PHẬT GIÁO TRONG DOANH NGHIỆP
Sid Kemp
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
Sid Kemp bắt đầu hành thiền từ những năm 1980. Đến năm 1985, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã yêu cầu ông chia sẻ những kinh nghiệm tu tập của ông với người khác. Sid đã học và hành nhiều giáo thuyết, nghiên cứu về các truyền thống Thiền Việt Nam, Đại Hàn và Nhật, cũng như về Phật giáo Nguyên Thủy và Tây Tạng. Kể từ khi ông hành hương về đất Phật năm 2001, ông đã phối hợp các giáo thuyết này với nhau, đồng thời phát triển sâu hơn công phu hành thiền của mình.
Phương cách chính của Sid trong việc truyền đạt Phật giáo là áp dụng những giáo lý cốt lõi của Phật giáo vào các môi trường làm việc ở Mỹ. Từ năm 2001, Sid đã viết tám quyển sách về kinh doanh dựa trên quan điểm của một người Phật tử và chia sẻ các tư tưởng Phật giáo mà không cần phải nhắc đến Phật giáo, về các đề tài như phối hợp lãnh đạo và cách giải quyết các vấn đề.
***
Trong chương này, về công việc làm của tôi,
tôi hy vọng là có thể thảo luận về những vấn đề như:
-Kinh
doanh/thương mại có những vấn đề và thách thức gì?
-Giáo lý
và phương cách thực hành nào của Phật giáo có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp –và doanh nhân trong đời sống
kinh doanh- giải quyết các vấn đề và đối phó với các thách thức?
-Các giải pháp của Phật giáo
tương ưng thế nào với các quan điểm kinh doanh hiện hành?
-Phật giáo có
thể mang các phẩm chất độc đáo nào đến cho những thách thức trong một
đời sống kinh doanh lành mạnh, hiệu quả, có ích lợi cho xã hội?
Đây là những
vấn đề mà tôi quan tâm với tư cách là một Phật tử, đồng thời cũng là
một doanh nhân trong suốt mười lăm năm qua.
Phật giáo, đặc
biệt quan tâm đến hạnh phúc và một cuộc sống hòa thuận trong chính kiếp
sống này, có rất nhiều điều có thể cống hiến cho thế giới doanh nghiệp ngày nay, một thế giới đầy khó
khăn và rối rắm. Định nghĩa hiện
đại của cá nhân tôi về phương cách thực hành Phật giáo, dựa trên sự
nghiên cứu để tìm những nối kết chung trong 2600 năm của Phật giáo toàn
cầu, là sống trong tỉnh thức và tự tại, là cho phép tình thương yêu
và trí tuệ chảy tràn trong tôi, vươn đến những nỗi đau và niềm vui của
cả thế giới, đưa đến sự hàn gắn và phát triển đầy sáng tạo. Khi tư vấn hay khi dạy về doanh thương,
tôi không sử dụng các ngôn ngữ của Phật giáo như thế này. Nhưng tôi nhận thấy là có nhiều doanh
nhân rất muốn và có thể huân tập sự tỉnh thức và tự tại. Doanh nhân cũng muốn giải quyết các vấn
đề, giống như ta muốn diệt bỏ khổ đau. Khi cùng nhau thực hành như thế, chúng ta sẽ thay đổi được cách ta
sống trong đời sống kinh doanh, tạo được một không gian sống bớt những khổ
đau, và thêm niềm vui.
Khổ Diệt
là cốt lõi của những lời dạy đầu tiên của Đức Phật trong Tứ Diệu
Đế. Những lời dạy này hay kinh này
được sắp xếp như một toa thuốc. Đầu
tiên giáo lý đó nêu lên tất cả các bệnh trạng, các rối loạn –tất cả
những khổ đau- chứ không chỉ một loại bệnh nào. Tứ diệu đế nói rằng khổ có mặt ở
khắp mọi nơi, rằng nó có căn do, rằng nó có thể được chữa trị, và rằng
có phương thuốc chữa trị nằm trong sự thực hành tỉnh thức và tự tại.
Khổ trong
doanh nghiệp là như thế nào? Xin thưa
người làm kinh doanh cũng khổ đau giống như mọi người khác. Sau đây là một vài thí dụ:
-Kinh
doanh thất bại; người ta phải chết.
-Một số
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, làm tổn hao thời giờ và tiền bạc;
một số người phải mắc bệnh.
-Một số
môi trường kinh doanh đầy mâu thuẫn; một số người và gia đình cũng thế.
-Doanh nghiệp thường có những sản phẩm
hay dịch vụ tuyệt vời, nhưng không sản xuất ra được trên thị trường;
người ta cũng thường có những giấc mơ tuyệt vời, nhưng không thể biến
chúng thành hiện thực.
Danh sách
này có thể dài bất tận. Vài năm
gần đây, nền kinh tế Mỹ đã nhìn thấy cái giá của lòng tham trong
các hoạt động của những công ty như Enron, Comcast và Adelphia. Tôi đã chứng kiến hệ quả khủng khiếp
của lòng sợ hãi đối với các doanh nghiệp –nhất là ở thành phố New
York- sau trận khủng bố ngày 11 tháng 9, 2001. Để đối phó với những vấn đề rất nghiêm
trọng này, các doanh nghiệp cần có định hướng rõ ràng, cũng như uyển
chuyển, thích ứng với hoàn cảnh. Sự tự tại, trầm tĩnh giúp doanh nhân có định hướng và uyển
chuyển, giống như khi nó giúp vận động viên.
Giáo lý và
phương cách tu tập trong Phật giáo đều có ích trong kinh doanh. Điểm mấu chốt là tất cả chúng ta –doanh
nhân hay không- đều ôm ấp các vấn đề của mình, không biết giải quyết
chúng. Phương cách của Phật giáo là
chánh niệm về các vấn đề này và nói “đây là khổ, và có phương cách
chữa trị khổ”. Sau đó chúng ta bắt
tay vào việc –với phương cách rõ ràng, có phương hướng và vô hại- để
thỏa hiệp các bất đồng, giải quyết các vấn đề và đạt đến mục
tiêu. Đó là ngôn ngữ trong kinh
doanh. Ngôn từ trong Phật giáo để diễn
tả cùng một khái niệm là thực hành chánh niệm và tự tại, thăng bằng
(trung đạo) để diệt khổ.
Có một số
tư tưởng căn bản trong Phật giáo rất giá trị đối với doanh nghiệp. Chuyển đổi các từ ngữ Phật học này
sang ngôn từ dùng trong kinh doanh, thương mại rất ích lợi:
- Các trạng thái khổ (các vấn đề, các
tranh cãi, và các bất đồng kéo dài). Trong Phật giáo, các vấn đề này được bao gồm trong Thánh Đế Đầu
Tiên. - Chúng ta có thể giải
quyết các vấn đề, chấm dứt các khổ. Trong Phật giáo, đó là Thánh Đế Thứ Ba. - Có sự liên hệ
giữa hành động của chúng ta và hậu quả mà chúng ta phải hứng chịu, khi
nói chung về khổ, cũng như trong kinh doanh. Trong Phật giáo, đó gọi là nghiệp. Trong kinh doanh, đó gọi là nguyên nhân
và hậu quả, và đó cũng là chìa khóa giúp ta khám phá ra nguyên do
để giải quyết vấn đề. Nếu chúng ta
thay đổi nguyên nhân, thì vấn đề (khổ) sẽ được giải quyết. - Tỉnh thức trong
hành động, ý nghĩ và cảm nhận của mình, sẽ giúp ta thay đổi được
chúng. Nhờ đó ta sẽ bớt khổ và
đạt được kết quả tốt hơn. Trong Phật
giáo, đó là mục tiêu của công phu hành thiền và quán chiếu bản thân.
Việc tôi áp dụng Phật giáo vào doanh nghiệp
đã giúp tôi tìm ra được phương cách để chia sẻ các tư tưởng này với
doanh nhân. Thí dụ, đây là một số
khái niệm phổ biến trong kinh doanh có thể giúp mở ra cánh cửa đưa đến
những môi trường làm việc lành mạnh và hiệu quả hơn.
- Làm việc theo Nhóm (team
work). Chúng ta có thể tập làm việc với nhau,
điều đó sẽ mang đến kết quả tốt. Phật giáo đã có 2600 năm kinh nghiệm hình thành các hình thức
nhóm có tổ chức, phù hợp với văn hóa địa phương. Từ ngữ để chỉ các nhóm, cộng đồng này
trong Phật giáo là Tăng đoàn (Sarigha). - Giảm căng thẳng. Căng thẳng quá gắt gao và xung đột trong
những nơi làm việc tạo ra nhiều vấn đề cho cá nhân và cho cả công ty,
trong khi có những việc chúng ta có thể tìm ra tiếng nói chung. Lợi ích đầu tiên mà thiền có thể mang đến
cho ta là sự thư giãn; kế đến là ý thức về các nguyên do đưa đến
căng thẳng, giúp ta phân tích vấn đề, đưa đến một giải pháp hiệu quả. - Hiệu quả của cá nhân và
nhóm. Những ai có ý hướng muốn thay đổi để
đạt được kết quả sẽ cởi mở hơn trong việc quan sát chính các hành động
của mình. Phật giáo, nhất là trong
truyền thống thiền, đã có một lịch sử lâu dài trong việc cùng nhau phân
tích vấn đề, cùng nhau giải quyết vấn đề, để đạt được các mục đích qua sự
lãnh đạo và làm việc trong nhóm một cách hiệu quả. - Tránh một môi trường làm việc
có quá nhiều xung đột. Luật pháp cũng như các
điều lệ trong các công ty hiện nay nghiêm cấm sự đối xử phân biệt đối
với phụ nữ, người thiểu số và các nhóm thuộc những nguồn gốc văn hóa
khác biệt. Sự có mặt của một môi
trường làm việc có nhiều xung đột hay phân biệt đối xử có thể gây nhiều
mất mát, tổn hại cho các doanh nghiệp. Do đó, đã có nhiều công ty bỏ ra kinh phí cho những lớp huấn
luyện để thay đổi hành vi của các công nhân. Phật giáo đã có các phương tiện giúp
phát triển nhân cách từ 2600 năm trước. Trọng điểm của các lớp huấn luyện đó là sự ý thức về hậu
quả của các hành vi của mình đối với tha nhân. Trong ngôn ngữ Phật giáo, đây là hai phương
cách tu tập cốt lõi: ý thức về thân, về vị thế và nghiệp. - Đạo đức trong kinh doanh. Tất cả mọi người đều đã chịu ảnh hưởng vì
những xì-căng-đan của các doanh nghiệp lớn được phát hiện vào năm
2001. Luật pháp đã phải được chỉnh
sửa, và câu hỏi là làm thế nào để thay đổi văn hóa trong doanh thương là
một đề tài nóng bỏng hiện nay. Thực
hành theo Phật giáo là phương tiện giúp cá nhân cũng như đoàn thể hành
động một cách có đạo đức trong cuộc sống cũng như ở các môi trường kinh
doanh. Thương trường tạo ra đau khổ,
đồng thời cũng chịu khổ. Thí dụ:
Khi một công ty dịch vụ không thành công, khách hàng, công nhân, chủ nhân
hay những người mua chứng khoán của công ty cũng bị thua lỗ. Khi một doanh nghiệp không được điều hành
tốt, người làm việc ở đó không thể thấy thoải mái. Và khi một doanh nghiệp đi sai đường, nó
góp phần vào việc làm tăng theo khổ đau trên thế giới. Ứng dụng Phật giáo vào trong doanh thương,
theo tôi, là huân tập vung trồng chánh niệm về khổ và vui, về nguyên do
của khổ, vui, trong thương trường. Khi
những người làm kinh doanh trở nên ý thức về các hành động của mình,
cũng như hậu quả của các hành động đó, thì những điều sau đây sẽ trở
nên hiển nhiên:
-Doanh nghiệp sẽ thành công
-Doanh nghiệp đem lại lợi
ích cho khách hàng
-Môi trường làm việc ở các
doanh nghiệp này lành mạnh, thoải mái, tốt đẹp
-Nhận ra được những tiêu cực
mà doanh nghiệp có thể mang đến cho mọi người chung quanh, để bắt đầu thay
đổi.
(…)
Chăm Sóc Bản Thân
Chăm sóc bản
thân là điều quan trọng bậc nhất mà tôi thực hiện để chia sẻ phương cách
tu tập và các giáo lý rút tỉa từ Phật giáo để áp dụng trong thương trường. Tôi thực hành chánh niệm –đặc biệt là chánh
niệm và quán sát- để tôi có thể duy trì chánh niệm cả ngày. Tôi thực hành tự tại, định tĩnh, để tôi
không bị xao động, không sa vào các thói quen của tâm trong việc phát
khởi bực tức, sân hận, nói lời hằn học, thô lỗ. Tôi cũng không để tâm trạng của người
khác ảnh hưởng đến mình, rồi lại truyền sự bực bội đó lên người khác
nữa. Nếu tôi duy trì được chánh niệm và
định tĩnh, thì Trí tuệ và tâm Từ bi rộng lớn sẽ tự nhiên tràn chảy
trong tôi. Dòng chảy đó sẽ hóa
giải mọi chướng ngại –đầu tiên là trong bản thân tôi, rồi lan sang người
khác. Và như thế là mỗi ngày giáo
lý Phật giáo đều được ứng dụng vào thương trường qua thân và tâm của tôi.
Suốt 20 năm
qua, tôi đã phát triển sự thực hành nghiêm mật bao gồm hành thiền, quán
tứ niệm xứ và thể dục nhịp điệu, tất cả đều được thực hành trong chánh
niệm. Chúng ta có thể học tập nghệ
thuật tĩnh tọa theo truyền thống Phật giáo. Các thể loại khác như yoga, t’ai chi, và qi gong (khí công), tất
cả đều có thể tập tốt hơn với chánh niệm về thân. Những nghiên cứu gần đây nhất cho thấy
rằng cơ bắp sẽ phát triển nhanh nhất khi ta chú tâm đến chúng trong khi
luyện tập. Tất cả các thể loại tập
luyện này giúp đem tâm đến thân, tập trung tỉnh thức vào ngay đây và
ngay giây phút này. Từ đó việc luôn
có mặt trong hiện tại sẽ trở thành một thói quen, không chỉ trong khi
thực hành, mà suốt ngày, và không chỉ riêng cho bản thân tôi, mà cho tất
cả những ai tôi tiếp xúc, phục vụ.
Theo tôi,
chỉ có các buổi thực tập nghiêm chỉnh không thì chưa đủ. Để có thể có mặt một cách hiệu quả, có
nghĩa là tỉnh thức (là Phật) trong từng giây phút suốt cả ngày. Để vung trồng sự thực hành liên tục tâm
Phật, tôi gom cả ba yếu tố:
-Thực hành bài bản, như đã trình
bày ở trên.
-Những sự gián đoạn, như dừng lại
và thở mỗi khi tôi thay đổi việc đang làm, mỗi khi tôi nhìn thấy người
mới đến, hay mỗi khi tôi dùng điện thoại.
-Sự thực hành ‘ngẫu hứng’, không
chính thức, như là thực tập chánh niệm khi viết, khi soạn thư hay suy tư
về một vấn đề.
Cần
phải nói thêm về những sự gián đoạn, vì chúng mang đến lợi ích lớn
lao mà không cần nhiều công sức. Tôi
thích sử dụng mọi gián đoạn hay sự thay đổi môi trường như là một cách
để dừng lại, quán thân, rồi thở vào, thở ra.
Thí
dụ, nếu tôi sắp mở một cánh cửa, tôi sẽ dừng lại và thở. (Thử nghĩ xem bạn sẽ có bao nhiêu cơ
hội để thư giãn khi đi từ chỗ gửi xe đến văn phòng làm việc). Nếu điện thoại reo, tôi sẽ dừng lại và
thở. Nếu có ai bước vào văn phòng,
tôi sẽ dừng lại và thở. Dĩ nhiên
tôi làm việc này một cách kín đáo, khó ai nhận biết. Điều mà người ta có thể nhận thấy là,
khi tôi trả lời điện thoại hay chào hỏi ai, tôi thực sự có mặt với họ.
Sử dụng các phương cách của
sự tự quán chiếu, sự chăm sóc bản thân, và sự tỉnh giác, để đối phó
với các trạng thái tâm, lắng đọng hay lao xao và thân, tôi đặt tất cả
thân tâm mình vào chánh niệm, để những vấn đề và quan điểm chưa được thông
suốt của tôi không trở ngại đến việc Trí tuệ và Tình thương trong
sáng, rõ ràng, có thể có mặt trong môi trường làm việc.
Phối hợp sự thực hành nghiêm
túc, với những gián đoạn và sự thực hành không chính thức, tôi hướng
đến việc được tỉnh thức và tự tại trong từng giây phút, để tôi có thể
thực sự có mặt trong từng hoàn cảnh.
(…)
Lắng Nghe
Trên phương diện tâm linh, tôi
nghĩ lắng nghe là biểu hiện quan trọng nhất của sự tu tập của chúng
ta. Con người rất thông minh. Khi chúng ta lằng nghe chăm chú, người nói
cũng sẽ chú tâm đến điều họ nói. Dầu chúng ta chỉ gợi ý nhẹ nhàng cho họ, người được ta lắng nghe
cũng sẽ tự tìm được giải pháp cho bản thân, và đó thường là một giải
pháp thực dụng và khôn ngoan. Vì đó
là giải pháp họ tự nghĩ ra, họ sẽ tin tưởng vào đó. Và vì tin tưởng vào giải pháp, người đó
sẽ khiến nó thành sự thật.
Trên phương diện kinh doanh,
tôi nghĩ đó là một kỹ năng quan trọng nhất nhưng lại ít được rèn luyện
nhất ở những nơi làm việc. Bạn có
tìm được khóa học nào ở trung học hay đại học dạy về nghệ thuật
lắng nghe không? Có nhiều lớp giúp
người ta đọc, viết, hay nói, nhưng chẳng bao giờ có lắng nghe. Nhưng tôi nhận thấy rằng, trong một phòng
họp mà có nhiều người biết lắng nghe, thì ta dễ khám phá ra nhiều sáng
kiến để chia sẻ.
Người biết lẳng nghe sẽ nghe
với lòng kiên nhẫn, và không có thành kiến. Là người biết lắng nghe, ta sẽ bắt đầu bằng
tâm trống rỗng, không biết. Chúng ta
gạt qua một bên mọi nhu cầu muốn bày tỏ ý kiến của mình (ít nhất
là chờ một lát sau), và cố gắng giúp người nói cảm thấy tự tin để
khai triển ý tưởng và bộc bạch chúng. Chúng ta cũng có thể lặp lại ý kiến của người nói, để xác nhận
là chúng ta đã hiểu đúng. Tôi nhận
thấy rằng kỹ năng biết lắng nghe là phương cách ngăn ngừa sự xung đột
rất hiệu nghiệm. Hầu hết các xung
đột bắt nguồn từ hiểu lầm, và lắng nghe tạo nền tảng cho thông cảm,
hiểu biết.
Khi dạy các kỹ thuật để
động não (brainstorming), tôi đặt trọng tâm vào việc tạo ra một không
gian cho việc biết lắng nghe. Tôi dùng
ẩn dụ này: Chỉ hỗn hợp nước và bột, không ai ăn nổi. Nhưng nước, bột, bột nổi, muối và đường
sẽ làm ra những chiếc bánh thơm ngon. Cũng thế, chỉ có con người và vấn đề sẽ đưa đến tranh cãi. Nhưng nếu ta thêm vào thời gian, không gian
và sự tập trung, chúng ta sẽ có những buổi động não rất hữu
hiệu. Thời gian và không gian được
tạo ra bằng cách tổ chức những buổi họp không gián đoạn. Sự tập trung được tạo ra bằng cách mổ
xẻ vấn đề thấu đáo và lắng nghe nhau. Lúc đó con người, cũng giống như bột bánh, nở ra theo hoàn
cảnh. Lúc đó chúng ta không chỉ giải
quyết các vấn đề, mà còn tạo dựng một môi trường bền bĩ cho lòng tin
và hợp tác.
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Trích dịch
theo Buddhism For Business, 2009)
Discussion about this post