PHẠM CHÍ NGHÈO KHÓ
Toàn Không
1) – NHÂN DUYÊN
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc
nước Xá Vệ (trung Nam
Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ), dùng xe (ngựa)
đến thăm viếng đức Phật tại Tịnh Xá Kỳ Hoàn. Khi ấy đức Phật thuyết vi diệu
pháp cho Vua nghe, nghe xong Vua bạch:
–
Cúi mong đức Như Lai đến thành La Duyệt nước Ma Kiệt nhập hạ. Con sẽ cúng dàng
cung cấp thức ăn, thuốc men và các thứ cần thiết.
Khi ấy, đức Phật im lặng nhận lời, Vua Tần
Bà Sa La thấy đức Phật im lặng nhận lời, liền đứng lên lễ Phật, đi nhiễu ba
vòng, xong lui đi về. Một hôm, Vua ở chỗ vắng chợt nghĩ: “Ta cũng đủ sức cúng
dường Như Lai và đại chúng Tỳ Kheo cho đến trọn đời về ăn uống, quần áo, thuốc
men, và các thứ vật dụng cần thiết, nhưng cũng nên nghĩ đến người thấp kém hơn,
cũng nên ngó tới họ”.
Lúc gặp quần Thần, Vua bảo:
–
Các Ông nên cùng nhau lần lượt dâng thức ăn Như Lai và Chư Hiền, sẽ được hưởng
phúc lâu dài.
Rồi Vua nước Ma Kiệt liền cho thiết lập
một giảng đường lớn ngay trước cửa cung Vua, bày biện các vật dụng sẵn sàng.
Bấy giờ, đức Phật ra khỏi nước Xá Vệ, Ngài
dẫn 500 Tỳ Kheo đi du hóa trong nhân gian, lần lượt dần đến vườn trúc Ca Lan Đà
nước Ma Kiệt. Vua được báo cáo đức Phật đã đến, liền lên xe đến nơi, cúi lạy
xong thưa:
–
Con ở chỗ nhàn vắng tự nghĩ: “Như ta hôm nay có thể cúng dường Như Lai và đại
chúng Tỳ Kheo thức ăn và các thứ cần thiết, nhưng lại chợt nghĩ tới người thấp
kém hơn, cũng cần ngó tới họ” Rồi con bảo quần Thần: “Các Ông mỗi người nên sắm
thức ăn lần lượt dâng lên Như Lai và chư Tỳ Kheo sẽ được hưởng phúc lâu dài.” Thưa
Thế Tôn, như thế nên hay không nên?
Đức Phật bảo:
–
Lành thay! Lành Thay!, Đại Vương có nhiều lợi ích, vì Trời và Người mà làm
ruộng phúc.
Vua lại thưa:
–
Cúi mong Thế Tôn và đại chúng Tỳ Kheo ngày mai vào cung thụ thực.
Đức Phật im lặng nhận lời, Vua thấy đức
Phật im lặng nhận lời, liền đứng lên cúi lễ rồi lui; sáng hôm sau, đức Phật và
các Tỳ Kheo đến giảng đường của cung Vua, lần lượt ngồi vào chỗ, Vua dâng lên
món ăn thượng hạng, tự tay bưng mời hoan hỉ vui vẻ. Sau khi ăn xong dọn dẹp
sạch sẽ, Vua, quần Thần, quyến thuộc được nghe Phật thuyết vi diệu pháp. Bấy
giờ có 60 người và 500 Thiên chúng sạch hết ô uế ở đời (trần cấu) và được pháp
thanh tịnh, rồi Ngài nói kệ tụng cho Vua và tất cả mọi người đang có mặt tại
đó:
Tế tự, lửa trên hết,
Các sách, tụng hơn hết,
Vua đáng trọng trong Người,
Các dòng biển là nguồn.
Giữa sao, trăng chiếu sáng,
Ánh sáng mặt trời hơn,
Trên dưới và bốn phương,
Các nơi có vạn vật.
Trời cùng với người đời,
Phật là cao trọng nhất,
Người muốn cầu phúc đức,
Nên cúng dường Chư Phật.
Đức Phật nói kệ xong đứng lên đi về vườn
trúc, khi đó nhân dân trong thành La Duyệt tùy theo giàu nghèo đều cúng dàng
Phật và chư Tỳ Kheo, không ai là không cúng dường. Lúc ấy các Phạm Chí tụ họp
lại bàn luận mỗi gia đình bỏ ra ba lạng tiền vàng chung lại để mua thức ăn cúng
dường.
Bấy giờ có một Phạm Chí tên Kê Đầu nhà hết
sức nghèo khó, chỉ tự đủ sống, không có tiền vàng để nạp, liền bị các Phạm Chí
trục xuất ra khỏi chúng. Khi ấy Phạm Chí Kê Đầu về nhà bảo vợ:
–
Bà nên biết, các Phạm Chí không cho gia đình ta ở trong chúng vì không có tiền
vàng đưa cho họ.
Người vợ bảo:
–
Hãy vào thành mượn nợ, và bảo người cho mượn sau 7 ngày sẽ trả lại, nếu không
trả lại, tôi và vợ tôi sẽ làm tôi tớ để trừ nợ.
Phạm Chí vào thành, đi nhiều nơi, nhưng
không có người nào cho mượn nên trở về bảo vợ:
–
Chẳng ai chịu cho mượn, làm sao bây giờ?
Người vợ bảo:
–
Phía Đông thành có đại Trưởng giả Bất Xà Mật Đa La nhiều tiền của, chắc mượn
được, cũng nói như thế, chắc là mượn được.
Phạm Chí nghe lời vợ, đến Trưởng giả Bất
Xà Mật Đa La, liền mượn được, bèn đem ba lượng tiền vàng đến nộp chung với mọi
người, nhưng các người ấy bảo:
–
Chúng tôi đã khóa sổ rồi, hãy đem tiền vàng về, chẳng cần đứng chung tên trong
chúng này.
LỜI BÀN:
Vua Bình Vương (Tần Bà Sa La) tới nước Xá
Vệ viếng và thỉnh mời đức Phật và chúng Tỳ Kheo đến nước Ma Kiệt an cư ba
tháng, nhưng sau lại nghĩ đến sự chia sẻ cho các quan và nhân dân, vì ông nghĩ
đến phúc đức của cúng dàng bố thí đức Phật và chúng Tỳ Kheo rất lớn, cần san sẻ
cho mọi người cùng hưởng.
Việc cúng dường này không những các quan
làm việc trong triều đình hưởng ứng, các viên chức cấp dưới trong thôn ấp, và
dân chúng cũng thấy biết được sự lợi ích của việc cúng dàng, nên chúng ta đã
thấy ngay cả người nghèo không có dư cũng muốn được đóng góp trong việc cúng
dường, điển hình là phạm chí Kê Đầu. Đây là Vua Bình Sa đã tạo nhân duyên cho
những người trong nước Ông được dịp làm việc phước, do đó Phạm chí Kê Đầu mới
có dịp gặp Phật như đoạn Kinh dưới đây, chúng ta hãy cùng theo dõi:
2) – PHẠM CHÍ CÚNG DÀNG PHẬT
Phạm Chí mang tiền về, nói chuyện ấy cho
vợ nghe, người vợ bảo:
–
Hai chúng ta tự đến chỗ Phật trình bày để xin Ngài chỉ cho phải làm sao?
Bấy giờ hai vợ chồng Phạm Chi Kê Đầu đến
chỗ Phật, cùng vái lễ, đến chỗ ngồi, rồi Phạm Chí đem chuyện ấy thưa với Phật,
Ngài bảo:
–
Như vậy, Ông nên vì Như Lai và chúng Tỳ Kheo bày biện thức ăn uống.
Phạm Chí quay lại nhìn vợ, người vợ bảo:
–
Cứ theo lời Như Lai dạy, chớ do dự.
Phạm Chí liền thưa:
–
Cúi mong đức Như Lai và đại chúng Tỳ Kheo nhận lời mời của con.
Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh mời của
Phạm Chí Kê Đầu, khi ấy, Vua Trời Đế Thích đang đứng khoanh tay hầu phía sau
đức Phật (không có Thiên nhãn sẽ không nhìn thấy), Ngài quay lại bảo:
–
Thích Đề Hoàn Nhân (tên Vua Trời Đạo Lợi), Ông hãy giúp Phạm Chí này sắp xếp
thức ăn.
Đế Thích thưa:
–
Xin vâng, Thế Tôn!
Lúc ấy, Tỳ Sa Môn Thiên Vương (một trong
Tứ Thiên Vương, là vị ở phương Bắc), cách Phật không xa, dẫn các Quỷ Thần đông
không tính được, từ xa quạt cho đức Phật, Đế Thích bảo:
–
Ông cũng nên giúp Phạm Chí này sửa soạn thức ăn thức uống.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương đáp:
–
Rất hay, Thiên Vương!
Rồi Tỳ Sa Môn Thiên Vương cắt đặt 500 Quỷ
Thần đi lấy củi Ngưu đầu chiên đàn bỏ vào bếp sắt bên cạnh nhà của Phạm Chí Kê
Đầu, 500 Quỷ Thần làm thức ăn; cắt đặt quỷ thần xong ông đến chỗ Phật vái lễ,
đi quanh ba vòng, rồi biến thành người thường.
Vua
Đế Thích bảo Thiên tử Tự Tại:
–
Ông hãy hóa hiện giảng đường, cùng trang trí đẹp đẽ, để Thế Tôn và đại chúng Tỳ
Kheo có chỗ ngồi ăn trên khoảng đất gần nhà Phạm Chí Kê Đầu.
Thiên tử Tự Tại đáp:
–
Việc này rất hay!
Rồi Thiên Tử Tự Tại hóa ra một giảng đường
lớn bảy báu, bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
Bậc thềm lên bằng vàng có cây bạc, bậc thềm lên bằng bạc có cây vàng, bậc thềm
lên bằng lưu ly có cây pha lê và ngược lại v.v… Chung quanh bên trong có linh
vàng (nhạc, chuông, khánh v. v… phát ra âm thanh, ở dưới trải tòa ngồi nệm
tốt, bên ngoài hết hoa, kết tua, dù lọng, cờ đèn, v.v…; một giảng đường to
lớn, trang trí đẹp đẽ kỳ lạ chưa từng có ở đời.
Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương bảo Phạm Chí
Kê Đầu:
–
Ông xòe tay phải ra.
Kê Đầu liền xòe tay phải ra, Tỳ Sa Môn
Thiên Vương đưa cho thoi vàng, rồi bảo:
–
Ông cầm thoi vàng này ném xuống đất.
Phạm Chí liền cầm thoi vàng ấy ném xuống
đất, liền thành vô số vàng (trăm nghìn lạng), Thiên Vương bảo:
– Ông
dùng vàng này để mua sắm thức ăn và các thứ cần thiết mang về đây.
Phạm Chí vâng lời, liền đi vào thành mua
sắm thức ăn thức uống đem về nhà bếp.
Bấy giờ quanh thành La Duyệt đều ngửi mùi
hương thơm lạ. Vua Tần Bà Sa La hỏi quần thần:
–
Ta từ lúc sinh ra đến giờ trong thâm cung, chưa hề được ngửi mùi hương thơm lạ
này, do đâu có mùi hương thơm đặc biệt này?
Quần thần tâu:
–
Mùi thơm này từ nhà bếp của Phạm Chí kê Đầu. Đây là mùi hương thơm từ đốt gỗ
thơm Ngưu đầu chiên đàn của Trời, là điềm lành ứng hiện.
Vua bảo:
–
Mau sửa soạn xe, ta muốn đến chỗ Như Lai hỏi duyên lành này.
Rồi Vua lên xe đi đến chỗ Phạm Chí Kê Đầu,
Vua thấy có bếp sắt lớn chưa từng thấy, lại có vố số người (500) đang nhộn nhịp
làm bếp, liền hỏi:
–
Các Ông làm gì ở đây?
Các Quỷ Thần lúc ấy đều dùng hình người
đáp:
–
Phạm Chí Kê Đầu thỉnh Phật và Tỳ Kheo cúng dàng.
Lúc ấy Vua lại thấy: không xa có giảng
đường lớn cao đẹp, liền hỏi tùy tùng:
–
Ai đã tạo giảng đường lớn kia? Trước kia ta không thấy.
Tùy tùng thưa:
–
Tâu Đại Vương, chúng hạ thần cũng không biết rõ.
Vua nghĩ: “Nay ta đến chỗ Như Lai hỏi việc
này, vì Ngài cái gì cũng biết, chẳng cái gì không thấy.” Vua liền đến chỗ Phật,
cúi lạy rồi ngồi vào chỗ, xong Vua hỏi Phật:
–
Ngày xưa không thấy nhà bếp, hôm nay có, trước đây chẳng thấy giảng đường to
lớn cao rộng đẹp đẽ, tự nhiên hôm nay lại thấy, lạ quá! Thưa Thế Tôn, do ai làm
ra được như thế?
Đức Phật bảo Vua:
–
Đại Vương nên biết! Đó là Tỳ Sa Môn Thiên Vương tạo ra nhà bếp, Thiên Vương Tự
Tại tạo ra giảng đường.
Vua nghe đức Phật nói thế thì buồn khóc
không dứt được, Đức Phật hỏi:
–
Đại Vương!, Cớ sao buồn khóc đến thế?
Vua bạch:
–
Chẳng dám buồn khóc, chỉ nghĩ đến chúng sanh đời sau chẳng gặp được bậc đại
Thánh ra đời, chẳng được nghe tên của những báu vật kỳ lạ kia, huống là thấy
sao. Nay nhờ ơn Như Lai mà thấy được sự biến hóa này, thấy được sự lạ lùng xuất
hiện ở đời, thế nên con khóc.
Đức Phật bảo:
–
Đời tương lai, các Quốc Vương và nhân dân, thực chẳng thể thấy những sự biến
hóa như ngày nay.
Bấy giờ, Vua từ chỗ ngồi đứng lên lễ Phật
rồi lui về cung; sáng hôm sau, Tỳ Sa Môn Thiên Vương chỉ bảo Phạm Chí Kê Đầu tắm
rửa, mặc quần áo đẹp, dạy cách cầm lư hương và cách bạch Phật rằng:
–
Giờ đã đến, nay đã đúng thời, mong đức Thế Tôn chiếu cố.
Lúc ấy, đức Phật biết đã đúng giờ, Ngài
cùng Tỳ Kheo đến đại giảng đường, có cả chúng Tỳ Kheo Ni cũng dự. Phạm Chí thấy
thức ăn rất nhiều mà đại chúng quá it (chỉ có khoảng năm sáu trăm nguời) nên
đến trước đức Phật cúi đầu vái và thưa:
–
Hôm nay thức ăn uống rất phong phú, mà số Tỳ Kheo quá ít, chẳng thể ăn hết,
chẳng biết phải làm sao, xin Ngài chỉ dạy?
Đức Phật bảo:
–
Phạm Chí! Ông cầm lò hương lên đài cao hướng bốn phía Đông,Tây, Nam, Bắc nói:
“Các đệ tử của Phật Thích Ca lậu tận (sạch hết ô uế, phiền não, bụi trần) A La
Hán được 6 thần thông, tập hợp hết ở giảng đường này.”
Phạm Chí bạch:
–
Xin vâng, thưa đức Như Lai!
Phạm Chí Kê Đầu vâng theo lời Phật dạy,
liền bưng lò hương lên lầu vái từng phương và nói y như lời đức Phật đã dạy,
vái cả bốn phương xong rồi trở xuống.
Chỉ trong chốc lát, từ mỗi phương có tới
hai vạn một nghìn vị A La Hán đều dùng thần thông đi trên không đến, tất cả bốn
phương tổng cộng là 8 vạn bốn ngàn vị tụ về giảng đường. Giảng đường lớn đủ sức
chưa hết thảy, một rừng Tỳ Kheo trong một giảng đường mênh mông im lặng, không
một tiếng động nhỏ; các Ngài nếu muốn nói với nhau thì nói bằng tâm ý chứ không
nói bằng lời, nên giảng đường rất yên lặng tịch tĩnh.
Vua Tần Bà Sa La đem quần thần đến lễ lạy
Phật và đại chúng Tỳ kheo A La Hán. Phạm Chí Kê Đầu thấy đại chúng A La Hán
đông đảo ngoài sức tưởng tượng, nên vô cùng vui mừng, làm việc cúng dường không
biết mệt mỏi; nhưng sau khi tất cả Tỳ Kheo A La Hán đã thụ trai no đủ xong mà thức
ăn vẫn còn nhiều, Phạm Chí đến thưa Phật:
–
Bạch đức Như Lai, thức ăn vẫn còn nhiều.
Đức Phật bảo:
–
Ông nên thỉnh Như Lai và đại chúng Tỳ Kheo, cúng dường bảy ngày.
Phạm Chí đáp:
–
Thưa vâng, Như Lai!
Rồi Phạm Chí quỳ xuống trước Phật bạch:
–
Nay con xin thỉnh đức Như Lai và đại chúng Tỳ Kheo để cúng dàng 7 ngày, con sẽ
cung cấp quần áo, thuốc men, và các thứ vật dụng cần thiết.
Đức Phật im lặng nhận lời.
LỜI BÀN:
Mặc dầu Phạm chí Kê Đầu nghèo khó, nhưng
lại có người vợ giỏi giang từ việc đi mượn tiền đến giải quyết sự việc đều đâu
ra đấy; khi không có tiền thì nghĩ ra cách đi mượn chỗ nọ chỗ kia, khi mượn
được tiền rồi mang đóng góp chung không được, người vợ giải quyết rất hay bằng
lòng thành, đến trình bày với Phật để Phật bảo sao làm vậy.
Do đó hai vợ chồng tới trình Phật, Ngài
bảo: “Ông nên vì Như Lai và chúng Tỳ Kheo
bày biện thức ăn uống”, nhưng Kê Đầu không biết nói sao vì chỉ có 3 tiền
vàng làm sao đủ để mua sắm thức ăn cho năm sáu trăm người ăn, nên đã nhìn vợ có
ý hỏi ý kiến; may được người vợ nhanh trí bảo: “Cứ nghe lời Như Lai, chớ do dự, do đó Phạm chí Kê Đầu liền thỉnh
mời và được Phật chấp nhận.
Ở đây, chúng ta nhận thấy người vợ Phạm
chí có lẽ biết và tin tưởng tuyệt đối lời Phật nói cách nào cũng phải, phải
tin, nên đã không ngần ngại bảo chồng: “Chớ do dự”, nghĩa là chớ ngần ngại gì
cả, hãy thỉnh mời ngay đi. Quả thật, sự mời đó chỉ là hình thức, và do sự mời
ấy đã là duyên tạo ra bao nhiêu sự việc lạ thường, vì tất cả đều trong sự dự
trù của Phật, nên mới có việc các Vua Trời phụ trách các công việc. Vua Tự Tại
Thiên Vương dựng giảng đường vĩ đại đẹp như tại cõi Trời, Vua Tỳ Sa Môn Thiên
Vương thiết lập nhà bếp, điều khiển Thiên Thần Quỷ trong việc bếp nước v.v…
Đến khi Vua Bình Sa đến hỏi đức Phật về
các việc kỳ đặc ấy được Ngài cho biết do các Thiên Vương các cõi Trời đến làm
ra, thì Ông cảm động đến phải khóc, vì cho rằng Ông có diễm phúc được thấy
những thù thắng do sự hiện diện của đức Phật mà có được. Ông thương cho các thế
hệ về sau như chúng ta ngày nay, khi Phật đã nhập Niết Bàn rồi, không có diễm
phúc được thấy những cảnh thù thắng như thế, Ông đúng là người đã học được
nhiều điều Phật dạy, có lòng từ bi đối với tất cả mọi người.
Đọc đoạn Kinh trên, chúng ta thấy rõ những
sự thù thắng do Chư Thiên làm, lại nữa Chư Thiên cung phụng đức Phật không khác
gì cõi Người cung Phụng Ngài vậy. Chư Thiên Thần Quỷ đều là vô hình đối với mắt
bình thường của chúng ta, chứ chẳng phải họ không có hình (ngoại trừ các vị
Trời ở cõi Vô Sắc là không có hình sắc mà thôi), vì thân hình họ không có vật
chất như con người và súc vật, nhưng họ có thể biến hóa hình thù, có thần thông
về nhìn nghe biến đi trong chớp mắt là đi vạn dặm rồi.
Một điểm thấy rõ nữa là thời đức Phật còn
tại thế, các vị tu hành đạt đạo, bậc A La Hán có đủ 6 thần thông vô số, chứ
không như ngày nay thời mạt pháp, việc đạt đạo thật là khó khăn biết bao. Bởi
vậy, chúng ta ráng tu hành, hoặc cầu mong được gặp Chư Phật như Phật A Di Đà
nơi cõi Cực Lạc, hoặc Phật Di Lặc sẽ ra đời sau này để dễ bề đạt đạo Vô Thượng.
Chúng ta cùng theo dõi đoạn Kinh kế tiếp:
3) – KÊ ĐẦU XIN LÀM TỲ KHEO:
Khi ấy có Tỳ Kheo Ni Xá Cưu Lợi đến chỗ
Phật vái rồi bạch:
–
Nay con nghĩ: “Không biết có A La Hán lậu tận nào không tụ tập ở đây chăng?”
Rồi con dùng thiên nhãn xem xét bốn phương Đông Tây Nam Bắc, không còn thấy một
ai không đến, nay đại hội này thuần là A La Hán chân nhân tụ hội về đây.
Đức Phật bảo:
–
Đúng thế, Xá Cưu Lợi! Đúng như lời Tỳ Kheo Ni, đại hội này toàn là A La Hán
chân nhân, từ bốn phương tụ hội về đây; các Thầy có thấy trong hàng Tỳ Kheo Ni,
người có thiên nhãn bậc nhất là Tỳ Kheo Ni Xá Cưu Lợi không?
Phạm Chí Kê Đầu cúng dàng đức Phật và
Thánh chúng trong bảy ngày thức ăn, quần áo, thuốc men, và vật dụng cần thiết;
lại dùng hương hoa rải lên Như Lai. Khi ấy Chư Thiên rải hoa cúng dường Phật và
Thánh chúng trên hư không, hoa kết thành hào quang cầu vồng bảy báu (đài giao
lộ), Phạm Chí thấy thế vui mừng phấn khởi, đến chỗ Phật ngồi, vái lễ rồi thưa:
–
Cúi mong Thế Tôn cho con được làm Tỳ Kheo.
Bấy giờ Phạm Chí Kê Đầu được Phật chấp
nhận nhập đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo Cà Sa, làm Tỳ Kheo tu phạm hạnh (khuôn
phép). Tỳ Kheo Kê Đầu trừ bỏ thùy miên (ngủ nghỉ), phòng hộ các căn, mắt thấy
sắc không khởi tưởng niệm, cũng không có tưởng ác; tai nghe tiếng, mũi ngửi
mùi, lưỡi nếm vị, thân biết xúc chạm chẳng khởi xúc chạm, ý biết pháp (mọi thứ)
cũng thế.
Lại không có ý giết hại, không bảo người
sát hại. Trừ bỏ tâm không cho mà lấy, thường có tâm bố thí tất cả chúng sinh;
xa lìa tâm dâm dật, cũng dạy người xa lìa dâm dật; hằng nghĩ chí thành không
dối trá, không hai lưỡi, không thêu dệt, không lời ác. Tất cả gìn giữ như thế
hằng tu phạm hạnh, các căn tịch tĩnh, tự tu thanh tịnh tâm mình không còn tỳ
vết, lúc ấy Tỳ Kheo Kê Đầu diệt được 5 kết sử che đậy tâm.
Đối với cuộc sống và sự ăn uống, biết đủ,
không cầu nhiều, chỉ muốn giữ thân thể đủ sống để trừ tật hư cũ, không cho thói
hư mới phát sinh ra. Tỳ Kheo Kê Đầu hành đạo miên mật không ngưng nghỉ, chẳng
để mất 37 đạo phẩm; hoặc ngồi hoặc đi, hoặc đầu hôm (buổi tối) trừ khử thùy
miên (buồn ngủ), trấn át trạo hối (tán loạn không yên); hoặc giữa đêm nằm
nghiêng bên phải hai chân chồng lên nhau, buộc ý ở một chỗ quang tưởng (nhớ
nghĩ về ánh sáng); hoặc cuối đêm (sáng sớm) ngồi hoặc đi kinh hành, tịnh ý mình
(hành thiền).
Tỳ Kheo Kê Đầu biết đủ, thực hành phạm
hạnh đầy đủ, thiền định, kinh hành không quên, trừ khử dục tưởng, xa lìa hạnh
ác mà nhập Sơ thiền; rồi có giác (biết) có quán (thấy), dừng niệm (dứt nhớ
nghĩ), nương sự hoan lạc (vui vẻ) mà nhập Nhị thiền. Thiền định tiếp theo,
không có lạc (sung sướng), tự biết thân có lạc, chỗ chư Thánh cầu, xả (bỏ) niệm
thanh tịnh đạt Tam thiền; khổ vui đã diệt, không còn sầu lo, không khổ không
vui, xả niệm thanh tịnh vào Tứ thiền.
Tỳ
Kheo Kê Đầu hành thiền dần vào tam muội (định tĩnh, tuyệt thanh tịnh), thanh
tịnh không tỳ vết, được chỗ không sợ; được tam muội rồi tự nhớ vô số đời, một
đời, hai đời, ba đời, bốn đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi
đời, trăm đời, nghìn đời, vạn đời, vô số đời, kiếp thành, kiếp hoại v.v…
Biết: “Ta từng sinh chỗ kia tên họ là gì, khổ vui như thế, sống bao lâu, chết
đây sanh kia” Tất cả đều biết gốc ngọn tường tận.
Tỳ Kheo Kê Đầu lại dùng tâm tam muội,
thanh tịnh không tỳ vết, dùng thiên nhãn xem thấy chúng sanh, người sinh người
chết, nẻo lành nẻo dữ, sắc đẹp sắc xấu, đi theo loại nào thảy đều biết hết.
Hoặc có chúng sinh thân miệng ý làm ác, phỉ báng Thánh hiền, tạo tà nghiệp, khi
chết sinh trong địa ngục; hoặc có chúng sanh thân miệng ý làm lành, không hủy
báng Thánh hiền, tạo nghiệp lành, khi qua đời sinh vào chỗ lành, lên Trời.
Tỳ Kheo Kê Đầu lúc ấy như thật biềt: Đây
là Khổ, đây lầ Khổ tập (nguyên nhân gây ra khổ), đây là Khổ diệt (cách diệt
khổ), đây là Khổ xuất yếu (đạo đạt tới). Thấy như thế rồi, tâm dục lậu (xấu xa
của dục), tâm hữu lậu (xấu xa ở đời), tâm vô minh lậu (ngu si) được giải thoát.
Đã được giải thoát, liền được trí (tuệ) giải thoát, sinh tử đã dứt, phạm hạnh
đã lập, việc làm đã xong, không còn thụ thân sau nữa, biết như thật như thế, Tỳ
Kheo Kê Đầu liền thành bậc A La Hán, bậc Thánh.
LỜI BÀN:
Chúng ta cũng nên coi lại một vài đoạn
Kinh nói vắn tắt về Tỳ Kheo Kê Đầu tu hành:
Câu: “Phòng
hộ các căn, mắt thấy sắc không khởi tưởng niệm, cùng không khởi ác tưởng; tai
nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp”, là sao?
– Thế nào là phòng hộ các căn?
Phòng là bờ đê, gìn giữ, hộ là
cửa, giúp đỡ, che chở, Phòng hộ là
giữ gìn thủ hộ, ngăn che đề phòng, các
căn là 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phòng hộ các căn là giữ gìn đề phòng 6 cơ quan trên không cho dính
mắc 6 trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
– Mắt thấy sắc không khởi niệm cũng
không khởi ác tưởng là sao?
Là
khi mắt thấy hình sắc không sinh nhớ, không nghĩ yêu, mà cũng không nhớ nghĩ
ác, ví dụ như khi thấy đẹp muốn có, khi thấy xấu muốn gạt bỏ; nếu thấy rồi dù đẹp hay xấu cũng không sinh
yêu ghét, đó là phòng hộ mắt (nhãn căn).
– Tai nghe tiếng không khởi niệm cũng
không khởi ác tưởng là sao?
Là
khi nghe lời nói, giọng ca, dù lời ngọt giọng hay, không sinh yêu đắm nhiễm nhớ
nghĩ, dù lời trái, giọng dở cũng không ghét sinh ác cảm, đó là phòng hộ tai
(nhĩ căn).
– Mũi ngửi mùi không khởi niệm tưởng
cũng không khởi ác tưởng là sao? Là
khi ngửi mùi thơm không sinh yêu thích nhớ mãi, dù mùi khó chịu cũng không ghê
tởm bực tức. Đó là phòng hộ mũi (tỵ căn)
– Lưỡi nếm vị thông khởi niệm tưởng,
cũng không khởi ác tưởng là sao? Là
khi ăn uống vị ngon ngọt béo bở không sinh tâm yêu thích, đòi phải có thứ ấy
mới được, hoặc khi ăn uống vị không hợp miệng cũng chẳng chê bai cằn nhằn làm
cho người nấu nướng phục dịch bất an. Đó là thủ hộ lưỡi (thiệt căn).
– Thân xúc chạm không khởi niệm, cũng
không khởi ác tưởng là sao?
Là
khi thân tiếp xúc dù dễ chịu hợp ý cũng không đam mê, dù khó chịu cũng ráng
chịu đựng. Ví dụ khi được xoa nắn dễ chịu không khóai cảm yêu thích nhớ mãi,
khi gặp nóng lạnh quá không gắt gỏng bực tức nhớ mãi, đó là thủ hộ thân (xúc
căn).
– Ý biết pháp không khởi tưởng, cũng
không khởi ác tưởng là sao? Ý là Ý căn: Ý căn là nơi nương tựa của
ý thức (thức thứ sáu). Ý căn chính là nơi phát sinh ra sự phân biệt, đắn đo,
nghi ngờ, nó chính là thức thứ bảy, rất tinh tế thuộc tinh thần nên không thấy
(có thể nói nó nằm trong bộ óc). Pháp là
Pháp trần: Là những hình ảnh, tiếng, mùi, vị, cảm giác của năm căn tiếp xúc
năm trần ghi lại lưu lại sau khi duyên với ý căn. Các hình ảnh, tiếng, mùi, vị,
cảm giác ở đây không phải là vật chất của ngoại cảnh mà chỉ là những hình bóng
âm vang của ngoại cảnh sau khi lọc qua năm giác quan và đồng thời được duyên
bởi ý căn.
Ví
dụ như một người dân thường bắt tay Tổng Thống hay một người thường tuổi trung
niên bắt tay một hoa hậu thế giới, không cho đó là hãnh diện, không nhớ mãi,
hoặc người bị tù bị hành hạ đánh đập tàn nhẫn cực khổ muôn phần không oán hận,
không buồn nhớ hoài. Đó là thủ hộ ý (Ý căn).
Đoạn Kinh kế tiếp nói: “Tỳ Kheo Kê Đầu thực hành mười điều thiện, tự
tu thanh tịnh tâm, không còn tỳ vết, lúc ấy diệt được 5 kết sử che đậy tâm.”
– Thế nào là 5 kết sử che đậy tâm người?
Đây
là những trở ngại về tinh thần ngăn chặn hành giả tiến đến Niết Bàn, cũng gọi
là năm Triền cái (Ngũ cái) hay năm
ấm (Ngũ ấm), gồm:
1- Tham ái: Tham ái là tham muốn nhục dục, luyến ái sáu trần,
dính mắc bởi “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Chúng là những cái mạnh nhất
trói buộc con người vào vòng sinh tử. Muốn tận diệt chúng, phải nhận thức mối
nguy hại của chúng, kiên trì quán sát mối nguy hại, kiểm soát sáu căn “mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý”. Đây là những con rắn độc giết hại tâm thanh tịnh,
ngăn trở hành giả đạt tới bậc Thánh.
2- Sân hận: Sân giận, hận thù, oán hờn, tật đố ganh ghét. Hành
giả phải quán sát để thấy rõ nguồn gốc xấu xa tệ hại của nó mà trừ bỏ xa lià
nó. Đây là ngọn lửa dữ thiêu đốt con người, hành giả dùng tâm Từ Bi để đối trị,
khi đã trừ bỏ xa lià được rồi, lòng sẽ nhẹ nhõm, dễ dàng tiến tới tâm định tĩnh
vắng lặng.
3- Hôn trầm, thùy miên: Hôn trầm thùy miên là dã dượi, uể oải, không vui, ăn
nhiều, ợ ngáp, lười biếng, muốn ngủ nghỉ, không muốn hành thiền, không muốn
tinh tấn. Hành giả phải cố gắng ngăn chặn bằng cách suy nghĩ đến sinh tử vô
thường đến lúc nào không biết, không còn kịp nữa, lại một kiếp trôi lăn không
biết sẽ về đâu, nên phải cố gắng tỉnh thức, kiên trì.
4- Trạo hối, phóng dật: Là hối tiếc, có trạng thái buông xuôi, chao động của
tâm khi đã làm những điều bất thiện, hành động ác ấy đưa đến sự lo âu hối tiếc
đã để xảy ra việc bất thiện, cũng có tình trạng lo âu khi việc thiện để qua mất
không làm nên đưa tới buông thả; lại có đủ thứ khoái lạc ở đời, nên thường nhớ
nghĩ không dứt được. Đối trị trạo hối phóng dật bằng cách tự hứa hẹn sẽ không
để tình trạng như thế xảy ra nữa. Quyết dứt bỏ xa lià các điều lo âu và các
điều vui thích ở đời, để đưa tâm trở lại an ổn trong việc hành thiền.
5- Nghi ngờ: Nghi ngờ là do dự trong qúa khứ, tương lai, và hiện
tại, là nghi pháp hành trì, nghi Thiện tri thức giảng dạy, nghi chính mình
không đủ khả năng. Khi nghi ngờ sẽ có tâm bất định làm cho việc hành trì bị trở
ngại, hành giả phải chú tâm quán sát, tỉnh thức theo dõi, quán sát để ra khỏi
sự bất định của nghi ngờ.
Năm
Triền Cái trên nếu không dùng Chính tư duy để suy niệm chính xác, chúng sẽ làm
cho hành giả bị tối tăm, không còn con mắt sáng, không còn trí minh mẫn, nên
chẳng thể giải thoát đến Niết Bàn được.
Phần dưới nữa của bài Kinh có câu: “Tỳ Kheo Kê Đầu hành đạo miên mật, chẳng để
mất 37 đạo phẩm” là gì? Ba mươi
bảy đạo phẩm gồm: “Bốn Niệm Xứ, Bốn Ý Đoạn, Bốn Thần Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy
Giác Chi, và Tám Chính Đạo”
Sau nữa, đoạn Kinh nói: “Tỳ Kheo Kê Đầu biết đủ, thực hành phạm hạnh
đầy đủ, thiền định, kinh hành không quên, trừ khử dục tưởng, xa lìa hạnh ác mà
nhập Sơ thiền; rồi có giác (biết) có quán (thấy), dừng niệm (dứt nhớ nghĩ),
nương sự hoan lạc (vui vẻ) mà nhập Nhị thiền. Thiền định tiếp theo, không có
lạc (sung sướng), tự biết thân có lạc, chỗ chư Thánh cầu, xả (bỏ) niệm thanh
tịnh đạt Tam thiền. Khổ vui đã diệt, không còn sầu lo, không khổ không vui, xả
niệm thanh tịnh vào Tứ thiền.” Đoạn này cần làm sáng tỏ hơn như sau:
Khi hành giả đã tu tập thủ hộ các căn rồi,
sống biết đủ, thực hành 10 điều thiện, xa lìa 5 kết sử làm cho tâm sáng sủa,
lại chẳng quên thực hành 37 đạo phẩm. Lúc ấy hành giả quán sát hoặc hành, hoặc
hình, hoặc tướng, đối với những pháp này quán sát lìa dục, ly pháp ác, có biết
(giác), có thấy (quán), do ly dục sinh vui vẻ, đạt qủa Thiền thứ nhất gọi là Tu
Đà Hoàn.
Hành giả quán sát kỹ càng, gia công hành
trì tinh tấn, đối với hành như thế, hình như thế, tướng như thế, dứt giác, dứt
quán, nội tĩnh nhất tâm, không biết không thấy gì khác, được định sinh vui vẻ,
đạt qủa Thiền thứ hai gọi là Tư Đà Hàm.
Bằng cách tận diệt hoàn toàn mọi ham muốn
về vật chất lẫn tinh thần, đối với hành như thế, hình như thế, tướng như thế,
lià tham, dứt vui, dứt buồn, trụ xả, chính niệm, chính trí, biết thân an vui mà
bậc Thánh thường nói là “Xả niệm lạc trú”, kiện toàn tuệ giác, an trú đạt qủa
Thiền thứ ba gọi là A Na Hàm.
Hành giả đối với hành như thế, hình như
thế, tướng như thế, lià khổ dứt vui, vui buồn đều dứt, không buồn không vui,
chán lià, ghê sợ, ly xả tất cả những gì còn sót lại. Vị ấy dần dần đạt tới
chính tâm nhất niệm, an trụ Thiền thứ tư gọi là A La Hán. Vị A La Hán biết rõ
ái dục đã sạch, vô minh đã tiêu diệt hoàn toàn, mọi ô nhiễm đều sạch hết; hành
giả biết như thế, thấy như thế, tâm giải thoát dục lậu (ô uế), tâm giải thoát
hữu lậu, tâm giải thoát vô minh lậu, giải thoát tri kiến. Vị ấy tự thấy rõ
rằng: “Sự sinh của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, các điều cần làm đã làm
xong, tự biết chẳng còn thọ thân sau nữa”; bấy giờ, vị ấy chứng nghiệm hạnh
phúc tối thượng, có đủ thứ thần thông biến hóa.
Toàn Không
Discussion about this post