PHÉP THIỀN ĐỊNH VÀ CÁC HỌC PHÁI (BÀI 3)
Hoang Phong chuyển ngữ
Lời giới thiệu của người dịch
Trên
bình diện tổng quát thì tất cả các tôn giáo – kể cả Phật Giáo dưới một vài hình
thức biến dạng mang tính cách đại chúng – đều hướng vào chủ đích tạo ra một đối
tượng nào đó cho con người bám víu. Ngược lại Dharma tức là Đạo Pháp của
Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về
với chính mình, nhờ vào sức mạnh mang lại từ lòng quyết tâm tự biến cải chính mình.
Sự biến cải đó gọi là thiền định.
Một
tập san Phật giáo vừa được ra mắt ở Pháp vào tháng 9 năm 2013 và trong số đầu
tiên đã đặc biệt nêu lên chủ đề thiền định. Bài mở đầu do một học giả Pháp rất lỗi
lạc là Philippe Cornu viết (đã được chuyển ngữ), nêu lên một vài nét chính yếu
của phép luyện tập này, và tiếp theo đó là một loạt các bài viết khác xoay
quanh cùng chủ đề. Tập san mang tựa là Regard
Bouddhiste, có thể tạm dịch là Hướng
nhìn Phật Giáo.
Trong
số các hướng nhìn khác nhau về thiền định nêu lên trong tập san, chúng tôi xin
chọn ra ba bài đại diện cho Phật Giáo Tây Tạng, thiền học Zen và Phật Giáo
Theravada. Tất nhiên là nội dung trong các bài báo ngắn không thể so sánh với những
gì thật sâu sắc và chi tiết trong kinh sách và các bài khảo cứu, thế nhưng cũng
có thể mang lại cho chúng ta một ý niệm nào đó về một phép luyện tập chủ yếu và
không thể thiếu sót đối với những người tu hành chân chính. Ba bài này sẽ được
lần lượt chuyển ngữ dưới đây:
bài 1: Phỏng vấn nhà sư Ringou Tulkou Rinpoché (Lạt-ma Tây Tạng)
bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền (Thiền sư Pierre Dôkan Crépon)
bài 3: Như một dòng nước yên lặng đang luân lưu (Tỳ-kheo Khất Sĩ Ajahn Chah)
Hình bìa tập
san Regard Bouddhiste
(số tháng 9
và 10 / 2013)
Bài 3
NHƯ MỘT DÒNG NƯỚC LẶNG LẼ TRÔI
Bài giảng tại chùa Wat Tum Saeng Pet
vào dịp kiết hạ năm 1981
Tỳ kheo Khất Sĩ Ajahn Chah
Bản dịch tiếng Pháp: Jeanne Schut
Chuyển ngữ: Hoang Phong
Tỳ kheo Khất Sĩ Ajahn Chah (1918-1992)
Ajahn Chah (1918-1992) là một nhà sư nổi
tiếng của Thái Lan và cũng được xem là một trong số các vị thiền sư lỗi lạc nhất
của thế kỷ XX. Cách thuyết giảng trực tiếp, minh bạch và dễ hiểu của ông đã thu
hút được đông đảo người nghe. Kiến thức uyên bác của ông cũng đã góp phần giúp
cho Phật Giáo Thái Lan tiến một bước thật dài trong thế kỷ XX, và đã tạo thêm nhiều
uy tín cho Phật Giáo Theravada nói chung trong thế giới Tây Phương.
Ngày
còn trẻ ông đã từng xuất gia suốt trong ba năm liền, thế nhưng sau đó ông đã trở
về giúp cha mẹ trong việc đồng áng. Năm hai mươi tuổi ông lại quyết định trở vào
chùa, và sau đó được thụ phong tỳ kheo vào ngày 26 tháng 4 năm 1939. An phận với
cuộc sống của một người tỳ kheo trẻ, ông chăm lo tu học và nghiên cứu kinh sách,
và nhờ đó ông cũng rất thông thạo tiếng Pa-li. Thế nhưng năm năm sau thì cha ông
ngã bệnh rồi qua đời, biến cố ấy đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc
đời của ông. Trực tiếp cảm nhận được bản chất của khổ đau là gì nên ông lại càng
muốn đến gần hơn nữa với cái bản chất ấy của sự sống hầu giúp mình tìm hiểu sâu
xa hơn những lời giáo huấn của Đức Phật. Ông rời chùa và sống cuộc đời của một
người tỳ kheo khất sĩ. Ông đi chân đất hơn bốn trăm cây số xuống miền trung nước
Thái, khất thực từ làng này sang làng khác, đêm ngủ dưới các gốc cây hay trong
nghĩa địa. Sau cùng ông xin vào tu trong một ngôi chùa tuy nhỏ nhưng thật nghiêm
khắc, bắt người xuất gia phải giữ giới luật thật nghiêm túc và khắt khe. Thế nhưng
chính trong ngôi chùa này ông lại được nghe nói đến một vị thiền sư lỗi lạc là
Ajahn Mun Bhuridatto tu tập trong một ngôi chùa ở miền đông bắc Thái. Ajhan
Chah lại ôm bình bát quay về phương bắc để xin tu tập với vị thiền sư này.
Một
hôm ông hỏi thiền sư Ajahn Mun rằng kinh sách thật hết sức phong phú, chính xác
và vô cùng tinh tế, thế nhưng ông không biết phải làm thế nào để ứng dụng vào
việc tu tập của mình. Nhà sư Ajahn Mun trả lời rằng giáo huấn thật hết sức
phong phú và chi tiết, thế nhưng cốt lõi thì lại hết sức đơn giản, phát huy
được sự chú tâm thì sẽ nhận thấy ngay rằng tất cả cũng chỉ là do nơi tâm (coeur-esprit /
heart-spirit / chữ tâm có hai nghĩa: vừa tâm lại vừa tim) của mình, đấy
chính là con đường tu tập đích thật. Một câu giảng thật hết sức ngắn gọn thế nhưng
đã mở ra cho Ajahn Chah cả một Con Đường.
Sau
đó ông lại trở về với lối sống của một người tỳ kheo khất sĩ trong khu rừng Pah
Pong, đầy cọp, rắn và muỗi sốt rét. Thế nhưng rất nhiều người vào rừng tìm ông
để xin làm đệ tử. Một ngôi chùa mang tên là Wat Pah Pong được dựng lên trong
khu rừng, và dần dần sau đó nhiều ngôi chùa khác được dựng lên chung quanh.
Năm
1967, một tỳ kheo người Mỹ vừa mới được thụ phong là Ajahn Sumedho lên vùng bắc
Thái để nhập cư kiết hạ và tình cờ được nghe nói đến Ajahn Chah. Nhà sư trẻ người
Mỹ này tìm gặp ông và xin thụ giáo. Ajahn Chah thường bắt các đệ tử của ông sống
thật khắc khổ, sai bảo những việc đôi khi vượt hơn cả sức chịu đựng của họ với mục
đích thử thách quyết tâm của họ và đồng thời cũng giúp họ ý thức được là không
nên chỉ biết bám víu vào sự an lạc mang lại từ phép thiền định. Nhà sư trẻ Ajahn
Sumedho sau năm năm chịu đựng đã vượt được các thử thách ấy và Ajahn Chah bắt đầu
giảng Pháp cho ông. Ajahn Sumedho ngày nay đã trở thành một tỳ kheo khất sĩ người
Tây Phương rất nổi tiếng, và hiện trụ trì một ngôi chùa ở Anh Quốc.
Năm
1981, Ajahn Chah ngã bệnh vì bị tiểu đường. Người ta đưa ông về Bangkok để chữa
trị, thế nhưng bệnh tình ngày càng trầm trọng. Một thời gian sau thì ông không
còn cử động được và cũng không còn nói năng gì được nữa. Bài giảng dưới đây là
một trong những bài giảng cuối cùng của ông trước khi lâm bệnh. Người dịch cũng
xin mạn phép trích ra đây một câu giảng của ông, vì thiết nghĩ câu này cũng đáng
cho mỗi người trong chúng ta suy ngẫm và cũng là một dịp để nhìn lại hành động,
cuộc sống và mọi thứ mưu tính trong tâm thức mình.
“Đạo đức là căn bản thật cần thiết giúp mang lại một
thế giới hài hòa, trong thế giới đó mọi người đều được sống xứng đáng như những
con người, không như loài thú vật. Phát huy đạo đức là tâm điểm của việc tu tập.
Hãy giữ gìn giới luật, phát động lòng từ bi và kính trọng mọi hình thức của sự
sống. Phải thận trọng trong từng lời nói và hành động. Hãy xem đạo đức như một
phương tiện nhằm giúp mình đơn giản hóa và tinh khiết hóa cuộc sống của mình.
Khi nào đạo đức trở thành nền móng hiện ra trong từng hành động của mình, thì
tâm thức cũng theo đó mà trở nên nhân từ, trong sáng và an bình hơn. Trong bối
cảnh ấy, thiền định mới có thể nẩy nở một cách dễ dàng được” – Ajahn
Chah.
Bài Giảng của
Ajahn Chah
Bắt
đầu từ giây phút này, tôi xin quý vị hãy cố gắng chú tâm, đừng để tâm trí mình phiêu
du hết nơi này đến nơi khác. Quý vị hãy tưởng tượng rằng mình đang ngồi một mình
trên đỉnh núi cao hay trong một khu rừng hoang vắng. Quý vị là gì và tại sao lại
đang ngồi ở đấy? Phải chăng quý vị đang mang một thân xác và một tâm thức hay
không – thật thế, không có gì khác hơn ngoài hai thứ ấy. Những gì cất chứa bên
trong nhân dạng một con người đang ngồi nơi ấy chỉ đơn giản gồm một thứ gọi là
“thân xác”, và một thứ gọi là “tâm thức”. Đối với tâm thức thì
nó là một thứ gì đó biết ý thức và trong lúc này thì nó cũng đang suy nghĩ (không cần giảng về
vô ngã là gì thế nhưng nếu nhìn vào nhân dạng con người của mình đang ngồi lẻ loi
trên đỉnh núi hay hun hút trong chốn rừng sâu thì mình cũng cảm thấy tính cách
vô thực thể và vô ngã của chính mình. Xin chắp tay bái phục !).
Nếu
muốn tìm hiểu xem một cái gì đó đang ngồi tại nơi này và trong giây phút này,
thì đấy cũng chỉ là một thân xác và một tâm thức. Chúng ta thường lẫn lộn giữa
hai thứ ấy, thế nhưng nếu muốn tìm thấy sự an bình thì phải hiểu bản chất đích thật
của hai thứ ấy là gì. Trong lúc này thì tâm thức chưa được luyện tập, nên nó còn
nhơ bẩn và u tối – có nghĩa là nó chưa phải là một một tâm thức tinh khiết. Vì
thế chúng ta phải sử dụng phép thiền định để luyện tập nó.
Nhiều
người nghĩ rằng thiền định là phải ngồi xuống, hai chân bắt tréo vào nhau, thế
nhưng thật ra thì cũng có thể thiền định với bất cứ một tư thế nào. Chúng ta có
thể thiền định khi đang đứng, đang ngồi, đang đi hay đang nằm, tóm lại là có thể
thiền định vào bất cứ lúc nào (trong nếp sống thường nhật). Nghĩa từ chương của
chữ Samâdhi là “tâm thức được
thiết lập một cách vững chắc”. Nếu
muốn phát huy samâdhi thì không được
bóp ngạt tâm thức! Luyện tập samâdhi là
nhằm phát huy trí tuệ và sự hiểu biết. Samâdhi
là một tâm thức vững chắc, tập trung vào một điểm duy nhất. Vậy thì nó tập
trung vào điểm nào? Đấy là điểm thăng bằng. Nó tập trung đúng vào điểm ấy. Tuy
nhiên nhiều người lại nghĩ rằng luyện tập thiền định là phải tìm cách làm cho tâm
thức phải im lặng. Họ thú nhận rằng: “Tôi cố gắng ngồi xuống để thiền định
thế nhưng không sao giữ cho tâm thức dừng lại được một phút nào cả. Nó chạy hết
đầu này đến đầu kia. Vậy làm thế nào để bắt nó phải dừng lại?” Thiền định
nào có phải là bắt tâm thức dừng lại đâu. Phải luôn cần có một sự chuyển động
thì sự hiểu biết mới có thể bùng lên được.
Người ta thường than phiền: “Tâm
thức phóng đi, tôi lôi nó trở lại; nó lại phóng đi, tôi lại phải lôi nó về”.
Ngồi đấy để đuổi bắt tâm thức quả là mất hết thì giờ. Họ cứ tưởng rằng tâm thức
chạy tán loạn ra khắp hướng, thế nhưng thật ra thì đấy chỉ là một cảm giác mà
thôi (tâm thức vẫn
ở một chỗ, tức là bên trong não bộ của mình, nó chẳng chạy cũng chẳng phóng đi đâu
cả, nó chỉ dậm chân tại chỗ để mà hành hạ mình thế thôi). Chẳng hạn một
số người khi nhìn vào gian phòng này sẽ thốt lên: “Ồ, gian phòng to quá!”
Thế nhưng thật ra thì gian phòng cũng chẳng to lớn gì. Nếu quý vị cho rằng nó to
lớn thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận của quý vị mà thôi (chỉ là một sự diễn đạt của tâm thức).
Trên thực tế, gian phòng chỉ mang kích thước của nó, kích thước đó (tự nó) không
lớn cũng không nhỏ (to lớn hay chật hẹp là do sự diễn đạt chủ quan và quy ước của
tâm thức khi nó cảm nhận được kích thước của gian phòng. Đối với gian phòng thì
nó vẫn là như thế, nó có kích thước như thế, không rộng cũng không hẹp. Thí dụ
ngoài sân có ba gốc xoài, con số ba và các cây gọi là cây xoài chỉ có trong tâm
thức của người nhìn ra sân, ngoài sân chỉ có “cây cối” mà thôi).
Thế nhưng mọi chuyện lại cứ xảy ra như thế! Người ta bỏ hết thì giờ vào việc đuổi
theo các cảm giác (impression, feeling / cảm tưởng hay sự tưởng tượng, sự đánh giá hay diễn
đạt) của mình. Thiền định là nhằm vào mục đích mang lại sự an bình, (không phải là cách
đuổi bắt các sự cảm nhận)... Vì thế trước hết phải hiểu an bình là gì,
nếu không thì chẳng bao giờ chúng ta có thể tìm được nó.
Thông thường người ta nghĩ rằng
“an bình” là một sự lắng dịu của tâm thức, thế nhưng thật ra an bình
là sự lắng dịu của những thứ ô nhiễm tâm thần (những xúc cảm bấn loạn, những sự quán nhận
sai lầm về hiện thực, nói theo kinh sách thì đấy là các tác động của vô minh).
Đối với sự an bình theo cách mà người ta thường hiểu thì các thứ ô nhiễm tâm thần
cũng chỉ tạm thời được đặt sang một bên, tương tự như lấy một tảng đá đè lên một
đám cỏ. Bởi vì khi lấy tảng đá đi thì vài hôm sau cỏ lại mọc lên trở lại. Cỏ chỉ
tạm thời bị lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Samâdhi (sự tập trung tâm thần, sự tĩnh lặng, sự định tâm hay
“nhập định”) cũng hoàn toàn tương tự như thế: tâm thức tạm
thời lắng dịu thế nhưng các thứ ô nhiễm tâm thần thì vẫn còn nguyên! Thể dạng samâdhi mang lại một hình thức an bình nào
đó, tương tự như tảng đá che khuất cỏ, sự an bình ấy chỉ có tính cách tạm thời (trong khi thiền định
chúng ta có thể phát huy được thể dạng samâdhi, thế nhưng sau khi nhập cuộc trở
lại với các sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật thì đâu cũng lại hoàn đấy).
Nếu muốn tìm thấy một sự an bình đích thật thì phải phát huy trí tuệ. Sự an bình
do trí tuệ mang lại sẽ tương tự như tảng đá để nguyên một chỗ. Nếu quý vị không
lấy tảng đá đi thì cỏ cũng sẽ không bao giờ có thể mọc lại được. Đấy là sự an bình
đích thật, và cũng là sự chấm dứt của các thứ ô nhiễm tâm thần.
Chúng ta vừa nói đến trí tuệ (pannâ) (pannâ là tiếng Pa-li, tiếng Phạn là prajnâ)
và sự tĩnh lặng (samâdhi) có vẻ như là
hai thứ khác nhau, thế nhưng phải hiểu rằng từ căn bản, hai thứ ấy cũng chỉ là
một. Trí tuệ là thể dạng năng động của samâdhi,
và samâdhi là thể dạng thụ động của
trí tuệ. Cả hai có cùng một nguồn gốc như nhau, nhưng lại hướng vào hai chiều
khác nhau và đảm trách các chức năng khác nhau […].
Khi nào cần phải ngồi xuống để thiền
định thì quý vị cứ ngồi xuống, thế nhưng không được quên rằng cứ phải ngồi xuống
thì mới có thể thiền định được. Phải để cho tâm thức được tự do sống một cách
trọn vẹn với mọi sự vật, hãy để cho mọi sự vật chuyển động hầu giúp chúng cảm
nhận được bản chất đích thật của chúng (câu này khá bao quát và trừu tượng: có nghĩa là hãy để cho
mọi sự vật – các hiện tượng thuộc bối cảnh bên ngoài và các tư duy trong tâm thức
mình – chuyển động một cách tự nhiên. Hãy cảm nhận chúng là như thế và không
tìm cách diễn đạt hay lèo lái chúng, hãy để chúng diễn tiến đúng với bản chất
và các quy luật thiên nhiên chi phối chúng. Thí dụ đối với tư duy hiển hiện
trong tâm thức thì cứ theo dõi chúng, không tham gia cũng không chống lại, mà
chỉ nên xem chúng là vô thường và không đúng thật, không mang một giá trị đích
thật nào cả). Vậy phải nhìn vào chúng như thế nào? Phải xem chúng mang
tính cách vô thường, không hoàn hảo và vô cá thể (impersonal / vô ngã, không hàm chứa một thực
thể hay một sự hiện hữu đích thật). Tất cả đều bất định. Nếu quý vị cho
rằng: “Vật này đẹp tuyệt vời! Nhất định tôi phải chiếm hữu nó mới được”,
thì quý vị cũng nên nghĩ ngay rằng: “Chuyện đó chưa chắc đã là đúng” (chưa chắc vật ấy đẹp
tuyệt vời một cách thật sự). Hoặc nếu quý vị cho rằng: “Tôi không
thích thứ ấy một chút nào cả!”, thì cũng phải nghĩ ngay: “Chưa chắc là
đúng”. Có phải thế hay không? Quả đúng là như thế đấy quý vị ạ! Chắc chắn
không sai đâu (diễn
đạt một sự cảm nhận nào đó cũng chỉ là một sự đánh giá chủ quan, sự diễn đạt ấy
chỉ mang tính cách nhất thời – tức là vô thường – và không hề hàm chứa một giá
trị tuyệt đối nào cả).
Có những món ăn trông có vẻ thật tuyệt
vời, thế nhưng ngay cả đối với những chuyện (nhỏ nhặt) như thế quý vị cũng phải tự nhắc nhở mình:
chưa chắc đã đúng. Tuy có vẻ đúng thật là như thế, đĩa thức ăn thật ngon, thế nhưng
quý vị cũng cứ phải nghĩ rằng: “Chưa chắc!” Nếu muốn kiểm chứng điều ấy
thì cũng không phải là chuyện quá khó: quý vị cứ thử ăn món ăn mà mình ưa thích
mỗi ngày xem sao – tôi xin nhắc lại là quý vị ăn mỗi ngày cùng một món ấy, thì
sớm muộn quý vị cũng chán ngấy và sẽ phải thú nhận rằng: “Món ăn không còn
ngon như trước nữa”. Sau đó quý vị cũng có thể nghĩ rằng: “Thật ra
tôi thích các món ăn khác hơn” Thế nhưng cũng lại chưa chắc là đúng như thế
(tóm lại là phải
luôn nghi ngờ mọi cảm nhận của mình. Bởi vì đấy cũng chỉ là những phản ứng của
tâm thức chi phối bởi tác động phát sinh từ xung năng của nghiệp. Nếu chú ý thì
chúng ta sẽ nhận thấy là trong suốt bài giảng nhà sư Ajahn Chah luôn tìm cách đơn
giản hóa căn bản và các khái niệm thật thâm sâu trong giáo lý nhằm giúp người
nghe dễ hiểu và dễ theo dõi hơn. Ông không hề sử dụng các thuật ngữ chuyên biệt
trong kinh sách, cũng không giải thích dông dài về lý thuyết)!
Một số người hành thiền ngồi im
“trong tư thế thiền định” cho đến khi tâm thần ngầy ngật, nhìn vào cứ
tưởng như họ sắp chết đến nơi, họ không còn ý thức được là mình đang ở đâu nữa.
Quý vị không nên để mình rơi vào tình trạng bế tắc như thế! Nếu cảm thấy buồn
ngủ thì nên đứng lên đi đi lại lại! Hoặc sửa lại tư thế ngồi! Phải biết suy nghĩ.
Nếu thật sự mệt mỏi thì cứ nằm ngủ, thức dậy sẽ thiền định trở lại. Luyện tập là
phải như thế: phải ý thức, sáng suốt và nhận định đúng đắn. Tu tập trước nhất là
phải quán nhìn vào thân xác và tâm thức mình. Phải nhìn thấy bản chất vô thường
của chúng (những
gì thuộc thân xác như vóc dáng, sắc đẹp, sức khoẻ, duyên dáng, mỹ miều… và cả
những thứ hỗn độn trong tâm thức như yêu thương, hờn giận, tiếc nuối, hy vọng,
lo buồn, sợ hãi, ghét bỏ, thông minh, đần độn…, tất cả đều là vô thường),
sau đó mọi thứ khác cũng sẽ chuyển động theo (người thân, bạn hữu, của cải, danh vọng, thông
thái, dốt nát… cũng đều là vô thường, cũng chẳng khác gì như thân xác và các
tư duy hỗn độn trong tâm thức mình). Hãy nghĩ đến những chuyện ấy
trong khi thưởng thức một món ăn ngon (không nên để cho các giác cảm thích thú – cũng như đớn đau
– mang tính cách nhất thời có thể che khuất hiện thực và đánh lạc hướng sự quán
nhận của mình về bản chất của mọi hiện tượng). Hãy nghĩ rằng:
“Chẳng có gì chắc chắn cả” (đang ăn ngon thế nhưng món ăn chưa chắc thật sự là ngon như
mình tưởng, hãy liên tưởng đến thí dụ vừa được nêu lên trên đây). Mỗi
khi các phản ứng (có
nghĩa là những sự cảm nhận và diễn đạt của tâm thức) nổi lên thì phải
hạ chúng đo ván ngay, không nên để chúng cho mình do ván. Mỗi khi cảm thấy không
thích một thứ gì đó (tình trạng bất toại nguyện) thì quý vị đành nhận
chịu khổ đau: đấy là cách để cho hoàn cảnh hạ mình đo ván! Thái độ (thụ động)
đó không thể giúp quý vị vật ngã các hoàn cảnh khó khăn và cho chúng đo ván được.
Hãy chuyên cần luyện tập trong bất cứ
tư thế nào: dù là đang ngồi, đang đi, đang đứng hay đang nằm. Bởi vì dù là mình
đang ngồi, đang đứng, đang đi hay đang nằm, thì nóng giận vẫn cứ có thể bùng lên
với mình được, hoặc một sự thèm muốn nào đó cũng có thể hiện lên dù là mình đang
trong tư thế nào. Vì thế không nên mâu thuẫn với chính mình (tự lừa dối mình)
mà phải luyện tập trong bất cứ tư thế nào (không nên vin vào một lý do thiếu chánh đáng nào cả để
tránh né việc luyện tập). Nhất là không nên luyện tập cho có, mà phải
cố gắng một cách nghiêm chỉnh! Trong lúc đang ngồi hành thiền biết đâu cũng có
thể hiện ra trong tâm thức mình một khó khăn nào đó (chẳng hạn như bỗng dưng cảm thấy buồn bực, sợ
hãi, giận dữ, ganh tị, thèm muốn…), thế nhưng chưa kịp dẹp xong khó
khăn ấy thì một khó khăn khác lại hiện ra. Vậy quý vị hãy tự nhủ: “Chưa chắc
đúng, chưa chắc đúng là như thế!” Đấy là cách giúp mình nghi ngờ (tính cách đích thật
của) các tư duy ấy (tức là các khó khăn hiện ra với mình) và phải hạ chúng đo ván
ngay tức khắc, trước khi chúng có thể cho mình đo ván! (xin nhắc lại là tất cả các tư duy và xúc cảm hiện
ra trong đầu mình chỉ là những sự diễn đạt chủ quan của tâm thức ảnh hưởng bởi
tác động của nghiệp, chúng không hàm chứa một thực thể nào cả, tức có nghĩa là
“Chưa chắc đúng là như thế!”, nói cách khác là các tư duy và xúc cảm ấy
không mang một tính cách khách quan và vững chắc nào, tức không hàm chứa một sự
hiện hữu nội tại và tuyệt đối nào cả. Do đó nhà sư Ajahn Chah khuyên chúng ta
phải xem những thứ ấy “không đúng thật là như thế” và phải cho chúng đo
ván ngay. Bởi vì nếu cho chúng là đúng để nắm bắt chúng, bám víu vào chúng thì
đấy chính là cách gây ra mọi thứ khó khăn cho mình. Cách giảng của nhà sư Ajahn
Chah rất thực tế và phi lý thuyết: ông chỉ khuyên chúng ta trong khi hành thiền
nếu có những khó khăn – chẳng hạn như thèm muốn, thích thú, vui sướng, giận giữ,
bám víu…, tức là mọi sự diễn đạt và cảm nhận của tâm thức – hiện ra thì phải
nhắc nhở mình ngay là “Chưa chắc là đúng như thế” và hãy vật cho
chúng đo ván ngay lập tức. Phương pháp “hạ ngay các thứ khó khăn khiến cho
chúng phải đo ván” là cách mà nhà sư Ajahn Chah đưa ra để khuyên những người
chất phác, thật thà có thể “hành thiền” mà không cần phải vận dụng đến
lý thuyết hay trí tuệ lôi thôi gì cả! Xin chắp tay bái phục thêm một lần nữa những
lời giảng thật thiết thực và đơn giản của nhà sư Ajahn Chah về những gì hết sức
thâm sâu trong Đạo Pháp).
Vài lời ghi chú của người dịch Qua ba bài chuyển ngữ trên đây (bài Ba góc nhìn nhưng chỉ có một con đường Tuy rằng Đạo Pháp chỉ có một, phương Bài thứ nhất nêu lên quan điểm về Đối với vấn đề thiền định thì vị Lạt-ma Đối với thiền học Zen thì “trong Đối với Phật Giáo Theravada thì thiền Những gì trên đây cho chúng ta thấy Sự giác ngộ mang tính cách bất thần Điểm đáng ghi nhận thứ hai là con đường Chính điều này đã đưa đến nhiều khó Trong khi đó thì Kim Cương Thừa lại sử Dầu sao thì cả ba tông phái đều chủ Chú tâm vào một điểm Những gì vừa trình bày trên đây có Thật vậy có mấy người trong chúng ta Thiền định là trở về với chính mình Đức Phật, chỉ có hai chiếc áo cà-sa |
Bures-sur-Yvette,
06.11.13
Hoang
Phong chuyển ngữ
BÀI ĐỌC THÊM:
Discussion about this post