca đắc đạo mở miệng và lời nói tuôn ra nghe như thơ:
“Cái nhìn đích
thực duy nhất là,
quan sát dòng tư
tưởng nội tâm,
không gò bó và
hoàn toàn xả bỏ.
Chân Như đâu có
nằm ngoài ngươi.
Hãy nhìn thấu
tâm thức ngươi đang phóng chiếu,
và thấy rằng,
chúng không khác gì hơn,
là phát biểu của
cái Tất-cả-là đó,
mà không phép
thiền nào chạm tới được.
Đạo sư cao quý
nhất là cái vô sinh,
chính là tự tính
miên viễn nằm trong ngươi.
Đừng kiếm đạo sư
ở đâu khác,
Mọi dạng hình
sắc thể đều chỉ là biểu lộ của chính con người
Ai là kẻ thấy
mình tự tính mình là Chân Như bất hoại,
kẻ đó tức thì đã
đạt Phật quả”.
Nghe xong lời
khai thị này, Gampopa vội đòi từ bỏ áo choàng đỏ, dấu hiệu của chức sắc tu
viện, để được mang một áo trắng giản đơn như Milarepa thường mặc.Thế nhưng
Milarepa cũng không chịu điều này. “Đừng bắt chước ai cả”, Milarepa cười nói, “mỗi
người hãy tự đi theo tiếng gọi sâu thẳm của chính mình”. Sau đó ngài cất lên
bài ca mô tả đặc trưng đích thực của một tu sĩ hay một phép tu học, đó là: xá
bỏ, quên mình, thể nhập và tri kiến vô ngã.
“Hỡi người thầy
thuốc vừa là Tăng sĩ,ngươi hãy tự chữa mình”, Milarepa ca, “rồi chữa cho cái
gọi là ‘người khác’ một cách tự nhiên. Giáo pháp của ta xuất phát từ tâm thức
sâu thẳm của ta, thì ngươi cũng để hành động của mình xuất phát từ chính ngươi,
từ cái vừa vô song vừa khắp-nơi-đều-là đó.”
70. Lạt-ma và nhà
vua Kublai Khan
Ngày xưa, nhiều
vị vua Mông Cổ và Trung Quốc vẫn quan hệ với các vị Lạt-ma Tây Tạng và các đại
sư, xem họ như tư vấn của triều đình, nhất là khi các vị đó có nổi tiếng về đạo
đức và thi triển chút thần thông. Có khi các vị trở thành quốc sư của các nước
đó. Tuy thế, nói chung, các vị Lạt-ma vẫn được hưởng sự trọng vọng nhất tại Tây
Tạng chứ không đâu khác.
Một ngày nọ, vị
đạo sư Tây Tạng Dotokpa nhận được tin của nhà vua Mông Cổ Kublai Khan cho hay
vị đạo sư của mình vừa về nước và sẽ chết tại Tây Tạng. Nhà vua cần một vị tư
vấn cho vua về các vấn đề tâm linh, ông tìm trong nước minh không đâu ra một vị
đủ trình độ để làm việc đó. Dotokpa cho gửi ngay một học trò đắc đạo của mình
là Lạt-ma Chokyi Sengay đi Mông Cổ, dĩ nhiên với sự dồng ý của trò. Vị Lạt-ma
này có phép điều khiển được vật chất và ông cũng biết rằng mình sẽ phải thi triển
thần thông, trước khi được vị danh tướng Mông Cổ đầy tự hào này khâm phục và
nghe lời. Thực tế thì Kulai Khan cũng khó tin có ai tài giỏi hơn mình hay bằng
ngang mình, chứ đừng nói có kẻ có thể giáo hóa ông.Hơn thế nữa, các cận
thần của Kublai Khan càng mong ông nghi ngờ vị Lạt-ma mới này và họ sợ mình sẽ
mất ảnh hưởng với sự có mặt của một vị Lạt-ma xứ lạ. Sau khi bàn bạc với cận
thần, Kublai Khan nói: “Ta phải thử tài vị này để xem có ngang tay được với vị
Lạt-ma trước hay không”.
Ngay hôm mới
tới, Kublai Khan cho đưa Chokyi Sengay vào trong một nhà tù đá, không hề để lại
chút thức ăn, thức uống và cả khí trời cũng không cho vào nốt.Trong các tuần
sau, các cận thần tinh quái tìm cách làm nhà vua bận việc quên chuyện vị Lạt-ma
bị giam giữ, để nhà vua đừng đoái hoài gì tới. Cả một năm trôi qua, sau đó nhà
vua mới sực nhớ đến một lời khuyên của vị Lạt-ma ngày xưa, lúc ông mới nhớ ra
mình còn một vị Lạt-ma mới mà mình đang thử thách.Ông vội cho mở ngục đá ra thì
thấy Chokyi Sengay ngồi yên, người biến thành đá. Ông giữ thế ngồi của vị thần phẫn
nộ Vajra Kilaya và xác ông lấp lánh như muôn ngàn châu báu chiếu rọi.Khi đó,
Kublai Khan mới khâm phục khả năng chuyển hóa của vị Lạt-ma. Ông hối tiếc mình
quá kiêu mạn và xin chuộc lỗi với người chết bằng cách gửi lại cho thầy của vị
Lạt-ma đó vô số trân châu. Ông cũng mời Dotokpa đi Mông Cổ và mời trở thành đạo
sư của triều đình.
Người ta kể
rằng, cuối cùng Kublai Khan công khai xin tạ tội và Dotokpa nhắc lại lời thần Vajra Kilaya và tuyên bố
Kublai Khan không còn mang tội, không có gì phải tha thứ cả. Lời của thần Vajra Kilaya như sau:
“Trong mảnh đất
của châu báu,
thì không
có gì không quý.
Trong cõi Tịnh
độ của Phật,
thì không có gì
không thánh thiện.
Trong cõi vọng
tưởng,
thì không có gì
có thật.
Trong cõi tuyệt
đối,
thì cái gì cũng
là Sự Tuyệt đối.”
71. A-đề-sa và nhà
thông dịch
Khi vị đạo sư
Ấn Độ A-đề-sa đến Tây Tạng thì các nhà thông dịch giỏi nhất được cử đến làm
việc. Theo lời phán truyền của vua Tây Tạng thì Rinchen Zangpo được nhận
nhiệm vụ cao quý là dịch từng lời giác ngộ của A-đề-sa ra tiếng Tây Tạng và chú
ý không để mất ý nghĩa của các lời dạy đó. Rinchen Zangpo là một lạt-ma già,
hơn A-đề-sa đến 24 tuổi và là nhà đạo sư thiền định cao nhất của Tây Tạng.
Sau khi nghe
quyết định đó, A-đề-sa quay người qua cụ già và nói một cách kính trọng: “Sau
khi đã gặp ngài, tôi thấy thật ra chẳng cần mình phải đi Tây Tạng, vì duy nhất
một vị đạo sư như ngài đã quá đủ”.Sau đó Rinchen Zangpo mời ngài tu sĩ Ấn Độ tới
thăm đền của mình, đưa A-đề-sa đi ba tầng cùa đền trang hoàng mỹ thuật và cuối
cùng đưa vào tâm đền, đó là nơi mà ngài mỗi ngày ba lần và mỗi đêm ba lần tập
trung thiền quán lên các Man-đa-la mà ngài đã được ba vị thánh ban phép. Tại
tâm đền, cả hai vị bàn bạc trao đổi về Pháp và kinh nghiệm tâm linh. Tu sĩ Tây
Tạng xem ra là người đắc đạo, lại rất hùng biện và A-đề-sa đặt câu hỏi: “Theo ngài
thì thế nào, Rinchen Zangpo, ta nên tu các giáo pháp theo thứ tự có trước có
sau hay có thể hành trì song song một lúc?”
“Theo thứ tự,
có trước có sau”. Nghe câu trả lời này A-đề-sa không đồng ý, vị Phật sống nói
một giọng như ra lệnh: “Tất cả các giáo pháp cần được hành trì cùng lúc. Tất cả
các vị thánh đều hiện thân từ một gốc, và chỉ cần chứng ngộ các vị đó trong một
khoảnh khắc duy nhất, tức thì. Như Dudjom Rinpoche (46) đã nói, hoàn toàn
vô ích, nếu biết hàng ngàn sự việc và bỏ quên trong vài giây phút mà tất
cả đều tụ hội và tất cả đều giải thoát”.
Thấy vị tu sĩ Tây
Tạng có vẻ chưa tin hẳn, A-đề-sa nói tiếp: “Bây giờ tôi đã biết vì sao phải đến
Tây Tạng. Các bạn tôn kính các vị thần thánh bằng cách lập các trường phái khác
nhau và bằng các giáo phái mang đầy tính hình thức”.
Vị tu sĩ Tây
Tạng cúi đầu lĩnh hội và nói: “Ngài hãy lấy hết những gì tôi có và hãy đưa tôi
đi thẳng vào trung tâm điểm”.A-đề-sa từ chối, chỉ yêu cầu Rinchen Zangpo làm
thông dịch cho ngài. Vị Lạt-ma lại cúi đầu sát đất và xin A-đề-sa chỉ cho thấy
gốc của mọi phép tu hành. Đối với lời thỉnh cầu này thì A-đề-sa không thể từ
chối. Dưới sự hướng dẫn của A-đề-sa, tu sĩ già đó tu hạnh thiền quán viễn ly,
rồi tập thiền quán trong từng bước đi vì thiền quán đã trở thành tất nhiên
trong cuộc sống. Mươi năm sau, người tu sĩ già đó chứng đạt được tự tại, không
lệ thuộc vào bất cứ phương tiện nào cả.
Trước khi chết,
Rinchen Zangpo, người đã giác ngộ, tập hợp học trò lại và nói: “Tới lúc ta đã
cao tuổi, ta còn phải học và tu tập phép tập trung. Sau khi gặp A-đề-sa, tâm ta
mới được thư giãn ra trong phép thiền quán đích thực”.
72. Dấu hiệu và phép
lạ
Buddhaguhya là
một đệ tử xuất sắc của Kukkuripa, người đạo sĩ lập dị chuyên nuôi chó. Tại
thành Ấn Độ Benares, có lần Buddhaguhya nhập định suốt một tuần, không hề rời
chiếu ngồi. Ông tập trung cao độ với sự tỉnh giác không có gì lay chuyển lên
tranh họa của Bồ-tát trí tuệ Văn-thù-sư-lợi.Thời gian trôi qua mà người tu sĩ
nọ không hề biết. Bỗng một ngày kia, bức họa trở lên linh động và phát sáng,
như kinh sách mô tả về phép yoga này từng viết. Trên bàn thờ ngọn đèn dầu sáng
rực và các bông hoa héo bỗng nhiên lại dựng thẳng dậy, tỏa mùi hương.Buddhaguhya cho
rằng các dấu hiệu này báo rằng mình sắp giác ngộ và phấn khởi tăng gấp đôi sự
tập trung. Trong một phút giây, ông thậm trí nghĩ rằng, hay ta nên uống dầu của
ngọn đèn này, xem như “tinh chất của chân như”, hay trước đó nên dâng cúng
những bông hoa vừa tươi lên cho đức Văn-thù.Vừa nghĩ đến đó, lập tức một bóng
quỉ xuất hiện nơi hình Văn-thù. Tên quỉ này chụp cổ người tu sĩ, ném xa vị đó
với một sức mạnh khủng khiếp đến nỗi người tu sĩ gục xuống bất tỉnh. Trước khi
Buddhaguhya mất ý thức, ông còn biết rằng, mình bị một lực xấu ác trong người
kiềm chế, không cho mình giác ngộ. Ông biết rằng trong phút đắc đạo thì đó cũng
là lúc các năng lực tối tăm trong vô ý thức vùng lên chống lại.
Khi tỉnh dậy,
Buddhaguhya phải định hướng vì ông không còn biết đâu là trên dưới, trước sau.
Nhìn quanh, ông thấy hình Văn-thù bám đầy bụi bặm, đèn dầu cũng như bông hoa đã
khô héo từ bao giờ.Ông bỗng nhớ lời thầy mình là Kukkuripa, con người kỳ lạ
chuyên nuôi chó, nói “Mọi cảnh tượng đều là sản phẩm của tâm thức có qui định.
Đừng để chúng lung lạc”.Buddhaguhya cười lớn và lắc đầu về âm mưu lung lạc của
chính tâm mình. Ông đã để cho cái trò chơi của năng lực tốt xấu làm khổ mình và
nghĩ chúng có thật. Cái vô minh đã làm ông cảm thấy vui thú với trò chơi dại
dột đó.Ông lắc đầu thầm nghĩ “những cảnh tượng điên rồ này suýt làm ta xa rời
tự tánh. Ta đã biết từ lâu, chẳng bao giờ cần một dấu hiệu gì hay phép lạ nào
bên ngoài, để vượt qua cái nhị nguyên không hề có thật.”“Hô”, Buddhaguhya gọi
lớn. Ông nhảy một cái từ dưới đất lên, nuốt cục dầu đã khô, vứt cánh hoa héo
qua một bên, lấy râu tóc chùi bụi tượng Văn-thù và đi ra khỏi cửa… Ông đi, tự
do như gió trời. Dưới mỗi bước chân, đất rung chuyển như bão táp.
Các vị đạo sư
vĩ đại đều đi như thế cả.
73. Con trâu duy
nhất của Schabkar
Schabkar
Rinpoche là một tu sĩ phiêu bạt và một đạo sư của phái Đại Thành vào thế kỷ 19.
Các bài ca về cuộc đời của ông được người Tây Tạng xếp ngang với Milarepa. Khi
thầy của Schabkar chết, ông định làm thịt con trâu duy nhất của mình để tiếp
đãi các người tới tham dự đám tang. Bản thân ông thì không bao giờ ăn thịt, mà
ông lại rất cần con trâu. Gia đình ông sợ hãi phản đối, bắng những lý lẽ không
cãi được.“Tại sao vì một đạo sư đã chết mà phải hi sinh một con trâu còn sống,
mà đây lại là con trâu cái. Trâu cái không những chỉ biết kéo cày mà còn cho sữa
làm bơ, sữa chua, pho mát?”
Tuy thế, chàng
Schabkar vẫn không nghe và nhất định làm theo ý mình. Một người bà con khác
nói: “Tất cả các học trò thân thuộc khác của vị đạo sư chỉ mang theo vài bao
bột mì để cúng dường. Nếu ông cúng một góc nhỏ thế thôi thì cũng đủ rồi. Dù sao
thì Jamyang Gyatso cũng chỉ là thầy thôi, chứ có phải cha mẹ đâu. Hãy nghĩ lại
đi và giữ lại con trâu cái. Rồi mùa đông sắp tới mà không có con trâu thì sao?”
Schabkar trả
lời: “Tôi nghĩ khác. Thầy là người cho tôi những gì quý báu nhất, vì chỉ nhờ
thầy mà tôi thực sự được tự do, không sợ sệt tưong lai, xa rời mọi tư tưởng xấu
xa. Vì thế, tôi có cái gì ít ỏi cũng xin dâng cúng cho thầy mới phải. Tôi cũng quý
tình thương cha mẹ, nhưng tình thương thầy còn lớn hơn”.
Sau đó ông ca bài ca:
“Dù cho tu sĩ, không có trâu, hỏng hết tất
cả,
Y cũng không hề hối tiếc.
Như chư Phật đã từng nói,
Cúng dường cho một vị đạo sư đắc đạo,
Vượt hơn hàng ngàn cúng dường khác.
Đạo sư là Pháp Phật thể hiện thành.
Với ngài tôi thấy Phật,
Đối diện với nhau”.
Buổi lễ hỏa táng cho Jamyang Gyatso có nhiều chuyện lạ.
Các ngưòi tham dự đều thấy ánh sáng ngũ sắc toát ra từ đầu tử thi và nhận được
nhiều dấu ấn, lẽ ra chỉ giành cho các vị thượng căn. Nhiều người thấy mình tự
tại và nhẹ nhàng, như thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian. Schabkar thấy thầy
cười trên đống lửa và chàng ở trong một trạng thái xuất thần.Đối với nhiều người buổi lễ này thành một
biến cố khó quên và nhiều năm sau còn được nhắc tới. “Thật là lạ, chàng du ca
Schabkar sẵn sàng hiến dâng con trâu duy nhất của mình? Bạn có thấy khuôn mặt
của Schabkar khi tử thi Jamyang Gyatso bén lửa? Tất cả chúng ta đều được hưởng
an lạc lạc cao độ khi tham dự? Thật khó hiểu tại sao có nhiều người hạnh phúc
khi một vị đạo sư từ giã cõi đời”.
Như luật nhân quả đền đáp, Schabkar sau đó nhận được một
con trâu cái. Con trâu này của một người giàu có, người đó nhờ Schabkar tự tay
chép lại một bản kinh cổ. Không bao lâu sau, Schabkar lại được hai người nhờ
nữa và lại được thêm hai con trâu cái. Và ai cũng biết rằng, con người sẽ nhận
lại những gì nó đã cho, mà không cần phải mong cầu gì cả.
Schabkar cho rằng, mình được sung túc và thành quả là nhờ
phép lành của vị đạo sư đã chết. Sau khi Jamyang Gyatso chết, đi đâu, Schabkar
cũng cảm giác sự hiện diện của ngài. Sự hiện diện đó luôn nhắc ông rằng, trên
cõi đời này, đừng bám víu vào điều gì cả.
74. Đời sống bình đẳng
Năm 1982, Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 đi Pháp để tham dự một hội
nghị hòa bình. Trong một buổi tiếp tân, Ngài chuyện trò với Pawo Rinpoche, một
Lạt-ma đã già, về vị Gyalwa Karmapa, là vị từ trần trước đó không lâu.Cả hai
vui vẻ nhắc lại các câu chuyện xung quanh vị Gyalwa Karmapa đạt đạo và vừa nói
qua về việc tái sinh sắp tới đây của vị này, thì Pawo Rinpoche khám phá một con
kiến tội nghiệp đang bò trên sàn gỗ đánh bóng, dùng mọi sức dường như để tránh
có ai sắp đạp lên thân mình.Vì chân
Pawo Rinpoche đang bị liệt, ông nhờ Đạt-lai Lạt-ma làm sao cứu con kiến.
Đạt-lai Lạt-ma liền đứng dậy, cúi xuống dưới bàn và nói nhỏ một câu phước lành.
Xong ngài giữ con kiến trên tay, mang ra khỏi phòng ăn và đặt con kiến trước
cửa dưới ánh mặt trời. Ngài mỉm cười trở lại bên cạnh người bạn già.“Tôi đã làm
cho ngài một việc đấy nhé, Rinpoche”, Đạt-lai Lạt-ma nói. “Mắt Ngài già rồi
nhưng còn tinh hơn tôi đấy. Nhiều người nói về tính Không của mọi sự và mục
đích cao cả của Đại thừa, nhưng hiểu biết về sự bình đẳng của đời sống
là một trong những đặc tính của Bồ-tát đích thực. Trong mắt ngài thì mọi dáng
hình đời sống đều có giá trị như nhau, cái đó tôi gọi là lòng từ bi.”
Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 nhắc lại chuyện này trong một lần
diễn giảng tại Pháp, trong đó ngài nói về lòng từ bi và tinh thần trách nhiệm.
“Giáo lý của chúng tôi chỉ đơn giản thôi, đó là lòng yêu
thương, lòng cảm thông với mọi loài”, ngài trả lời câu hỏi mà người ta vẫn
thường đặt ra cho ngài về thế giới quan của Phật giáo.
75. Chiếc cầu ngũ sắc
Gotsangpa sống vào thế kỷ thứ 8, là một đạo sư của phái
Drukpa-Kagyu, một phái dòng truyền tâm Tây Tạng. Người ta kể rằng, ông giữ tâm
kiên định đến nỗi có thể sống hàng ngàn năm trong một hang động giá buốt, chỉ
với một miếng vải vừa làm nệm lót, vừa làm chăn, vừa che thân mà không hề hấn
gì.Trước cửa hang có một bụi gai mọc um tùm, nhưng Gotsangpa không một chút
hứng thú gì để cắt tỉa nó, mặc dù đi ra đi vào ông thường bị trầy tay chân quần
áo rách theo. Ông vẫn nghĩ: “Trước khi ta bị bụi cây này cào lần nữa thì biết
đâu lúc đó ta đã chết. Có sao đâu!”
Ông không tham cầu gì trong đời sống nên dễ dàng nhập định
liên tục và cũng dạy dỗ cho ít học trò theo hạnh xả bỏ, điều mà ông đã chứng
đạt từ lâu.Vào mùa đông nọ, ông mang
theo một học trò giỏi đi du hành. Cả hai đi suốt ngày thì đến một hồ nước mặn
đã đóng thành băng, hai bên bờ hồ đầy tuyết. Giữa hồ là một hòn đảo trơ trọi.
Hai thầy trò liền ra đó và thiền định suốt mùa đông trong sự viễn ly tuyệt
đối.Cả hai không có gì để ăn ngoài cỏ khô mà Gotsangpa đã tích trữ từ mùa hè,
chút trà và một ít tsampa do người học trò mang theo, đó là một loại bột
rang mà người Tây Tạng thường ăn. Thế mà Gotsangpa tuyên bố rằng sẽ nấu một
trăm ngàn cái bánh tormas bằng bột tsampa, một loại bánh để cúng dường các vị
thần bảo hộ vô hình trong khu vực đó.Người học trò không thể làm gì khác hơn là
vâng lời ông thày dở hơi và giúp thầy làm bánh. Cả hai ngồi trong tuyết lạnh,
ép bột theo dạng hình tháp và để bánh lên trên một bàn thờ tạm.Sau ba tháng thì
hết bột, người học trò hỏi: “Thưa thầy, bây giờ làm sao?”
“Đừng lo”, Gotsangpa trả lời dễ dàng. “Ta đã cúng dường chư
Phật và nữ thần Dakini một trăm ngàn cái bánh, trong tinh thần hoàn toàn vô
ngại và tin tưởng, ta thì thấy thế. Vũ trụ sẽ sẵn sàng giúp khi một kẻ vô tâm
cần đến và ngươi sẽ thấy”.
Thật ra thì người học trò chỉ lo thêm khi thấy những gì
đang xảy ra, băng hồ bắt đầu tan và nước thì sâu bờ thì xa không thể bơi vào
được nữa. Hai người đành ăn chút trà còn lại và rau cỏ mọc giữa đảo. Người học
trò ngày càng gầy yếu, ráng đợi đợt lạnh tới, nước thành băng để vào bờ. Nhưng
năm đó hết lạnh và mùa đông thì còn mấy tháng nữa.Rồi, vào một buổi sáng mùa xuân nắng rực rỡ, Gotsangpa nói: “Nào, con
ơi, phép tu thiền định của chúng ta đã hoàn thành và tất cả những gì chúng ta
cúng duờng đều đã được chấp nhận. Hãy theo ta”.
Chân người học trò run lẩy bẩy theo thầy ra bờ. Gotsangpa
bước chân lên mặt nước đầy ánh mặt trời chiếu rọi và đi nhẹ nhàng lên nước, như
ông đi trên một chiếc cầu làm bằng băng. Người học trò đi theo, người như trong
mộng, từng bước, từng bước, không dám nhìn xuống một thứ ánh sáng gì dưới chân
mình. Ông nghĩ rằng nếu nhìn xuống thì sẽ rơi ngay vào nước lạnh và chìm xuống
hồ.
“Đừng quay lại”, Gotsangpa ra lệnh và bước tiếp, “đừng
nhìn xuống, cứ vững tâm theo ta”.
Tới bờ, hai người nhìn lại. Hòn đảo nằm xa trong sương
giữa mặt hồ. Không có đường băng nào nối đảo với đất liền nữa mà chỉ dường như
có một chiếc cầu nhiều sắc làm bằng hàng trăm ngàn cánh tay chư Phật và Dakini.
76. Hiện tượng giác ngộ đáng nguyền rủa
Kongchog Paldron là con gái và là truyền nhân của một đạo
sư Tây Tạng được tôn quý có tên là Chogyur Lingpa. Hồi còn bé, Paldron đã được
xem là hiện thân của nữ thần Tara sắc lục và được dạy dỗ theo đúng qui định.
Nhiều vị đạo sư đắc đạo của thế kỷ 19, trong đó có Jamyang Khyentse, người đã
từng cứu độ hàng trăm Lạt-ma, cũng tự mình cố gắng đưa Paldron vào đạo, dạy cho
nàng những tri kiến mà chỉ có một tâm thức chín muồi qua nhiều kiếp mới lãnh
hội được.Cuối cùng thì chính Patrul
Rinpoche là người đã khẩu truyền cho nàng những lời khai thị để chứng ngộ được
Phật tính vô thượng và giải thoát hoàn toàn. Biến cố này được kể lại như sau:
Ngày nọ, Patrul tụng một bài kệ mà ông bất chợt nghĩ ra và
ông biết một cách trực giác rằng các câu đó sẽ giúp ngưòi đệ tử ngồi bên cạnh
mình chứng đạt:
“Đừng nối tiếp quá khứ trong tâm ngươi,
Cũng đừng nặng lòng về tương lai.
Đừng thay đổi gì nơi sự tỉnh giác tự nhiên của ngươi,
Đừng sợ hãi bất cứ hình tướng nào,
Ngoài ra chẳng còn gì để nói về giác ngộ cả.”
Nghe xong, Kongchog Paldron bỗng rơi vào trạng thái tự
nhiên của tự tính, nằm ngoài suy luận, cảm giác và những đổi thay vùn vụt của
tâm trí. Nàng đạt đến điều mà người ta gọi là Phật quả.Patrul đọc bài kệ bằng
giọng phát âm địa phương nặng nề của vùng Nomaden Tây Tạng. Padron hiểu câu
cuối cùng ra: “Ngoài ra chẳng còn gì để nói về giác ngộ đángnguyền rủa”.
Người đàn bà giác ngộ đó trở thành một vị nữ đạo sư và người
mẹ danh tiếng, vì bà sinh ra một loạt tái sinh của các vị Lạt-ma. Mỗi lần kể
lại câu chuyện trên bà vẫn nhắc lại câu chuyện cuối như bà đã hiểu và học trò
bà lại kể tiếp cho truyền nhân của họ. Đó là lý do tại sao ngày nay, một số
Lạt-ma vẫn gọi giáo pháp của mình là “Giác ngộ đáng nguyền rủa”.
77. Lời khuyên của Gampopa cho thương nhân
Lần nọ, có một thương nhân đến tìm Gampopa, truyền nhân
của tu sĩ phiêu bồng Tây Tạng Milarepa, và xin ông truyền cho phép tu học tâm
linh. Thưong nhân nọ thú thật rằng từ nhiều năm ông sống bằng nghề buôn bán.
Ông mua các vật dụng, pháp khí hay xương cốt có tính chất tôn giáo với giá rẻ
mạt và bán lại với một giá rất cao ở các nơi khác.Thương nhân đó có vẻ biết
rằng cách buôn bán đó không phù hợp lắm với giáo lý của đức Phật, cho nên nói
với Gampopa: “Làm sao tôi có thể giải thoát khỏi các ác nghiệp do hoạt động đó
gây ra? Tôi sợ rằng ngày nào đó sẽ phải trả giá rất đắt vì sự gian tham này”.
Gampopa khuyên thương nhân nọ nên tìm một nghề khác mà làm
và cúng tế số lãi thu được vào việc xây một ngôi đền, mở cửa cho những ai đi
tìm đạo.Thương nhân nghe lời, và đạt
kết quả bất ngờ trong nghề mới của mình. Vài năm sau ông xây một điện thờ Phật
tuyệt đẹp, nhưng bản thân lại không có mấy thời gian để lui tới hay tu học
thiền định trong đó.Ông lại tìm Gampopa và nói: ‘Thưa ngài, may thay tôi cũng
làm được một điều là giảm bớt nghiệp dữ, xây được ngôi đền như ngài khuyên.
Nhưng bây giờ tôi lại lo mua tìm vô số kinh sách, pháp khí, tranh tượng để
trang bị cho đền, vì Tăng chúng cần những thứ đó. Làm sao tôi còn thì giờ để
thiền quán đựơc, khi tôi suốt ngày bận rộn? Và nếu không thiền định làm sao tiến
bộ được trên đường tâm linh?”
Gampopa đáp: “Đền không cần pháp khí hay trang hoàng gì
cả. Cứ để cho những người lui tới tự họ làm. Hãy nghe rõ đây. Nếu bạn chỉ một
giây thôi, thấy được ánh sáng của tự tính, như phép Đại Ấn quyết chỉ rõ, chỉ
một giây thôi đi vào được Tính Không của tự tính đó thì toàn bộ nghiệp lực của
bạn sẽ được giải trong giây phút đó. Sau đó bạn cũng không cần phải làm gì cả,
chẳng cần làm điều thiện, cũng chẳng lo lắng điều gì liệu tiến bộ tâm linh này
nọ là chân hay vọng. Bạn có hiểu không?”
Thương nhân không hiểu. Ông lấy làm bối rối vì lời của
Gampopa ngược lại với hình dung của ông về một người mộ đạo.Gampopa nói tiếp: “Trên bước đường của Đại Ấn
quyết, con người cứ để rơi lại trong Chân như, đó là dạng tự tính tự nhiên, có
sao thì cứ thế. Chân như đó chính là Phật tính ẩn trong mỗi người chúng ta. Hãy
nhận ra nó. Tại đây và bây giờ thì Phật tính chính là tự tính sâu xa đích thực
của bạn. Hãy an trú trong đó, không có chút tâm lo ngại, xa hẳn cái lo toan,
nên làm cái gì và không nên làm cái gì”.
Bất ngờ, thương nhân thấy Phật tính nằm sẵn từ vô thủy
trong mình rồi và ông tỉnh giấc mộng mà trong đó ông những tưởng “phải đạt cái
gì, phải làm cái gì”.Từ đó về sau, ông
không còn có một thần tượng nào cả.
78. Con chim đen
Gelong Sangye từ trần cách đây không lâu tại Bhutan. Vài
tuần trước khi chết, vị Tăng sĩTây Tạng này lâm bệnh nặng và trong thời gian đó
có một con chim sắc đen to, bay vào cửa sổ và vỗ cánh đi theo vị Tăng. Người ta
đưa Gelong Sangye vào bệnh viện và lạ chưa, con chim đó cũng đậu bên cửa sổ
phòng bệnh, cứ thế cả tiếng đồng hồ, hầu như muốn vị Tăng lâm bệnh đó có bạn.Nhân viên bệnh viện và bạn bè Gelong Sangye
đoán rằng vị Tăng này đã dụ con chim lại, nhưng ông chỉ cười, lắc đầu. Vài tuần
đó, người ta cho chim ăn và có người cãi nhau con chim này thuộc giống gì, kên
kên, đại bàng, quạ…
Lúc gần chết, Gelong Sangye xin được mặc bộ áo màu đỏ thẫm
của Tăng sĩ. Ông cố gắng ngồi dậy, theo tư thế liên hoa. Con chim đậu bên thành
cửa sổ như canh chừng, trong lúc Gelong yên ổn ra đi. Ba ngày liền, ông ngồi
vững trong thế thiền định, mặc dù không còn thở. Và con chim không nhúc nhích
khỏi chỗ đậu. Khi người ta đem thi hài đi hỏa táng, con chim bay trên đám tang,
như muốn tiễn đưa Gelong lần cuối.Nhiều
người Bhutan biết chuyện này hết sức xúc động. Gelong Sangye đã chứng tỏ, con
người có thể trải qua những ngày cuối cùng một cách vững vàng và đón chờ cái
chết với lòng an nhiên tự tại. Họ cũng đã chứng kiến thêm một chuyện mà không
ai giải thích được.
Sau khi thi hài Gelong Sangye được hỏa táng xong thì con
chim nọ biến mất. Trong lòng nhiều người, kể cả y sĩ hay nhân viên bệnh viện,
có nhiều tâm tư không ai dám nói ra. Còn trong kinh sách Tây Tạng người ta vẫn
nói, thiên nhân thường hiện ra dưới nhiều dạng khác nhau, để chào đón người
chết và đưa họ vào cõi Phật.
79. Bà mẹ đơn giản
Mẹ của Kangyur Rinpoche là một người đàn bà nhân hậu,
nhưng hoàn toàn không được học hỏi gì. Bà chẳng bao giờ quan tâm đến Mật tông,
hoặc các phép tu học hay ý nghĩa giáo lý. Mặc dù con bà là một đại sư phép Đại
Thành, phép tu truyền thống do Liên Hoa Sinh Vad Vairsana– cũng là đại sư của
phép tu tối thượng MahaAti – truyền lại, nhưng bà chẳng bao giờ quan tâm. Bà
chỉ biết cách đơn giản là hiến mình cho đạo. Từ bao năm nay, sáng tối bà chỉ
niệm A-di-đà-Phật, vị Phật Vô Lượng Quang để sau khi chết bà được thác sanh vào
cõi Tịnh độ.
Lúc cái chết của bà gần kề, Kangyur Rinpoche đưa bà vào một
hang núi, một nơi mà nhiều đại sư đã nhập định và nhiều vị đã đạt giác ngộ.Khi vào hang, dù đã được nhận một loạt linh
ảnh về Phật A-di-đà, bà vẫn không biết đó là dạng xuất hiện của ngài. Bà hỏi
con: “Vị Tăng sáng rực đó là ai nhỉ?” Người con trai chỉ mỉm cười không nói.
Vài ngày sau bà lại nói: “Vị Tăng nọ, sắc đỏ rực sáng hẳn
là một vị thánh con nhỉ. Hình ngài ngày càng rõ và thật dần”.Cuối cùng Kangyur Rinpoche trả lời: “Thưa mẹ,
đó là Phật A-di-đà, mẹ không thấy sao? Mẹ không thấy ngài đến vì mỗi ngày mẹ
đều nghĩ nhớ đến ngài sao? Ngài tiếp dẫn mẹ về cõi Tịnh độ đó”.Bà mẹ mừng quá,
nước mắt trào ra. Bà hỏi: “Ngài cũng đến tiếp dẫn hạng người như ta sao?”, bà
không tin hẳn.Bỗng nhiên có một tuệ giác tràn ngập lòng bà và trong một phút bà
bỗng thức tỉnh: “Bây giờ ta thấy rõ, Phật A-di-đà không phải nằm ngoài tâm ta,
tại sao như thế được?” Người con nói: “Từ xưa đến nay có bao giờ ngài ở ngoài tâm
mẹ đâu”.
Một tuần sau, người mẹ gọi con: “Aphu(mặt trời), vị tu sĩ
có râu là ai mà cứ mỗi ngày hiện ra ở đây?” “Hừ”, vị đao sư ngẫm nghĩ, “Lạ thực con chưa thấy người đó, con không
biết là ai”. “Nhưng ông ta cứ đến hoài”, người mẹ nói. “Được, thế thì mẹ gọi
con lúc ông ta đến”.
Ngày hôm sau bà mẹ gọi con từ trong hang động: “Aphu, Aphu
tới đây mà xem”. Kangyur vào động và thấy một vị tu sĩ cao lớn mặc áo trắng
đứng bên cạnh người mẹ. Vị tu sĩ mang một cuốn sách nhỏ xíu, kết trên một
bên tóc, trong khi phần tóc kia để sổ trên vai.
“Xin chào ngài”, Kangyur cúi đầu sát đất. “Xin cho biết ngài là ai, hỡi vị tu sĩ?”
“Ta là đệ tử
của Yeshe Tsogyal, được gọi là So Yeshe Wang-schuk”, người đó trả lời.
“Thế ngài từ
đâu đến?”, Kangyur Rinpoche hỏi.
“Từ cõi Tịnh
độ”, người đó đưa tay chỉ triền núi tuyết phủ trước cửa động. “Trong kiếp vừa
qua, ta có ba con trai, một con gái. Đứa con đầu đang phụng sự loài người tại
Đông Tây Tạng, đứa út đang ở với đạo sư tại đất Phật. Đứa con trai giữa đang ở
với ta và đứa con gái bị tái sinh vào cõi tối tăm”.
“Tại sao ngài
lại đến đây?”, Kangyur Rinpoche hỏi.
“Ta là hộ pháp
của mười bảy giáo pháp thất truyền của Maha Ati. Ta đã đọc bài kệ này trực tiếp
từLiên Hoa Sinh và nữ đệ tử của ngài là Yeshe Tsogyal và đang tìm một ngưòi
xứng đáng để truyền các giáo pháp bí mật này”.
Kangyur
Rinpoche nằm dài ba lần trên mặt đất và tha thiết xin được học mười ba giáo
pháp đó. Sau đó So Yeshe Wang-schuk đứng dậy và đọc mười bẩy câu kệ, trong lúc
đó Kangyur Rinpoche và bà mẹ sắp từ trần lắng nghe từng chữ.Sau khi đọc
xong, So Yeshe Wang-schuk lại chỉ ngọn núi và nói: “Bí lục này của ta nằm tại
đó. Bây giờ nó là của ngươi, Kangyur Rinpoche”. Nói xong, vị tu sĩ biến mất.Kangyur liền lên đướng tiến về hướng núi
đó và trèo lên đỉnh. Sau một lúc tìm kiếm, ông thấy một hang núi mà ngày xưa có
vẻ đã có người ở. Trên một loại giấy làm bằng bột gạo, Wang-schuk viết lại mười
bẩy câu kệ thất truyền của phép Maha Ati, và bí lục đó ông đã cùng Yeshe Tsogyal
cất giấu từ hàng trăm năm trước, chỉ dành cho người thích hợp.
Kangyur
Rinpoche ở với mẹ cho tới ngày bà từ giã cõi trần này, cõi đã chứng kiến nhiều
lần giã từ. Thể nhập vào cõi Phật A-di-đà, bà ngồi trong động và chết với nụ
cười trên môi. Câu chuyện còn thêm một đoạn nữa: Vừa rồi đây đại sư Dilgo
Khyentse Rinpoche (49) cũng vừa mới chết, ông là một trong những đạo sư vĩ đại
nhất Tây Tạng. Lúc sinh tiền, có lần nghe một thứ giọng không lời, giọng đó đọc
cho ông nghe mười bẩy câu kệ của Maha Ati. Khi ông hỏi, phải cảm tạ ai về những
báu vật này thì giọng đó đáp: “Kangyur Rinpoche đã truyền cho ngươi, lựa ngươi
là truyền nhân mới của dòng tu cổ xưa này”.
80. Yeshe Tsogyal mua người bạn đời
Yeshe Tsogyal là một nữ đệ tử nổi danh của đại sư Liên
Hoa Sinh và về sau trở thành truyền nhân trực tiếp của ngài. Trong lúc Liên Hoa
Sinh ngồi yên trong một động đá ở Tây Tạng thì Yeshe Tsogyal lúc đó khoảng ba
mươi tuổi đi hành hương ở Nepal, thăm viếng các thánh địa, kể cả đến Bonadath
tại Talkessel của Katmandu.
Nàng cúng dường một ít bột vàng nơi ngưỡng cửa đền và xin
đại sư của mình hướng dẫn. “Khổ của chúng sinh trên thế gian thật vô cùng. Làm
sao con đủ trí lực để giải thoát cho họ khỏi vô minh? Con làm sao để thực sự
hữu dụng?” Nàng cầu xin cho đến lúc mái điện bằng vàng sáng rực lên và chói như
mặt trời trước mắt nàng. Trong ánh sáng rực rỡ đó Liên Hoa Sinh hiện ra và nói:
“Con gái thân mến, hôm nay con hãy ra chợ và mua một gã nô lệ, gã này là bạn
đời của con, được định từ trước. Khi ấy con sẽ đạt tới tâm thức xuất thần và
trí lực con sẽ phát triển gấp bội. Sau đấy hãy cùng ngưòi đó về Tây Tạng lại
ngay. Sau đó ta sẽ hướng dẫn cho hai con vào các phép tu Mật tông bí ẩn nhất”.
Yeshe Tsogyal vào thành và đi xem các hàng quán, luôn luôn
lắng nghe tiếng nói của trực giác, vì trực giác chính là vị đạo sư thầm kín bên
trong. Nàng nhìn mặt hàng trăm người và đi từ đầu chợ đến cuối chợ, lúc tới
cổng phía Nam thì một người thanh niên gợi chuyện với nàng. Chàng thanh niên này chỉ quấn ngang người một
tấm vải. Trên ngực của chàng có một nốt ruồi đỏ. Yeshe Tsogyal thấy mặt và tay
của chàng có nhiều dấu hiệu bí ẩn. Chàng hỏi người phụ nữ Tây Tạng: “Nàng từ
đâu đến? Tôi tên là Arya Salee. Lúc tôi còn nhỏ, người ta bắt tôi từ Ấn Độ qua
Nepal và sống bảy năm nay như nô lệ của một thương gia giàu có.”
Yeshe Tsogyal vui mừng, nói nhỏ: “Ôi đúng là người mà ta
cần tìm rồi. Hãy đưa ta đến chủ ngươi ta sẽ mua lại ngươi, để ta đưa ngươi đến
nơi chốn đích thực của ngươi”.Trong
phút chốc Yeshe Tsogyal giải thích cho chàng thanh niên nghe để chàng tin và
hiểu nàng. Thật ra cũng chỉ cần ít lời thôi, dù khó tin cũng phải nói rằng, hai
người này chỉ nhìn nhau đã yêu nhau một cách sâu kín và trong sạch nhất.Cả hai
liền đến nhà của vị thương gia nọ và Arya Salee phải tạm thời giã từ người bạn.
Còn Yeshe Tsogyal ngồi trước cửa và bắt đầu đọc lời cầu nguyện và ca những bài
ca chứng đạo.Không bao lâu sau, chủ nhà thân hành ra đến cửa và hỏi mục đích
của người phụ nữ Tây Tạng lạ lùng này. Nàng thẳng thắn trả lời, nàng được Liên
Hoa Sinh cử đến đây để mua gã nô lệ đó và đưa đi xa.Vị thương gia giật mình:
“Tên nô lệ đó đã chiếm cảm tình của ta, ta coi nó như con ruột. Ngoài ra hồi
xưa ta đã trả giá đắt để mua nó. Không, không thể được”.
Yeshe Tsogyal giơ hai tay lên trời và bắt đầu ca bài ca về
giải phóng con người khỏi sự trói buộc và sự giải thoát cuối cùng. Vị thương
gia thở dài và suy nghĩ cặn kẽ. Không, ông không thể xua đuổi người đàn bà mới
nhìn như một kẻ ăn xin nhưng thật sự là một người tâm linh rất sâu kín này. Vì
xung quanh nhiều người tụ lại để nghe giọng hát tuyệt vời của nàng, ông mời
Yeshe Tsogyal vào nhà nói chuyện.Trong nhà, vợ của thương gia cũng tham gia câu
chuyện. Sau khi nghe nàng kể mọi chuyện, bà nói: “Ta cảm phục lòng can đảm và
niềm tin của ngươi. Nàng đi từ rất xa đến đây và xem ra là một người đặc biệt
già dặn và nhân hậu. Hãy đưa cho chúng ta năm trăm đồng tiền vàng và đó là số
tiền ngày xưa ta đã trả cho tên này. Mặc dù ngày nay nó đã khác hẳn và giá trị
cao hơn nhiều, nhưng nó là của ngươi, nhân danh Liên Hoa Sinh. Nhưng xin hỏi
ngươi muốn gì với nó? Ngươi muốn cưới nó hay để nó làm kẻ hầu cận cho ngươi?”
“Tôi sẽ giải phóng chàng”, Yeshe Tsogyal nói. “Và vì tôi
đã cúng dường hết vàng bạc, tôi xin tạm đi để kiếm tiền chuộc chàng”.Không biết phải làm thế nào, Yeshe Tsogyal cứ
theo những dấu hiệu dẫn nàng kiếm được số vàng này. Tại một góc phố nàng nghe
tiếng than khóc. Tới nghe chuyện thì nàng biết thêm một thương gia bán thực
phẩm nọ vừa mất đứa con trai trong một trận đấu kiếm tại biên giới Nepal. Xác
đứa con trai vừa được đưa về nhà và tang quyến đang chờ một vị Tăng tới cầu
siêu.Yeshe Tsogyal cám ơn thầy đang hướng dẫn mình và nhờ chỉ đường đến nhà
thương gia đó. Vừa thấy cha mẹ người chết đang gục đầu đau khổ, nàng cất tiếng
ca một bài ca về lòng từ bi. Nàng hát về sự sống vươn lên từ cái chết, hát về
mong ước được giải phóng Arya Salee và các chúng sinh khác. Tiếng hát của nàng
đầy khí lực và chất thiện mỹ làm cha mẹ người chết quì xuống bên nàng khi nàng
chấm dứt tiếng hát.
“Nàng là một nữ tu sĩ hát hay”, họ vừa tuyệt vọng, vừa hy
vọng. “ Nàng đầy uy lực, chúng ta chỉ biết thế nhưng không thể đo lường. Nếu
nàng đến đây để cứu sống con ta, ta sẽ cho nàng đủ tiền để cứu cả con vua
Nepal. Nhưng ta không biết, phép lạ có xảy ra với người bé mọn như chúng ta
được hưởng hay không?” Yeshe Tsogyal
cúi đầu ba lần trước cha mẹ người chết và gật đầu. Tự đáy lòng nàng cảm tạ Liên
Hoa Sinh và bắt đầu hát:
“Cúi lạy đấng đã sinh trong hoa sen, Liên Hoa
Sinh,
Hiện thân của tự tính bất diệt.
Tự tính của tất cả mọi sự.
Là Phật tính vĩnh viễn thanh tịnh, bất sinh
bất diệt.
Đó là gốc sinh ra mọi hiện tượng.
Giữ cái bất ly của tính Không và Năng lực,
Thì hành động thiện ác,
Chỉ sinh ra nghiệp lực không tránh khỏi.
Nhưng ta là một đạo sư đã xa rời tính nhị
nguyên.
Nên cái chết hay sống không hề gây ngăn ngại.
Năng lực này là của ta, năng lực hàn gắn mọi
đổ vỡ:
Hãy tuôn trào phép mầu nhiệm”.
Yeshe Tsogyal đưa tay trỏ rờ trái tim và cúi đầu nhả một
giọt nước miếng vào miệng người chết. Nàng thì thầm một câu thần chú bên tai và
hai tay vuốt lên vết thương trên ngực. Bỗng nhiên vết thương khép kín, mắt
người chết mở to. Chàng thanh niên ngồi dậy và cười ngạc nhiên.Cả tang quyến
vội đến cảm tạ Yeshe Tsogyal nhưng nàng từ chối:“Đừng cám ơn tôi, hãy cảm tạ
năng lực, năng lực đã hàn gắn lại những gì chúng ta muốn hủy hoại. Hãy cảm tạ
chư Phật và Liên Hoa Sinh đã truyền cho năng lực đó”.
Vị thương gia bán thực phẩm lòng tràn hạnh phúc, trao cho
Yeshe Tsogyal môt túi vàng và nữ tu sĩ cảm ơn nhận lãnh. Một đám đông người đi
theo khi nàng đi mua lại Arya Salee. Nàng trả cho thương nhân nọ đến một ngàn
đồng tiền vàng để mua người nô lệ, mà giờ đây đã trở thành người bạn đường của
nàng.Cả hai lên đường đi bộ về Tây Tạng để được Liên Hoa Sinh trực tiếp dạy cho
phép Mật tông. Trong một hang núi cao gần chỗ tuyết đóng quanh năm, cặp nam nữ
này sống và thực hành phép tu Yoga xuất thần và phép thiền quán trong giao phối
để đạt được giác ngộ viên mãn.
Cuối cùng Yeshe Tsogyal sống đến 106 tuổi. Là truyền nhân
của Liên Hoa Sinh, bà đã đưa vô số đệ tử đến giải thoát hoàn toàn. Theo lệnh
của Liên Hoa Sinh, bà cất giấu nhiều bí lụctrong nhiều hang động tại miền núi Tây
Tạng và nhờ vậy mà giữ được các kinh sách này cho đời sau. Các bí lục này lần
lượt được các đệ tử tái sinh của Liên Hoa Sinh khám phá trong các thế kỷ
sau.
81. Hạt cải cho Phật
Năm trăm năm trước công nguyên, Phật Cồ-đàm vị đạo sư thế
gian của lịch sử đã sống trên trái đất này và du hành liên tục không biết mệt
mỏi từ nơi này qua nơi khác, để tìm gặp được càng nhiều người càng tốt trong
thời gian Ngài còn tại thế.Một lần nọ
có một bà mẹ đến tìm gặp Ngài tại một ngôi đền, khóc lóc thảm thiết. Bà mang
đứa con đã chết trên tay và khóc lóc làm cho mọi người động lòng thương xót; ai
cũng biết mất con là nỗi đau lớn nhất trên đời. Bà mẹ van xin: “Hãy để tôi gặp
Phật Cồ-đàm”, vừa nói vừa gần như ngất lịm vì đau đớn. “Hãy cho tôi gặp Ngài,
Ngài sẽ có một phép lạ. Ai cũng nói Ngài có thể cứu con tôi. Hãy để tôi tới
Ngài”.
Phật Cồ-đàm cho bà vào gặp ngay. Trước cửa, các tỳ-kheo
đang cầu nguyện cho chúng sinh được giải thoát; sau cánh cửa, vị đạo sư ngồi
trong sự an lạc với chính mình và thế gian. Với ánh mắt Phật, Ngài nhìn thi hài
tí hon của đứa trẻ rồi nhìn khuôn mặt bà mẹ. Hơi ấm khó tả tỏa ra từ hào quang
của Ngài bao trùm căn phòng, Ngài để cho người mẹ tuyệt vọng lấy lại được bình
tĩnh, để cho bà sắp xếp được tư tưởng đang rối loạn.Bà đưa cho Phật xem thi hài
đứa con rồi gọi: “Con của con đã chết. Con làm sao bây giờ. Bạch thế tôn, Ngài
hãy giúp con. Hãy cứu nó sống dậy! Ngài là chúa tể của sự sống chết. Hãy cứu
chúng con, nó là niềm vui của gia đình. Từ nhiều năm nay, chúng con không mong
gì hơn là được đứa con. Bây giờ nó chết vì một thứ bệnh hiểm nghèo. Hãy mang
ánh sáng lại trong mắt của nó. Hãy công bằng. Đứa con nhỏ tuổi này chết đi quá
sớm”.
Bà van cầu đức Thế Tôn và Phật cứ để như thế cho đến lúc
bà im lặng. Ngài nhìn đứa trẻ và đưa tay rờ vầng trán đã lạnh. Cuối cùng Ngài
nói: “Hãy nghe ta, hỡi người đàn bà tốt dạ và trung thành. Nàng hãy đi từ
nhà này qua nhà khác trong đô thị này và hãy xin một hạt cải của một nhà chưa
có ai chết. Hãy mang hạt cải đó về đây và để xem ta có thể làm được gì
không”.
Người đàn bà nghe xong mừng rỡ. Bà quì dưới chân Phật, cảm
tạ bằng cách rờ chân của Ngài. Phật để hai tay trên đầu bà, truyền năng lượng
an lạc lên người bà. Với phước lành đó, bà ôm đứa con ra đi. Bà đi suốt ngày
trong thành phố, từ nhà này qua nhà khác, và xin hạt cải của tất cả gia đình mà
trong đó chưa có người thân nào chết cả. Đi tới đâu, bà cũng kể chuyện thương
tâm của mình, kể hoài, nhưng bà không tìm ra một gia đình nào mà chưa từng đối
diện với cái chết. Không mệt mỏi, bà vẫn tiếp tục tìm kiếm, chỉ với hi vọng,
xin được một vài hạt cải đem về cho Phật, để Ngài cứu sống con mình. Cuối ngày,
bà vẫn không tìm ra được hạt nào cả, vì thực tế cái chết đến với tất cả mọi
người. Nhiều người xót thương, đề nghị cho bà vài hạt cải, nhưng giấu chuyện
trong nhà có người chết. Nhưng người đàn bà nọ không đồng ý, bà không thể lừa
dối Phật. Bà chỉ cần tìm ra một gia đình mà trong đó chưa có ai chết
cả. Mặt trời đã lặn. Trong ánh sáng cuối ngày, bà đứng đó với thi hài đứa
con trên tay, và nghĩ về những câu chuyện hôm nay bà đã được nghe. Bà không có
một hạt cải nào cả và bỗng nhận ra rằng, không ai thoát được cái khổ này cả,
cái khổ mà trước đó bà nghĩ rằng chỉ mình phải chịu.
“Ta không phải là một ngoại lệ, con ta cũng không
phải là người duy nhất phải chết”, lần đầu tiên bà nghĩ thế. “Cái gì
có sinh, ắt cái đó có diệt. Đó là điều không thể thay đổi, vì thế ta phải kiếm
cái không bao giờ sinh và cũng không bao giờ diệt, phải tìm chân lý trường cửu
mà các bậc hiền nhân và đức Phật đang giảng thuyết. Ngài đã đưa ta vào đúng
đường”. Bà cảm tạ, nghiêng mình về hướng Phật đang lưu trú.
Đêm dần buông khi bà về lại đền Phật ở, thi hài đứa con
vẫn ở trong tay. Bà mẹ trẻ đó không tìm ra được một hạt cải nào, nhưng được một
tri kiến mà bà mang trong lòng như một ngọn lửa bập bùng. Càng tới gần Phật, bà
càng cúi đầu. Sau đó bà để đứa con dưới chân Ngài và nói: “Bạch Thế tôn từ
bi, con đã hiểu những gì Ngài muốn nói. Cái vô thường thì phải chết, không thể
tránh khỏi. Nhờ Ngài, con đã thấy một chút của chân như, cái chân như đó không
chết, trong con và trong mọi thứ. Cái chân như đó cũng chính là cái mà đứa con
của con đã thấy, ít nhất là trong một chốc ngắn ngủi, trước khi nó tìm kiếm một
đời sống khác. Và cái chân như đó, con đã thấy ngay lúc con còn sống. Ánh sáng
của tự tính thường hằng là cái duy nhất vĩnh cửu. Và từ nay về sau, con xin dựa
vào nó thôi”.
Đức Phật mỉm cười và gật đầu đồng ý, khi người mẹ xin Ngài
tiếp dẫn cho thần thức đứa con được sinh vào cõi Phật, trong đó thức người chết
được lưu trú trong một giai đoạn, không bị thời gian và không gian lung lạc. Cùng
với các tăng sĩ, Phật đặt thi hài đứa trẻ lên một đống lửa và để cho thân cháy,
trong lúc tâm của đứa trẻ được đưa về cõi của tự tính, từ đó mà mọi hiện tượng
phát sinh”.
82. Tu sĩ và người tuyết
Tương truyền rằng có một loại người tuyết (yeti) ở vùng
Hy-mã-lạp sơn. Đến năm 1958, tại Nepal vẫn còn một đạo luật bảo vệ người tuyết,
xem như bảo vệ thiên nhiên. Dưới chân đỉnh Everest, tại tu viện Tangboschee
Bazaar, người ta còn trưng bày một bộ xương người tuyết. Ngoài ra còn có nhiều
hình ảnh về dấu chân trong tuyết của một loại người cao lớn, thân đầy lông,
trốn mình trong các núi tuyết. Gần đây, nhà leo núi người Đức nổi tiếng
Reinhold Messner cho hay trong chuyến đi vượt Everest đã chứng kiến hiện tượng
yeti.Người ta cũng từng thấy loại dã nhân giống người này ở các vùng hoang dã
tại Canada hay vùng đầm lầy Everglades ở Mỹ, thậm chí chụp được hình hay quay
phim. Nhiều người tranh cãi cho rằng hình ảnh đó chỉ là giả mạo, thế nhưng từ
hàng trăm năm nay, các bộ lạc da đỏ Canada gọi yeti của họ là “sasquatsch” và
tại vùng Everglades, tên hắn là “big foot”.
Ngày xưa có hai vị tu sĩ Tây Tạng đi về miền Nam. Họ đi
tìm một vùng đất hứa tên là Pema Ko, vùng này nghe nói nằm trong rừng rậm và
chỉ chứa những con người có một trái tim thanh tịnh. Giữa biên giới Tây Tạng và
Assam, thì cả hai tới một ngưỡng cửa vô hình, chỉ có vị tu sĩ già mới bước qua
được ngưỡng cửa này, ông là người đã chín muồi qua bao năm tháng tu học, và
được vào thánh địa Pema Ko.Tu sĩ còn lại vừa mừng cho bạn mình, cũng vừa buồn
cho mình, phải tiếp tục cô đơn trên đường mà không còn ai để chia sẻ ước mơ và
suy nghĩ thầm kín. Sau đó ông đến một vùng rừng núi với một vẻ đẹp hoàn toàn
hoang dã. Vừa đến, bỗng một cơn phong thấp hoành hành, ông đau đớn, hầu như
không nhúc nhích được. May thay vài con dê núi gần đó bỗng nhiên theo ông như
thú vật trong nhà và thế là ông có sữa dê để uống.Người tu sĩ kiếm được một chỗ
giữa các cành cây và sống độc cư với vài con dê núi. Xung quanh không hề có
bóng người, nhưng thỉnh thoảng ông thấy có một bóng người khổng lồ đầy lông lá,
mỗi ngày ra khỏi rừng, đi từng bước nặng nề xuống sông uống nước.
Cứ thế nhiều tuần trôi qua, tất cả đều chìm trong sự an
tĩnh của rừng núi. Ngày nọ người tu sĩ chợt nhớ đã vài ngày người khổng lồ đó
không ra sông uống nước. Mặc dù trong lòng có chút lo ngại, ông vẫn nghĩ hãy
tìm người đó xem sao, coi họ có cần mình giúp gì không.Ông có cảm giác mình bớt
bệnh và đi lại được trong rừng già. Vừa đi một đoạn, ông khám phá ra một cái
lều xiêu vẹo, chắc của một vị sống độc cư nào đó từ nhiều năm trước. Ông cẩn
thận đến lều và thấy hai ống chân đầy lông thò ra. Vị tu sĩ giật mình sợ hãi,
vì đó rõ ràng là một “migou” (người Tây Tạng gọi người tuyết yeti như thế) hai
mắt nhắm nghiền, miệng mở lòi hai răng cửa dài. Migou rõ rệt đang lên cơn sốt,
thở nặng nề, không ngồi dậy nổi khi có người lạ người lạ đi vào.Người tu sĩ cẩn
thận đi vào và nhận ra gót chân của người khổng lồ này đang sưng lên, đầy mủ.
Một cái gai thò ra khỏi vết thương, đủ dài để một người có thể rút ra, nhưng
liệu có ai đủ can đảm để làm chuyện đó không. Người tu sĩ ngẩm nghĩ “Tên migou
này có thể nhỏm dậy bất cứ lúc nào và đập ta chết ngay, nhưng không thể để cho
hắn nằm hoài như thế mà không giúp nó.”
Trong lúc người tu sĩ cẩn thận kéo gai ra thì yeti nằm dài
yên lặng như một con bệnh ngoan ngoãn, xem ra hắn biết có một người đang săn
sóc mình. Người tu sĩ xé áo và lau khô vết thương, sau đó dùng nước miếng của
chính mình rửa sạch vết thương, băng lại bằng chính áo của mình. Ông đi rón rén
ra khỏi lều, xuống sông múc nước đem lên cho migou. Vài ngày sau, ông thấy hắn
bắt đầu đi cà nhắc xuống sông và từ từ biến mất vào rừng. Sau một thời gian thì
tình trạng người tuyết tốt hẳn lên và lạ lùng thay, bệnh phong thấp của người
tu sĩ cũng giảm nhanh. Một ngày nọ ông khỏi bệnh hoàn toàn và cũng từ ngày đó,
ông không thấy người tuyết xuống sông uống nước, và đoán rằng hắn đã rút vào
một nơi hoang vu khác.
Thời gian trôi qua, và người tu sĩ bị bất ngờ trong một
lần đi hái dâu. Lần đó, người tuyết nó bỗng từ thân cây nhảy xuống bên cạnh tu
sĩ, giơ cánh tay lông lá khổng lồ lên cao, mặt nhăn lại và nhảy một cái đã biến
mất sau bụi rậm. Vài ngày sau, người tuyết lại xuất hiện, lần này hắn cõng một
con hổ đã chết. Hắn ném con hổ vào chân tu sĩ rồi biến mất. Tu sĩ không ăn
miếng thịt hổ nào, ông mang thịt vào lều lại, cho người bạn hoang dã đó. Nhưng
ông lột và giữ da hổ cho đến ngày hết sống độc cư, trở về lại tu viện Schechen
miền Bắc Tây Tạng.
Trong tu viện Schechen, miếng da hổ được dâng lên như món
cúng dường đặc biệt và dấu hiệu của lòng từ bi. Kể từ đó, miếng da này được sử
dụng trong các buổi lễ mật tông. Miếng da vẫn còn đến ngày nay.
83. “Tôi không cần gì cả”
Cho dù ngài đến bất cứ nơi nào, Patrul Rinpoche, vị đại sư
của phái Đại Thành, luôn luôn nhận được nhiều phẩm vật cúng tặng. Một khi nhận
được phẩm vật gì, ngài thường tặng ngay cho các thợ đẽo đá, thợ thủ công, để họ
có thể khắc thần chú, xây chùa tháp với các vật đó. Ít ra là họ cũng làm điều
gì có ý nghĩa.Patrul Rinpoche thường đọc câu:
“Đối với kẻ nghèo nên rộng rãi,
Đối với kẻ ác nên kiên nhẫn từ bi.
Đối với người đau đớn, sợ hãi, nên sẵn sàng giúp đỡ,
Đối với vô minh nên có lòng tha thứ.
Đối với kẻ yếu kém nên có lòng cảm thông,
Đối với những kẻ còn bám víu cuộc đời giả tạm này,
Nên có lòng từ bi vô lượng.”
Học trò của Patrul để ý thấy rằng những lúc bố thí cho ăn
xin, xem ra vị đạo sư mình còn vui mừng hơn cả chính người ăn xin. Và họ cũng
để ý Patrul thích nghe tiếng kêu van ăn xin hơn cả âm nhạc hay những lời tham
vấn lễ độ.Lần nọ một người thợ đẽo đá thất nghiệp, tên Phukop đến gặp Patrul và
xin tiền. Patrul bảo: “Khổ thân anh, bây giờ anh hãy nói ‘Tôi không cần tiền’,
thì ta sẽ cho anh một số tiền lớn.”
Người nọ nghĩ “Không biết lại trò gì đây!” nhưng không nói
ra.Patrul phải nhắc ba lần điều kiện lạ lùng đó thì Phukop mới chịu nói “Tôi
không cần tiền.” Sau đó Patrul rút tiền vàng trong túi ra và cho người thợ. Học
trò của Patrul rất ngạc nhiên về hành động kỳ quái của thầy. Thường thường thầy
mình rất rộng rãi, bố thí không chút điều kiện, không bỏ một người ăn xin nào.
Họ hỏi Patrul hành động đó nhằm mục đích gì, thì vị đạo sư kể câu chuyện như
sau:
Có lần một người nọ rất nghèo, đến cúng Phật Cồ-đàm một ít
bánh kẹo. Một vị bà-là-môn ham thức ngọt, nhìn bánh kẹo rồi hỏi xin Phật. Ông
ta biết rằng Phật chẳng bao giờ từ chối. Phật trả lời: “Nếu ngươi nói ‘Cồ-đàm,
tôi không cần thứ đồ ngọt này,’ thì ta cho ngươi hết.” Vị bà-là-môn nọ vâng lời
và được các thứ.Lúc sau, A-nan hỏi Phật về mục đích câu chuyện, Phật nói:
“Trong 500 kiếp vừa qua, vị bà-là-môn đó chưa hề có một lần thấy mình đầy đủ,
chưa hề thấy mình không cần gì cả. Vừa rồi đó là lần đầu, có người chỉ cho ông
nói câu đơn giản ‘Tôi không cần…’ để làm quen với cảm giác vô sở cầu. Nhờ thế
mà lòng tham ái sẽ vơi đi và hạt giống xả bỏ đã được gieo.”
Sau lần đó, nhiều ngày qua không có kẻ ăn xin hay nghệ
nhân thiếu thốn nào đến với Patrul cả. Vật phẩm cúng dường chất cao thành đống
trong trú xá của Patrul và thực phẩm để lâu ngày cũng không còn tươi ngon. Bỗng
nhiên, mặt Patrul tươi lên và nói: “À, bây giờ cả đám sắp đến rồi!”
Quả nhiên vài tiếng sau có bốn năm người thợ đẽo đá đến
thăm, Patrul đã soạn sẵn tiền bạc, thực phẩm, và vật dụng nghệ thuật cho họ.
“Đây, hãy lấy những gì mà các bạn cần!” Patrul nói trước khi các người đó mở
miệng cầu xin.
“Hãy đẽo thần chú lên đá và làm cho cảm hứng các bạn được
thành hình,” Patrul nói theo khi các người đó, túi đầy vật phẩm, bắt đầu xuống
núi. Sau đó Patrul quay lại nói với học trò: “May quá cũng xong các của cúng
dường. Các thứ này nằm ngổn ngang như một thây ma.”
84. Nhân quả
Trong các chuyến du hành, Patrul Rinpoche vốn là kẻ không
nhà, thường lưu trú trong các tu viện có tiếng của Tây Tạng để truyền giáo pháp
Đại Thành. Mục đích càng gặp được nhiều người căn cơ càng hay.Lần nọ, ngài ở
lâu trong tu viện cổ nổi tiếng Katok, mỗi ngày ngài hội họp với các vị Lạt-ma
và trả lời tham vấn. Sau buổi sáng nọ, vị đại Lạt-ma Katok Situ của viện mời
ngài gặp riêng và dùng bữa trưa. Katok Situ lấy làm hân hạnh được gặp riêng vị
đạo sư phiêu bồng này, để được chỉ cho ngài các bảo vật của tu viện. Như một
đứa trẻ con, Patrul ngạc nhiên nhìn quanh và nói “Thật khó tin, ở đây thật là
xa hoa! Katok Situ, tu viện của ngài có lẽ là viện giàu có sang trọng nhất mà
tôi đã từng thấy. Trong mỗi phòng có da hổ da báo, thảm lụa vàng bạc, áo quần,
đồ cổ, hộp đựng châu báu… Và đất đai của viện nhìn ngút mắt, và những đàn trâu
bỏ không thể kể hết. Tôi có cảm giác như lạc vào cõi thần tiên. Trên đời này
thật khó có. Thật đáng nể sợ…”
Không nghe Katok Situ trả lời, Patrul Rinpoche nói tiếp
“Còn tôi, tôi chỉ có một cái nồi nhỏ nấu trà trên đường phiêu bạt. Tôi nghe
ngài sắp đi miền Đông. Hay là ngài cho gói cái nồi của tôi theo, và tôi đi
cùng? Tôi thì thích đi tay không cho khoẻ.”
Sau khi Patrul rời tu viện, Katok Situ họp các vị Lạt-ma
và thông báo làm cả viện sửng sốt, là ông sẽ từ chức đại Lạt-ma để rút vào rừng
núi sống độc cư, từ bỏ mọi của cải. Katok Situ đã hiểu những lời khuyên kín đáo
của vị tu sĩ phiêu bồng giác ngộ đó. Sau đó Katok Situ một mình đi đến vùng
băng giá Dokham, là một thánh địa của dân Tây Tạng. Đến đó, ông cũng giống như
mọi kẻ ăn xin hay tầm đạo khác, phiêu bạt rách rưới, với một bình bát bằng gỗ.
Ông vừa đi vừa trộn các thứ xin được trong bình.
Một ngày nọ, Patrul Rinpoche nhận được một mảnh giấy của
Katok: “Cám ơn ngài, tôi đã chân thành nghe lời ngài. Tôi đang thiền định.”
Patrul nói: “Đây này, đây là người thật sự lắng nghe những
gì ta nói.”
Vài năm sau, vị độc cư Katok đó ở vùng băng giá Dokham
được một người đến thăm. Người đó mang theo một đứa bé gái. Đứa bé nói: “Chúng
con đã nghe danh ngài từ lâu, chúng con đến để xin ngài ban phước.”
Katok Situ ban phép lành cho hai người, sau đó cô bé dâng
tặng ông một bao bột gạo. Katok không còn cái gì đựng bột nên nói “Cứ đổ bột
lên trên nền đá, và như thế là tốt rồi.”
“Con xin ngài giữ nguyên bao bột, đó là dấu hiệu lòng cảm
tạ của con,” cô bé nói. Giọng nói và thái độ của cô bé có cái gì đó làm Katok
chú ý. Ông lựa các phẩm vật của những kẻ hành hương khác dâng tặng để vương vãi
trước cửa động, lấy một sợi chuyền vàng với hột đá quý đưa cho cô bé.Tất nhiên
là cô bé không nhận châu báu này của một vị tu sĩ nghèo nàn, nhất là khi cô
thấy hột đá quý là loại ngọc Achat có sọc, đó là thứ mà dân Tây Tạng rất quý.
“Cứ lấy đi, con phải nhận quà tặng của ta và mang vào cổ,”
Katok yêu cầu. “Mỗi ngày con phải mang.”
Cô bé vẫn lưỡng lự cho đến khi tu sĩ độc cư nói “Con không
hề biết ý nghĩa của sự trao qua đổi lại này.” Lúc đó thì cô mới nhận, mang sợi
chuyền với viên ngọc quý trên cổ, và nhận phép lành của Katok thêm một lần
nữa.Cuối buổi hành hương, cô bé về lại nhà. Cô ở không xa một vị đạo sư giác
ngộ khác, đó là Jamyang Khyentse Wangpo (19). Vì là cháu gái của ngài, nên cô
hay đến thăm và học hỏi. Ít lâu sau người ta kể rằng vị sư độc cư ở Dokham đã
từ trần. Cô bé nghe xong khóc ròng như khóc người thân nhất vừa qua đời. Chỉ
khi rờ viên ngọc quý trên cổ, cô mới có niềm tin, có cảm giác như một sức mạnh
vô hình nào an ủi.
Thời gian trôi qua, và cô bé lấy chồng, người thiếu phụ đó
sinh một con trai, và trong những năm sau, đứa con đó giải thích với mẹ một
cách rõ ràng rằng, nó không ai khác hơn là sự tái sinh của vị hiền nhân Katok
Situ.
85. Tự hy sinh
Dola Jigme Kelsang là một học trò của Dodrup Chen Rinpoche
đệ nhất. Sau khi giác ngộ, ngài trở thành một vị đạo sư của phái Đại Thành.
Ngài cùng đệ tử đi suốt các vùng Đông-Bắc Tây Tạng, thậm chí đến Mông Cổ để
truyền bá giáo pháp.
Ngày nọ, Dola cùng hai học trò đến một thị trấn miền Tây
trung quốc, và vào nơi họp chợ, thấy một đám đông đang reo hò. Tới gần thì mới
hay đang có một cuộc xử tử công khai. Người ta đang trói một tên trộm trên lưng
một con ngựa sắt và đốt lửa trong bụng con ngựa để xử tử tên trộm. Tên đạo tặc
la khóc thảm thiết và cầu xin cứu giúp. Đám đông reo hò chửi rủa và kể tội tên
trộm đã làm bao người đau khổ. Vị Dola từ bi không biết làm sao khác hơn là
đứng ra và tự nhận mình mới là kẻ trộm, xin tha cho tên kia.Nhiều người không
tin, cãi nhau om sòm, nhưng Dola, với lòng từ bi vô lượng, đã thuyết phục được,
cuối cùng đồ tể thả tên trộm và bắt cổ Dola, trói ngài lên ngựa sắt. Là những
tên khát máu, họ đốt lửa, ngựa sắt cháy đỏ. Dola ngồi trên lưng ngựa, mắt nhìn
vào cõi vô cùng. Không một lời than vãn, ngài rời bỏ thế giới này.
Hai bạn đồng hành là hai chứng nhân của câu chuyện thật
này và kể lại cho đời. Tây Tạng không hề quên chuyện ấy, và ngày nay, các vị
thầy còn kể cho trò nghe. Người ta biết rằng có nhiều cách để chuyển hóa sự sợ
hãi và đau đớn trước cái chết, ngay lúc còn sống cũng thế. Dola Jigme Kelsang
là một trong những đạo sư đã chứng tỏ được điều này.
86. Củ cải của Saraha
Tu sĩ Saraha (51) Ấn Độ sống ở thế kỷ thứ III, vừa được
tôn thờ như một anh hùng, đồng thời có người cho ông là phù thủy. Saraha là tác
giả của một tập các bài ca nổi tiếng, có tên “Các bài ca vương giả của Saraha”,
ngày nay còn được truyền tụng. Sau này người ta mới thấy các bài ca này là tác
phẩm tuyệt diệu của một tâm hồn đắc đạo.
Như các tu sĩ Tantra trước và sau mình, Saraha thu nhận
một thiếu nữ của giai cấp thấp nhất vào nhà mình, vì ông chẳng quan tâm gì đến
các quy định của Ấn Độ thời đó. Ngược lại ông chỉ mong có dịp để phá các định
kiến trên dưới, và vì thế nàng thiếu nữ 15 tuổi này không được ông thuê làm nữ
tì, mà được ông chỉ dạy cho thực hành phép tu Tantra, trong trường hợp này là
phép giao phối, và được ông biến thành vợ.
Ta có thể tưởng tượng làng xóm, cũng như giai cấp bà-la-môn
hồi đó xôn xao thế nào khi ông và nàng vợ trẻ biến mất vào rừng không còn cho
ai gặp mặt. Còn nàng thiếu nữ đó cũng say mê ông ngay từ lúc mới gặp, vì nhờ
ông mà nàng thoát khỏi giai cấp bần cùng nô lệ. Nàng khuyên chồng cứ thực hành
các phép tu thần bí, không cần quan tâm đến sự hiện diện của nàng, và nàng
không có gì mong ước khác hơn là được phục vụ một người giác ngộ, và được học
hỏi nơi chồng.Cả hai sống viễn ly như thế trong rừng già Ấn Độ, như các vị tu
sĩ Tantra khác, với người phối ngẫu của họ. Họ thiền quán, thực hành phép yoga
của sự giao phối xuất thần, và đối xử với nhau bằng lòng kính trọng cao cả.
Saraha cũng chịu khó làm các công việc mà vợ mình không làm được, nhưng nói
chung nàng phục vụ chồng như một học trò phục vụ vị đạo sư.
Ngày nọ, người thiếu phụ mang cho chồng một món ăn và câu
chuyện sau đây xảy ra, đi vào lịch sử của Saraha. Thường thì ông hay ăn tất cả
những gì dọn lên, không quan tâm đến món ăn. Nhưng lần đó ông kêu lên “Dọn cho
ta món cà-ri củ cải.” Người vợ phải đi mua củ cải về nấu cà-ri, thêm sữa chua
và dọn lên trong lá chuối. Sau đó nàng dâng lên nhưng Saraha ngồi yên, tréo hai
chân lại, không phản ứng gì cả. Thì ra ông chồng đã nhập định rất sâu và không
nghe thấy gì nữa từ thế giới bên ngoài. Nàng để chồng yên và lo việc khác.
Thế mà 12 năm trôi qua, Saraha không hề nhúc nhích khỏi
chỗ ngồi. Có lẽ ông xuất thần đi đâu rất xa, tuy thế vẫn không hoàn toàn rời
thân. Sau 12 năm và ba tháng, Saraha mở bừng mắt ra và kêu “Cà-ri củ cải đâu
rồi?”
Người vợ không biết nên cười hay khóc, và nói “Ông thật
điên! Ông là một đạo sư kỳ dị. Cà-ri đã theo số phận của thế gian từ những năm
trước, còn ông thì ngồi đây như một củ cải cắm xuống đất. Mười hai năm trôi qua
rồi mà ông vẫn còn bám vào tư tưởng cũ rích sao?”
Saraha không trả lời. Ông còn phải định thần lại. Nhưng
người vợ, đã trở thành một nữ tu đầy tiến bộ trong thời gian qua, nàng nói
tiếp, hai tay chống nạnh: “Mười hai năm qua, ông làm gì thế, có lẽ không phải
là một phép thiền quán đích thực đâu. Kẻ du hành tư tưởng như ông, chưa chắc là
đã thiền định đúng cách. Kẻ rút về sống độc cư, chưa chắc ở một mình. Độc cư
đích thực chính là rủ bỏ mọi suy luận giải thích, từ bỏ mọi cân nhắc nhị
nguyên, và nếu chúng có dấy lên thì đừng có bám víu chúng. Còn ông, mười hai
năm ông cứ chờ vài củ cải trong ảo tưởng. Thế mà ông gọi mình là đại toàn năng (52)
sao?”
Lời nói của vị thần phẫn nộ mang dạng người đó đánh trúng
Saraha tận xương tủy. Cũng đúng lúc đó, ông thấy mình tỉnh giác hơn, hơn hẳn
trước kia. Trong những năm sau, cả hai đạt một cấp mới về giác ngộ, không còn
rơi trở lại trạng thái tầm thường của con người, và nhận ra mình chính là ánh
sáng phát chiếu từ tự tính bất diệt.
Đến lúc phải rời cõi thế, cặp vợ chồng này biến mình thành
ánh sáng thanh tịnh và thể nhập vào tự tính, không để lại dấu vết nào của thân.
87. Tu sĩ biết bay
Một ngày đẹp trời trong vắt nọ tại Tây Tạng vào thế kỷ
trước, tu sĩ Schabkar Rinpoche cùng với hai học trò đi du hành. Ba người dẫn
theo một con ngựa chở các thứ họ cần. Họ dắt con người đi từ đỉnh núi này qua
đỉnh núi khác, thưởng thức cảnh đẹp địa phương và tìm nguồn cảm hứng cho các
bài ca. Cả ba vừa đi vừa ca, vừa qua một đường đèo cheo leo thì thấy một người
đàn bà nằm trên đường, mặt úp xuống đất. Schabkar vội nhảy tới, kéo bà dậy,
nhưng hầu như bà không nhúc nhích nổi. Bà run run xin chút thức ăn và nước
uống.
Schabkar mở túi, nấu chút trà và đổ vào miệng bà. Sau đó
ông lấy bột mì, trà và bơ để vào một cái túi, đưa cho bà thấy, để bà già tin
những tuần tới đây sẽ không bị đói. Bà già đã không một lời cảm ơn, mà còn cất
giọng đã hồi sức, đòi hỏi thêm áo quần. Schabkar vui lòng mở bọc lấy thêm áo
quần cho bà và để bên cạnh. Bà già trông thật xấu xí, cả ba chưa bao giờ thấy
người nào xấu như vậy. Nhưng Schabkar Rinpoche không hề quan tâm đến điều đó và
nhìn bà với lòng cảm mến như ông đã từng đối với mọi người khác.Bà già nhìn con
ngựa rồi nói: “Khốn khổ cho ta không đi được nữa, còn các ngươi trai tráng… nếu
các ngươi cho ta con ngựa thì hay biết mấy!”
Các học trò của Schabkar đã hết kiên nhẫn. Nhưng vị tu sĩ
biết hát nọ đã sẵn sàng cất túi treo trên ngựa. “Nào mời bà,” ông nói và đỡ bà
đứng dậy. “Bà đừng lo gì cho tương lai. Chúng tôi sẽ giúp bà đầy đủ.”
Ông cẩn thận đỡ bà già lên ngựa trong lúc hai đệ tử nhìn
nhau không hiểu. Lên lưng ngựa xong, bà nhìn họ một cách khinh mạn, nở nụ cười
chê trách khi thấy vẻ mặt của hai người học trò. Trong phút đó bà già biến
thành một người hoàn toàn khác. Một hơi ấm đầy sức sống toát ra từ gương mặt bà
và cái lưng còng đã biến thành thẳng. “Schabkar,” bà lão gọi với giọng tươi
vui, “ta nghe người là kẻ có trí. Nhưng ta muốn tự mình xem ngươi có lòng từ bi
và óc hóm hỉnh đên đâu. Ta chẳng cần ngựa lẫn tất cả các thứ của ngươi, ta
không thiếu gì cả, từ vô thủy tất cả đều ở trong ta, ta chứa cả thế giới. Nào,
hãy nói đi, hỡi vị hộ pháp, ngươi vẫn chưa biết ta là ai chăng?”
Schabkar đứng như trời trồng, nhìn sững dạng hình không
nói nên lời. “Nếu ngươi không biết thì nghe đây,” nói xong bà lão biến thành
dạng ánh sáng của nữ thần Vajra Varahi. Trên ngựa là một khối ánh sáng đỏ rực,
phát lửa khắp mọi hướng và biến thành một vị phẫn nộ hai đầu. Đó là một vị thần
có cái đầu khổng lồ, nhe răng dữ tợn, phía trên có cái đầu heo, đen như mực,
gầm gừ. Như người khác hẳn sẽ bỏ chạy ngay, nhưng Schabkar Rinpoche đứng yên và
lắng nghe những lời bà lão. “Hãy nhìn và nhận ra ta. Đây là hình dạng của Vajra
Varahi, nữ thần vô úy. Ta sẽ đưa ngươi về thiên giới và sẽ lo lắng cho ngươi.
Đừng ngoảnh mặt.”
Khối lửa bỗng lớn như một ngọn núi. Nữ thần trần truồng,
cổ mang một chuỗi đầu lâu nhỏ máu, bắt đầu múa với nhiều biểu tượng sâu kín.
Một tay cầm kiếm bén, tay kia cầm đầu lâu. Vajra Varahi kẹp một chĩa ba, trên
có đầu lâu. Học trò Schabkar quay mặt không dám nhìn.Bỗng nhiên nữ thần biến
thành một đám mây ngũ sắc, cười và ném cho Schabkar một bọc. Schabkar vừa chụp
lấy thì nữ thần đã thăng thiên, nhìn người tu sĩ như mời gọi, trong khi ông còn
đứng yên tại chỗ. Học trò Schabkar chỉ kịp thấy ông nhét bọc đó vào áo, hai tay
vươn lên cao như muốn bay theo. Sau đó họ la lên khi thấy ông bay theo thiệt.
88. Rầu rĩ cũng phải cười
Geshe Langri Thangpa sống cách đây khoảng tám trăm năm tại
Tây Tạng và là một Lạt-ma thông thái của trường phái Kadampa (53), đây là
trường phái được đạo sư Ấn Độ A-đề-sa thành lập trước đó không lâu. Nguyên tắc
của trường phái này là hết lòng phục vụ mọi người với lòng từ bi vô hạn, nhờ đó
mà sự phân biệt giả tạo giữa “ta” và “người” một ngày nào
đó sẽ tự biến mất.Langri Thangpa cảm thấy trường phái này phù hợp với mình vì
ông rất nhạy cảm và dễ dàng đặt mình vào tâm trạng của người khác, hầu như
chính mình đang trong hoàn cảnh của người. Tuy nhiên cứ đặt mình vào cảnh khổ
của người, ông càng buồn rầu theo. Lòng từ bi của ông lên cao đến nỗi ông rút
vào núi để cầu nguyện, nhịn ăn và cảm nhận những gì chúng sinh đang đau khổ.Bạn
đồng tu khuyên ông: “Tất cả chỉ là một giấc mơ, giấc mơ này xuất hiện vì
con người tự đồng hóa với một cái thân có sống, có chết, tại sao bạn lại quan
tâm quá sức như thế?”
“Không đáng buồn sao khi tất cả các loài hữu tình
hàng ngày phải chịu cơn ác mộng đó”, vị Lạt-ma Langri Thangpa tự nói.
“Đời sống trong vòng sinh tử này khi lên khi xuống, giữa cái hy vọng được
thỏa nguyện và cái thất vọng cay đắng. Và tất cả nỗi khổ của cõi Ta-bà này là
nỗi khổ của chính ta”.
Ông được mệnh danh là “Người rầu rĩ thánh thiện”.
Ngày đó, ông trùm khăn trên đầu, như có tang và đi trong hành lang tu
viện.Nhiều tăng sĩ hỏi “Có ai chết chăng?” Ông lầu bầu trả lời
“Nếu hỏi, có ai không chết
chăng, xem ra thông minh hơn”. Sau đó ông bỏ đi để tiếp tục thiền quán về
cái khổ.
Lần khác, Langri Thangpa ngồi trước một cái bàn gỗ thấp,
trên bàn đang có nhiều cơm. Ngửi có mùi thức ăn, một con chuột bò ra. Vị Lạt-ma
đang trộn cơm với đá quí để làm Man-đa-la, đó là các đồ hình với ý nghĩa sâu
kín mà ông thường dùng để thiền định.Vị Lạt-ma ngồi yên lặng nên con chuột yên
trí bò lên bàn. Con chuột ngửi nhằm một viên đá turquoise và tìm cách kéo viên
đá đi. Nhưng con chuột quá nhỏ mà viên đá khá lớn, lại dính chắc vào cơm nên
không sao kéo ra nổi.
“Bạn thân mến”, ông nói, “Cái viên xanh
xanh đó không phải là pho mát đâu, nó là một viên đá không ăn được, bỏ nó
đi”. Thế nhưng con chuột đã kéo viên đá ra được một nửa, nhưng không mang
theo được. Langri Thangpa nhìn con chuột với cách nhìn của hiền nhân từng trải:
“Sự cố gắng vô vọng này làm ta nhớ đến cuộc tranh đấu của người đời với vật
chất. Làm được gì đâu khi chuyển vật chất từ nơi này qua nơi khác. Tưởng rằng
làm xong việc, nhưng cuối cùng lại đổ nát, hoàn toàn vô ích”.
Vị Lạt-ma nghĩ đến đó thì con chuột biến mất và không thấy
ra nữa. Ông đang tiếp tục hoàn thành Man-đà-la thì bỗng nhiên con chuột lại
xuất hiện, lần này có thêm một con nữa. Hai con xúm nhau kéo viên đá ra khỏi
đống cơm, một con kéo, một con đẩy, và cuối cùng chúng biến mất với chiến lợi
phẩm.
Langri Thangpa cười to tiếng, từ nhiều năm nay ông mới
cười. Tiếng cười của ông bất ngờ và đầy nhân hậu, mặt ông sáng lên như mặt trời
vừa mọc.Ông thốt lên thành tiếng: “Mong sao chúng sinh trong vũ trụ muốn
gì được nấy.”
Cộng Hòa Liên Bang Đức, tháng giêng 1997
Nguyễn Tường Báchdịch
Phụ chú
1. Milarepa:Tên Tây Tạng có nghĩa “Mila người mặc áo vải
khổ hạnh” (1052-1135). Một trong những thánh nhân nổi tiếng nhất của Tây Tạng.
Ông là học trò của Marpa và bị thầy thử thách khắc nghiệt, cuối cùng ông được
truyền giáo pháp Đại thủ ấn (Mahamudra) và Naro Chodrug. Ông sáng lập tông phái
Kargyupa. Ngày nay Phật giáo Tây Tạng vẫn còn nhắc nhở về cuộc đời và các bài
ca của ông. Milarepa sinh tại Tây Tạng, gần biên giới Nepal. Lúc ông lên bảy,
cha mất, gia sản bị chiếm đoạt, gia đình ông bị đối xử tệ bạc. Nhằm trả thù,
ông học phép tà và trong một lần dùng phép, ông giết hại nhiều người. Ăn năn,
ông tìm gặp đạo sư của tông Nyingmapa là Rongton, nhưng vị này khuyên ông nên
gặp Marpa. Ông trở thành đệ tử của Marpa năm 38 tuổi, nhưng suốt sáu năm ông chỉ
được xem là kẻ hầu, và Marpa thử thách khắc nghiệt khiến ông kiệt sức và gần
muốn tự sát. Nhờ vậy ác nghiệp được trả xong. Marpa bắt đầu cho ông học pháp
bằng cách sống viễn ly cô tịch, truyền giáo pháp Naropa và đặc biệt dạy phép
nội nhiệt. Chỉ khoác một chiếc áo mỏng manh, Milarepa sống nhiều năm trong cái
lạnh của Himalaya, chỉ chuyên tâm thiền định trong hang động. Sau chín năm độc
ẩn, ông bắt đầu nhận học trò, trong đó có y sĩ Gampopa là người quan trọng
nhất. Ông mang giáo pháp cho đời bằng các bài ca bất hủ.
2. Marpa (1012-1097): Đạo sư nổi tiếng của Nam Tây Tạng.
Ông đi Ấn Độ và mang về giáo pháp Đại thủ ấn, Naro Chodrug. Marpa là thầy của
Milarepa và đóng vai trò quan trọng nhất trong tông phái Kargyupa. Ông là người
tu hành nhưng vẫn tham gia công việc thế tục một cách hài hòa. Thời trẻ, Marpa
học tiếng Sanskrit, sau đó ông đổi toàn bộ sản nghiệp lấy vàng để du hành truân
chuyên sang Ấn Độ. Tại đó, ông gặp Naropa, là người giáo hóa ông suốt 16 năm.
Trở về Tây Tạng, ông phiên dịch kinh sách, sống cuộc đời nông dân, lập gia đình
với Dagmema và có nhiều con. Sau đó trên đường tìm đạo, ông lại đi Ấn Độ một
lần nữa. Về lại Tây Tạng, ông nhận Milarepa làm học trò. Sau khi đã thử thách
khắc nghiệt ông mới chịu truyền bí pháp cho Milarepa. Khi tuổi đã cao, ông di
Ấn Độ lần thứ ba vì một bí pháp khác. Tại đó ông gặp Atisha và gặp Naropa lần
cuồi. Marpa thực hiện phép yoga giấc mộng và tiên tri việc thành lập tông
Kargyupa.
3. Gampopa (1079-1153): Một trong những cao tăng Mật tông
quan trọng của dòng Kagyupa tại Tây Tạng. Năm 26 tuổi sau khi vợ mất, ông trở
thành tăng sĩ và theo giáo pháp của phái Kadampa. Trong quá trình tu học, ông
được gặp Milarepa, một vị cao tăng đắc đạo, và được Milarepa truyền cho Đại Thủ
Ấn. Sau Milarepa mất, ông thành lập tông Kagyupa. Ông là tác giả của “Lamrim”
(báu vật giải thoát), đã hợp nhất hai trường phái Kagyupa và Kadampa, “như hai
dòng nước hòa vào nhau”.
4. Giác Thành (Bodhgaya): Có khi được gọi là Bồ-đề đạo
tràng, là một trong bốn thánh địa của Phật giáo, cách Patna 90 km về phía Nam.
Ở đây đức Thích-ca Mâu-ni đã giác ngộ sau khi thiền định 49 ngày dưới cội
Bồ-đề. Ngày nay tại đây còn lại tháp Đại Bồ-đề do một nhà vua Tích Lan xây
dựng.
5. Potala: Cung điện của Đạt-lai Lạt-ma tại kinh đô
Lhassa. Potala cũng là địa danh của trú xứ Quán Thế Âm tại trung quốc (Phổ Đà
Sơn)
6. Quán Thế Âm: Một trong những vị Bồ-tát quan trọng nhất
của phái Đại thừa. Quán Thế Âm thể hiện lòng bi, một trong hai dạng của Phật
tính. Trong nhân gian ngài là vị bảo hộ tránh tai họa và thường được phụ nữ
hiếm muộn cầu tự. Trong các loại tranh tượng về ngài, người ta thấy có 33 dạng,
khác nhau về số đầu, tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng ngài có
ngàn tay ngàn mắt, có khi 11 đầu. Trên bảo quan có hình Phật A-di-đà, xem như
đặc điểm chính. Trên tay có khi cầm hoa sen xanh, vì vậy ngài cũng được gọi là
“người cầm hoa sen” (Padmapani) hay nhành dương liễu và một bình cam lồ. Có
người xem đức Đạt-lai Lạt-ma là ứng thân của Quán Thế Âm Bồ-tát.
7. Đạt-lai Lạt-ma: Nguyên nghĩa là “đạo sư với trí huệ như
biển cả”. Danh hiệu do nhà vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của
trường phái Gelugpa (Hoàng mạo) năm 1578. Từ 1617, Đạt-lai Lạt-ma thứ năm trở
thành người lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng. Kể từ đó, người ta
xem Đạt-lai Lạt-ma là hiện thân của Quán Thế Âm. Mỗi một Đạt-lai Lạt-ma được
xem là tái sinh của vị Lạt-ma trước. Đạt-lai Lạt-ma thứ sáu là vị có trình độ
rất cao thâm và cũng là một nhà thơ. Vị hiện nay là vị thứ 14, sinh năm 1933,
sống lưu vong tại Ấn Độ từ 1959 đến nay. Ngài là người lãnh giải Nobel hòa
bình, đồng thời là người đại diện Phật giáo xuất sắc nhất hiện nay trên thế
giới. Danh sách các vị Đạt-lai Lạt-ma: 1/ Gedrun Drub. 2/ Gendun Gyatso. 3/
Sonam Gyatso. 4/ Yonten Gyatso. 5/ Losang Gyatso. 6/ Jamgyan Gyatso. 7/ Kelsang
Gyatso. 8/ Jampel Gyatso. 9/ Lungtog Gyatso. 10/ Tsultrim Gyatso. 11/ Kedrub
Gyatso. 12/ Trinle Gyatso. 13/ Tubten Gyatso. 14/ Tenzin Gyatso.
8. Patrul Rinpoche (1808-1887): Một trong những đại sư
quan trọng nhất của Đại Thành Nyingmapa, học trò của Dodrup Chen. Học trò quan
trọng của ngài là Jumi Pham Nam và Dodrup Chen thứ ba.
9. Đại Thành (Dzogchen): Giáo pháp chủ yếu của Nyingmapa.
Giáo pháp này được xem là Mật giáo cao nhất do đức Thích-ca Mâu-ni chân truyền.
Được gọi là “Đại” vì nó cùng tột, và “Thành” vì không cần bất cứ phương tiện
nào khác. Tâm thức vốn luôn thanh tịnh, hành giả chỉ cần trực nhận điều đó.
Theo truyền thuyết, Dzogchen được Liên Hoa Sinh và Vimalamitra đưa vào Tây Tạng
trong thế kỷ thứ VIII, và sau đó được Longchenpa tổng kết ở thế kỷ XIV. Cuối
cùng tông phái này được Jigme Lingpa kết tập và truyền đến ngày nay.
10. Doe Khyentse (1800-?)
11. Kelsang Gyatso, Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy (xem chú thích
7)
12. Liên Hoa Sinh: Padma Shambhava, sống cùng thời với vua
Tây Tạng Trisong Detsen (755-797), là một nhân vật lịch sử, người sáng lập Phật
giáo Tây Tạng. Ngài sáng lập Nyingmapa, được đệ tử gọi là đức Phật thứ hai.
Ngài có nhiều thần thông nhiếp phục ma quái và thiên tai. Cách tu hành của ngài
rất đa dạng, từ sử dụng phurbu đến tu tập các phép thiền định. Ngài thuộc dòng
các vị đại sư Đại Toàn Năng (mahasiddha), để lại rất nhiều thần thoại. Ở vùng
Himalaya, người ta gọi ngài là Guru Rinpoche (đạo sư quý báu). Tương truyền
Liên Hoa Sinh được sinh ra tại Tây-bắc Kashmir, sớm thông làu mọi kinh sách,
nhất là giáo pháp Mật tông (tantra). Vào thế kỷ VIII, ngài đến Tây Tạng, chống
lại ma quỷ thiên tai và ảnh hưởng của giáo phái Bon. Ngài cho xây tu viện Samye
năm 775 và thời gian hoạt động của ngài tại Tây Tạng xem như chấm dứt tại đó,
nhưng có nhiều tài liệu cho rằng ngài ở Tây Tạng lâu hơn nhiều. Liên Hoa Sinh
truyền giáo cho 25 đệ tử, trong đó có nhà vua Tây Tạng, quan trọng nhất là bí
lục về “Tám tuyên giáo”. Ngoài ra ngài còn để lại nhiều kinh sách giấu trong
rừng núi (terma) và chỉ được khám phá vào thời điểm nhất định. Học trò quan
trọng và là người viết lại tiểu sử của ngài là bà Yeshe Tsogyal.
13. Drukpa Kunley (1455-1570) “con rồng tốt bụng”, một
trong những cuồng thánh nổi tiếng nhất Tây Tạng. Ngài trước theo học dòng
Drukpa trong tông Kagyupa, sau đó lại thích du phương giáo hóa. Ngài được xem
là hiện thân của hai vị Đại toàn năng Saraha và Shavaripa. Ngài có công lớn
trong việc truyền Phật pháp đến Bhutan và nổi danh trong quần chúng vì sự mê
gái và rượu bia. Ngài để lại nhiều bài hát thổ lộ nhận thức chân lý trực tiếp,
có thể so sánh được với những bài kệ của các thiền sư Trung Hoa.
du tăng xin ăn xin áo Ta đã xuất gia
hành hương Một cuộc hành
hương bất tận.”
14. Machig
Labdron (1055-1149): Nữ đạo sư Tây Tạng, được xem là người phát triển và hoàn
thành phép tu Chod (xem thêm chú thích 23).
15. Tịch Thiên (Shantideva): Một cao tăng thuộc phái Trung
Luận. Truyền thuyết cho rằng ông là một vương tử miền Nam Ấn Độ, sống vào thế
kỷ 7 và 8 và hoạt động tại viện Nalanda. Ông là tác giả của Siksamukkaya và
Bodhicaryavatara. Bồ-đề Hành là kinh điển giáo khoa của Phật giáo Tây Tạng.
16. Văn-thù (Manjusri): Bồ-tát tượng trưng cho trí tuệ,
một trong những vị Bồ-tát quan trọng của Phật giáo. Lần đầu tiên được nhắc đến
trong tác phẩm Ayamanjusrimulakalpa thuộc thế kỷ IV. Tranh tượng trình bày
Văn-thù với lưỡi kiếm và kinh Bát-nhã Ba-la-mật. Người ta xem đó là biểu tượng
trí tuệ phá đêm tối của vô minh. Ngài được xưng tán trước khi hành giả nghiên
cứu kinh điển, nhất là kinh điển thuộc Trung Luận tông. Ngài tượng trưng cho
kinh nghiệm giác ngộ. Ngài cũng xuất hiện dưới dạng phẫn nộ, có tên là
Yamantaka (Kẻ chiến thắng thần chết), có dạng vị thần đầu bò. Đây là dạng thần
bảo hộ Yidam quan trọng của Gelugpa. Trong Phật giáo Tây Tạng, các vị luận sư
xuất sắc như Tsongkhapa thường được xem là một hiện thân của Văn-thù.
17. Naropa (1016-1100): Một vị đại sư Ấn Độ theo truyền
thống tantra của 84 vị Đại toàn năng. Người truyền Mật giáo cho ngài là Tilopa,
một trong những Đại toàn năng danh tiếng nhất. Naropa truyền bá Đại thủ ấn nên
phép tu này được gọi là “Sáu yoga của Naropa” (Naro Chodrug), được Marpa truyền
qua Tây Tạng và ngày nay vẫn là giáo pháp quan trọng của Kagyupa. Naropa từng
nhận trách nhiệm quan trọng tại Nalanda.
18. Tilopa (988-1069): Một trong những vị Đại toàn năng và
người đầu tiên truyền Đại thủ ấn. Ông là người thống nhất các phép tu tantra
của Ấn Độ và truyền cho học trò Naropa. Tilopa có nghĩa là người làm dầu mè vì
ông từng làm dầu mè kiếm sống.
19. Chamgyan Khyentse Wangpo (1820-1892) đạo sư miền Đông
Tây Tạng
20. Sanakavasa (Thương-na-hòa-tu), tổ thứ ba thiền tông Ấn
Độ, sau Maha Ca-diếp và A-nan.
21. Vajriputra, một trong 16 A-la-hán của Đại thừa, là các
vị bất sinh. Theo truyền thống Tây Tạng, ông là con của vua Uddhayana, được
Katyayana hướng dẫn và đắc pháp trên một hoang đảo. Tranh tượng hay vẽ
Vajriputra tay cầm phất trần.
22. Dodrup Chen, dòng tái sinh gồm ba vị Dodrup Chen đệ
nhất, nhị và đệ tam. Truyện này kể lại cuộc đời của Dodrup Chen đệ nhị, người
chết trẻ.
23. Chod, phép tu Tây Tạng, xem thân mạng và đời sống của
mình như vật thể cúng dường để giải thoát nghiệp lực. Phép này thường được tụng
niệm với chiêng trống và dựa trên quan điểm Không tính của tư tưởng Bát-nhã.
Được nữ đạo sư Machig Labdron phát triển đầu tiên.
24. Jamgon Kongtrul (1813-1899), đại sư phép Đại Thành ở
miền Đông Tây Tạng.
25. Chogyur Lingpa (1829-1879), một trong những người kiếm
được bí lục của Liên Hoa Sinh.
26. Tara: Nữ Bồ-tát, được đưa vào kinh điển khoảng thế kỷ
VI. Tây Tạng phân biệt Tara trắng và Tara lục. Tranh tượng Tara có nhiều dạng
với ấn quyết và pháp khí khác nhau.
27. Kinh Bồ-đề Hành, tác phẩm của Shantideva, trình bày
các bước tu học Bồ-tát vị, từ lúc phát Bồ-đề tâm (Bodhicitta) cho đến lúc đạt
trí Bát-nhã (Prajna), dựa trên sáu Ba-la-mật (Paramita). Kinh Bồ-đề hướng dẫn
cho cư sĩ hay người mới nhập dòng. Trong tác phẩm này Tịch Thiên giảng giải hai
phép thiền quán đặc biệt nhằm giúp vị Bồ-tát tương lai nhận biết tại sao mình
lại cứu độ chúng sinh và từ đó mà có các hành động cần thiết. Một mặt, hành giả
phải tu học phép quán chiếu cái nhất thể giữa mình và người (paramasamatha),
mặt khác phải học phép hoán chuyển giữa mình và người (paratmaparivartana).
28. Nalanda, viện Phật học danh tiếng tại Ấn Độ, được
Chakraditya, tiểu vương Magadha, thành lập vào thế kỷ thứ hai. Dần dần Nalanda
trở thành trú xứ của các luận sư nổi tiếng của Trung Luận tông như Long Thọ,
Thánh Thiên, Vô Trước, Thế Thân giảng dạy. Các vị này đều lần lượt làm viện
trưởng. Nalanda lúc đông nhất có đến 10.000 học viên. Các khách phương xa như
Huyền Trang, Pháp Hiển, Nghĩa Tịnh đều đến đây tu học. Nalanda là nơi giảng dạy
dạo Phật, kéo dài được 1000 năm. Tại Tây Tạng có một học viện cũng được đặt tên
là Nalanda, xây dựng năm 1351. Theo Huyền Trang và Nghĩa Tịnh thì các tu sĩ học
pháp Nhân minh luận, toán, y học. Ngoài các vị viện trưởng còn có các vị hộ
pháp (Dharmapala), Trần-na (Digagna), Huyền Trang, An Tuệ (Sthiramathi) giảng
dạy. Nalanda bị tín đồ Hồi giáo phá hủy vào thế kỷ 12 và 13.
29. Dakini: Tây Tạng gọi dakini là Khadroma (Kha: Không
gian. Dro: chuyển dịch. Ma: nữ giới), có nghĩa là vị nữ thần di chuyển trên
bình diện thực tại cao nhất. Tranh tượng truyền thống vẽ các vị này dưới dạng
lõa thể đáng sợ. Sự lõa thể tượng trưng cho sự thật không che đậy. Phật giáo
Tây Tạng xem dakini là thần bảo hộ, là người giải phóng năng lực hành giả và
hòa nhập vào năng lực chính mình.
30. Nyingmapa: Một trong những tông phái chính của Phật
giáo Tây Tạng, tông này thống nhất truyền thống của Liên Hoa Sinh và của các
cao tăng Vimalamitra, Vairochana từ Ấn Độ truyền qua vào thế kỷ VIII. Từ thế kỷ
XV trở đi, giáo lý tông này được hệ thống hóa nhưng không được thu nhận vào Đại
tạng (Kangyur/Tengyur). Giáo pháp này lấy Đại Thành làm cơ sở và dựa vào luận
giải của Longchenpa. Nhóm Nyingmapa nguyên thủy gồm cả tăng và tục, và giữ được
truyền thống qua thời kỳ Phật giáo bị Langdharma bức hại (836-842). Qua thế kỷ
XI, phái này bắt đầu phát triển và trong nội bộ chia làm ba dòng chính: lịch
sử, trực tiếp và huệ nhãn. Dòng lịch sử hay Kama (tuyên giáo) dựa trên hiển
giáo pháp Phổ Hiền, trong đó có giáo pháp quan trọng của ba thừa chỉ có trong
dòng Nyingmapa như Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga. Dòng trực tiếp hay Terma dựa
trên các bí lục do Padmashambhava truyền lại. Thí dụ Tử thư (Bardo Thodol) là
một tác phẩm terma. Dòng huệ nhãn dựa trên tiếp xúc với báo thân của các vị đạo
sư đã nhập diệt trong lúc nhập định, theo lời khai thị của các vị đó để tuyên
giáo vào một số thời kỳ nhất định. Thí dụ Longchenpa được xem là trực tiếp nhận
khai thị của Padmashambhava.
31. Gyalwa Karmapa: vị tái sinh Karmapa thứ 16. Karmapa là
tên một dòng cao tăng lãnh đạo phái Karma Kargyu và là dòng tái sinh tulku lâu
đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Tương truyền rằng sự hiện diện của dòng cao
tăng này đã được Phật Thích-ca và Liên Hoa Sinh tiên đoán. Tới nay đã có 16 lần
tái sinh. Kể từ thê kỷ XV, mỗi vị được xác nhận tái sinh sẽ mang vương miện đen
trong một buổi lễ. Vương miện này được xem là hiện thân của Quán Thế Âm.
Mục đích dòng này là giữ sự truyền thừa của Vajrayana.
Danh sách các vị Karmapa: 1/ Karmapa Dusum Khenpa. 2/ Karmapa Karma Paksi. 3/
Karmapa Rangchung Dorje. 4/ Karmapa Rongpe Dorje. 5/ Karmapa Deshin Sherpa. 6/
Karmapa Tongwa Dolden. 7/ Karmapa Chodrug Gyatso. 8/ Karmapa Mikyo Dorje. 9/
Karmapa Kwangchug Dorje. 10/ Karmapa Choying Dorje. 11/ Karmapa Yeshe Dorje.
12/ Karmapa Chengchup Dorje. 13/ Karmapa Dudul Dorje. 14/ Karmapa Thegchog
Dorje. 15/ Karmapa Khachap Dorje. 16/ Karmapa Rigpe Dorje.
32. Kagyu, một trong bốn tông lớn của Phật giáo Tây Tạng,
chủ trương thực hành Đại thủ ấn và Naro Chodruk. Vào thế kỷ XI, Marpa đưa giáo
pháp này vào Tây Tạng, truyền cho Milarepa, rồi Gampopa, môn đệ của Milarepa.
Từ tông này phát sinh ra Karma-Kagyu. Kagyupa rất chú trọng việc tâm truyền
tâm. Giáo pháp này bắt nguồn từ đức Phổ Hiền, được xem là hóa thân của pháp
thân (dharmakaya) và được Tilopa truyền cho Naropa. Marpa nhà dịch thuật mang
qua Tây Tạng. Vào thế kỷ XII, Kagyu thu nhận thêm giáo pháp Kadampa và từ đó
trở thành một tông lớn, lấy nơi sinh của người sáng lập là Dagpo Kagyu làm danh
hiệu. Chỉ trong thế hệ sau, tông này phân thành bốn nhánh: 1/ Khamsang hay là
Karma-Kagyu. 2/ Tsalpakargyu. 3/ Baramkargyu. 4/ Phagmodrukpakargyu. Nhóm cuối
cùng chia thành tám bộ phái, trong đó Drukpakargyu và Trigungkargyu còn tồn tại
đến nay. Một tông phái có liên hệ với Kargyupa do Khyunpo Naljor thành lập. Tên
phái này là Shangpakargyu và phái này có một hệ Đại thủ ấn riêng do em gái của
Naropa là Niguma truyền lại đến ngày nay.
33. Ngũ Đài Sơn: Một trong bốn ngọn núi thiêng liêng tại
trung quốc, trú xứ của Bồ-tát Văn-thù. Ba ngọn kia là Phổ Đà Sơn của Quán Thế
Âm, Nga Mi Sơn của Phổ Hiền, và Cửu Hoa Sơn của Địa Tạng.
34. A-đề-sa (Atisha) 980-1055: Luận sư chuyên nghiên cứu
các phương pháp chứng ngộ Bồ-đề tâm (Boddhicitta). Là tổ của dòng Maghada và
thuyết sư tại Đại học Vikramashila. Ông được mời qua Tây Tạng và sống ở đó 12
năm cuối đời mình. Ông là người sáng lập trường phái Kadampa, gây ảnh hưởng lên
Phật giáo Tây Tạng, nhất là dòng Tsongkhapa. Đệ tử quan trọng nhất của ông là
Dromton. Thế kỷ X được xem là thời đại truyền pháp lần thứ hai từ Ấn Độ qua Tây
Tạng, thông qua dòng vua miền Tây Tây Tạng. Lúc đầu nhà vua cử sứ giả qua Ấn Độ
thỉnh kinh, thí dụ dịch giả Rinchen Sangpo. Về sau nhà vua mời hẳn luận sư Ấn
Độ qua Tây Tạng, và đó là Atisha. Năm 1042 ông đến Tây Tạng, sống ở Netang và
bắt đầu công cuộc giáo hóa. Trong tác phẩm Bodhipattapradhipa (Bồ-đề đạo đăng
luận) ông trình bày toàn cảnh giáo pháp Đại thừa và chia hành giả theo ba căn
cơ: loại người mong được tái sinh nơi tốt lành; loại người tu vì sự giác ngộ
của chính mình (Tiểu thừa); và loại người tu vì sự giác ngộ của tất cả chúng
sinh (Bồ-tát). Công trình chính của Atisha là xếp đặt thứ tự Kinh sách, không
phổ biến bừa bãi. Ông là người đưa Tara trở thành một vị thần bảo hộ quan trọng
của Tây Tạng. Trong các tác phẩm của mình, Atisha thống nhất hai trường phái
chính của Bát-nhã Ba-la-mật: quan điểm tánh không của Long Thọ và tính bao trùm
của tâm thức giác ngộ theo Vô Trước.
35. A-dục vương (Ashoka): Vua xứ Maurya miền Bắc Ấn Độ,
trị vì từ năm 272 đến 236 trước dương lịch. Mất năm 231. Trong lịch sử Ấn Độ
ông để lại nhiều dấu tích quan trọng. Sau cuộc viễn chinh năm 260, ông tỉnh ngộ
và theo Phật giáo, quyết định thành lập “quốc vương phụng sự Phật pháp”. Ông đi
khắp nước để bảo vệ luật lệ và chánh pháp. Ông cũng là người cổ vũ việc ăn chay
và chống tệ giết thú cúng tế. Trong thời của ông, đạo Phật phát triển mạnh ở
Tích Lan. Một người con trai của ông là Mahinda cũng rất có công với đạo Phật.
Tài liệu về ông rất nhiều sai khác. Theo văn hệ Pali, ông là một quốc vương chỉ
phụng sự đạo Phật. Theo tài liệu khảo cổ, nhất là tư liệu khắc trên đá do chính
ông cho ghi lại thì ông ủng hộ tất cả các giáo phái, đúng như trách nhiệm của một
nhà vua. Các tư liệu khắc trên đá hay dùng từ Pháp (dhamma). Người thấy rằng ở
đây không phải là Phật pháp mà là một hệ thống luân lý, do nhiều trào lưu tôn
giáo thời đó tổng hợp lại. Quan điểm của Atisha là làm sao cho thần dân được
hạnh phúc, trong đó gồm tự do, từ bi, tránh chém giết, biết giữ giới, tôn trọng
sự thật, hướng nội… Dưới triều đại ông, nhà nước can thiệp vào Tăng đoàn khi
Tăng đoàn bị đe dọa chia rẽ. Lần đó một số Tăng sĩ bị loại khỏi giáo hội và
hoàn tục.
36. Tonglen: Pháp tu Kim cang thừa Tây Tạng, nhằm chuyển
ác nghiệp chúng sinh lên chính mình, tự mình gánh chịu mọi quả xấu thay cho
chúng sinh.
37. Yeshe Tsogyal (757-817): Người phụ nữ nổi tiếng nhất
của tông Nyingmapa Tây Tạng và là đệ tử xuất chúng của Liên Hoa Sinh. Bà thuộc
vương tước Khacheng, năm 12 tuổi được vua Trisong Detsen cho vào cung. Tại đây
bà gặp cao tăng Ấn Độ Shantirakshita. Sau đó bà được Liên Hoa Sinh chọn là bạn
đồng tu, truyền cho phép phurbu. Bà là người ghi lại nhiều lời khai thị của
Liên Hoa Sinh trong các bí lục terma và ghi lại đời ông. Khoảng cuối đời bà
sống tại miền Đông Tây Tạng. Ngày nay người ta còn thờ cúng bà như một dakini.
Theo một số truyền thuyết bà sống trên trăm tuổi.
38. Bát-nhã Ba-la-mật Kinh (Prajna Paramita Sutra): Câu
chuyện này có lẽ nói đến bộ Tâm Kinh chỉ dài hơn 200 chữ của Bát-nhã Ba-la-mật
Kinh (“Kinh đưa người qua bờ kia”). Thật ra toàn bộ là một bộ Kinh gồm khoảng
40 Kinh Đại thừa được gọi chung là Bát-nhã. Kinh này là dạng Kinh Phương đẳng
(Vaipulya Sutra) và có lẽ được ghi lại khoảng đầu dương lịch. Ngày nay phần lớn
Kinh chỉ còn trong dạng chữ Hán hoặc Tây Tạng, không mấy còn trong dạng
Sanskrit. Trong bộ này, Kinh Kim cương Bát-nhã Ba-la-mật-đa (Vajracchedika
sutra) và Ma ha Bát-nhã Ba-la-mật đa Tâm kinh (Maha Prajna Paramita Hrdaya
sutra) là nổi tiếng nhất và được dịch ra nhiều thứ tiếng, kể cả Anh và Pháp
ngữ. Luận sư quan trọng nhất của Kinh Bát-nhã là Long Thọ.
39. Thangka: Chỉ các tranh vẽ của Phật giáo Tây Tạng. Nội
dung tranh thường là đồ hình mandala, các tiền kiếp đức Phật, vòng luân hồi,
các vị thiện thần ác thần, các vị đạo sư. Tại Tây Tạng người ta tin rằng việc
hoàn thành một thangka mang lại rất nhiều công đức tương tự như in Kinh sách.
40. Vairochana: Người Tây Tạng sống ở thế kỷ VIII, là một
trong năm người đầu tiên được thọ tỳ-kheo. Có thời gian ông là thông dịch viên
cho Liên Hoa Sinh. Về sau vua Trisong Detsen gửi ông đi Ấn Độ học mật pháp. Ông
có thần thông đặc biệt, gọi là thần túc thông, đi nhanh như chim bay. Khi về
lại Tây Tạng ông phiên dịch Kinh sách, đặc biệt là Kinh sách Bát-nhã. Sau nhiều
năm sống ở Kham, ông đi trung quốc và truyền giáo pháp Mật tông tại đó.
41. Trisong Detsen (742-798): Vua Tây Tạng có công lớn đưa
Phật giáo vào nước này. Ông là người mời Liên Hoa Sinh đến Tây Tạng, cho dịch
Kinh sách và xây nhiều bảo tháp. Ông là một trong 25 học trò của Liên Hoa Sinh.
42. Sri Simha: Người Tây Tạng sống vào thế kỷ VIII, là một
trong những người thuộc phái đoàn được nhà vua Trisong Detsen cử di Ấn Độ để
mời Liên Hoa Sinh qua Tây Tạng. Ông là một trong năm người Tây Tạng đầu tiên
thọ tỳ-kheo, và là người có công dịch Kinh sách qua tiếng Tây Tạng. Người ta kể
rằng cuối đời ông chết thảm khốc.
43. Vimalamitra: Người Ấn Độ sống vào thế kỷ VIII, vốn là
thầy của Liên Hoa Sinh. Ông được Trisong Detsen mời qua Tây Tạng giáo hóa, và
tham gia dịch nhiều Kinh sách.
44. Maha Ati: Một trong ba pháp tu tối thượng của tantra
Ấn Độ, là Maha yoga, Anu yoga, và Ati yoga.
45. Garab Dorje
Tương truyền là vị đạo sư đầu tiên của trường phái Đại
Thành. Có nhiều giả thuyết về năm sinh cùa Garab Dorje, có sách ghi là năm 516
tdl, tức 28 năm sau khi Phật Thích-ca thành đạo. Có tài liệu cho rằng ông sinh
năm 55 sdl.
46. Dudchom Rinpoche (1904-1987): Vị đạo sư cuối cùng của
dòng Nyingmapa, từ trần tại Pháp. Ông là một trong những tu sĩ và thiền sư xuất
sắc nhất của Tây Tạng trong thế kỷ XX. Ông được xem là một hiện thân của Liên
Hoa Sinh và là người khám phá nhiều bí lục.
47. Đại Ấn Quyết (Maha mudra): Một trong những giáo pháp
cao nhất của Kim cương thừa, được truyền dạy trong tông phái Kargyupa. Trong
tiếng Tây Tạng, Đại ấn quyết được hiểu là “tâm ấn về chứng ngộ Không”
(sunyata), về giải thoát khỏi luân hồi (samsara), và hiểu rằng hai mặt đó không
hề rời nhau. Giáo pháp này xem Phật Phổ Hiền (Samantabhadra) hiện thân của pháp
giới (Dharmkaya), là người đã truyền Đại ấn quyết cho vị đại toàn năng Tilopa,
rồi tiếp tục truyền cho Naropa, Marpa, và Milarepa qua Tây Tạng. Phép tu của
Đại ấn quyết bắt đầu bằng tu chỉ (Samatha) và dựa vào đó mà biến mọi kinh
nghiệm thành liễu ngộ Không. Có người xem Đại ấn quyết như “thiền” Tây Tạng.
Ngoài phép tu thông thường, có phép tu đặc biệt là Naro Chodrug.
48. A-di-đà
(Amitabah): Nghĩa là “vô lượng quang”. Một trong những vị Phật quan trọng và
được thờ cúng nhiều nhất trong Đại thừa (Mahayana). A-di-đà là giáo chủ của cõi
Cực Lạc (Sukhavati) ở phương Tây. Phật A-di-đà (48) được thờ cúng trong Tịnh độ
tông, tại trung quốc, Nhật Bản, và Việt Nam.
49. Dilgo
Khyentse Rinpoche (1910-1991): Là một đại sư của phép Đại thành, và cũng là
người khám phá nhiều bí lục của Liên Hoa Sinh. Ông là đệ tử của Chamyang
Khyentse Choki Lodro và là thầy của nhiều Lạt-ma khác, kể cả Đạt-lai Lạt-ma thứ
XIV hiện nay.
50. Bí lục
(terma): Trong Phật giáo Tây Tạng, terma là Kinh sách của thế kỷ thứ VIII vào
thời kỳ mới truyền bá Phật pháp, phải giấu kín để được khám phá lúc cơ duyên
chính muồi. Người khám phá ra Kinh sách đó gọi là terton, có trách nhiệm truyền
bá và giải thích. Đặc biệt trong dòng Nyingmapa, mọi người rất tin tưởng terma.
Việc cất giữ Kinh sách ở chỗ bí mật thật ra là truyền thống Ấn Độ. Người ta còn
kể lại rằng Long Thọ nhận Kinh điển từ Long vương (Naga) trao cho. Tông phái có
nhiều terma nhất là Nyingmapa, mà phần quan trọng nhất là do Liên Hoa Sinh và
Yeshe Tsogyal truyền lại. Các bí lục này không chỉ gồm giáo pháp từ Ấn Độ, mà
của cả xứ Orgyen. Theo tương truyền, Liên Hoa Sinh giấu ở 108 chỗ tại Tây Tạng.
Một trong những bí lục quan trọng ấy kể về cuộc đời Liên Hoa Sinh, và bộ Tử thư.
Ngoài ra còn có những tài liệu về thiên văn và y học. Khoảng giữa thế kỷ 10 và 14,
nhiều vị nhận được khải thị tìm được terma, thường thường là khải thị trong
giấc mộng hoặc linh ảnh. Các vị đó có trách nhiệm tìm kiếm, xếp đặt, và luận
giải thêm. Trong trường phái Nyingmapa, các vị terton được trọng thị, nhất là
năm vị “vua tìm báu vật”, trong đó có Orgyan Pema Lingpa (1445-1521). Có khi
một terma vừa được tìm ra thì phải giấu trở lại vì chưa đến lúc công bố. Các
terma đó được gọi là “của báu phải giấu hai lần”.
51. Saraha, một
trong các vị Đại toàn năng Ấn Độ. Tương truyền ông là con của dakini. Người ta
kể ban ngày ông cử hành lễ bà-la-môn để kiếm tiền, ban đêm tu học Mật tông và
hay uống rượu. Các truyện kể về ông đều nhắc lại truyện củ cải một cách thú vị.
Trong các tranh tượng, người ta thường vẽ ông là thợ rèn mũi tên.
52. Đại toàn
năng (Maha siddha): Trong Kim cương thừa, đó là những vị khổ hạnh đã đạt giáo
pháp tantra. Họ có siddhi đánh dấu giác ngộ. Người ta nhắc đến nhiều nhất 84 vị
của thế kỷ thứ 8 đến 12 tại Ấn Độ, là những vị tu học khác hẳn truyền thống tu
tập ở chùa Đại thừa. Đó là những vị nam nữ thuộc nhiều tầng lớp xã hội, để lại
nhiều bài kệ đặc biệt. Ngày nay vẫn còn tiểu sử của các vị ấy trong Kinh sách
Tây Tạng như Chatrapa người hành khất, Kantali thợ may, và Kumaripa thợ gốm.
Người ta còn kể đến Indrabhuti và em gái Laksminkara, và luận sư Shantipa. Các
vị có điểm chung là đều trải qua cơn chấn động lớn, gặp được khai thị của đạo
sư và biến chấn động thành giải thoát. Các vị thường có thái độ khó hiểu và ưa
dùng nghịch lý để diễn tả cái không thể lĩnh hội được của sự thật vô thường.
Trong tiểu sử của vị đại toàn năng Tandepa, ta thấy sự hòa nhập của một cuộc
đời tối tăm nhất và sự giác ngộ. Ông là người ham đánh bạc, phá tan gia sản và
chỉ nhờ câu khai thị “Thế giới thật ra cũng trống rỗng như túi tiền của mình”,
ông mới giác ngộ và đạt Niết-bàn. Tại Tây Tạng, truyền thống ca hát của các vị
đại thành này được Milarepa và Drukpa Kunleg tiếp nối. Bài ca của người thợ rèn
Saraha có đoạn: “Ai thấu hiểu rằng, đầu đuôi chẳng có tâm thức nào cả, người đó
đã thực hiện tâm Phật ba đời.”
53. Kadampa:
Nguyên ngữ là “khai thị bằng lời”, một tông phái của Phật giáo Tây Tạng do đại
sư Atisha sáng lập. Tông này chủ trương tái lập Kinh điển sau khi thấy Phật
giáo suy tàn ở Tây Tạng vào thế kỷ X. Giáo pháp quan trọng nhất được gọi là Lojong
(sám hối). Tông này không còn truyền đến ngày nay, nhưng giáo pháp lại được các
tông phái khác hấp thụ, nhất là Gelugpa. Đóng góp lớn nhất của Kadampa vào Phật
giáo Tây Tạng là một số phép tu thiền, hay còn gọi là phép sám hối. Phép này
dựa trên quan điểm Bồ-tát đạo, và được xem như một pháp tu để phát triển Bồ-đề
tâm. Trong thời Atisha, phép này chỉ truyền miệng, về sau mới ghi lại. Hai văn
bản quan trọng nhất là “Tám câu sám hối” của Kadampa Geshe Langri Thangpa và
“Bảy ý nghĩa của sám hối”.
WP: Chúc
Huy Nguyễn minh Hoàng
Discussion about this post