ĐẠI LÃO HÒA
THƯỢNG THÍCH ĐÔN HẬU (1905-1992)
Đệ Tam Tăng
Thống
Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất
CẨN
BẠCH
Cuộc
đời và hạnh nguyện cao cả của Bổn sư chúng tôi – Đại
lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU – trải qua một thời gian dài
gần 70 năm, từ khi xuất gia cho đến khi thị tịch, mà trong
tâm trí của Ngài không lúc nào là không suy tư đến sự tồn
vong của Đạo pháp. Không lúc nào là không lo lắng đến việc
đào tạo Tăng tài, đến việc hoằng dương Cháng pháp.
Bao
nhiêu năm trời, từ sau khi tốt nghiệp Đại học Phật Giáo
vào năm 1938, Ngài đã bắt đầu làm một vị giảng sư. Gót
chân của Ngài đã vân du khắp cả 17 tỉnh Trung kỳ, đến
tận các tỉnh ở miền Nam kỳ xa xôi và sang cả nước bạn
Lào, một nước mà Phật Giáo là Quốc giáo, để thuyết pháp
giáo hóa cho mọi người. Khi thì gánh vác những trách nhiệm
nặng nề của Giáo hội để chịu những nỗi oan khiên, tù
tội, suýt một chút thì phải hy sinh cả thân mạng vào năm
1947.
Lúc
an cũng như lúc nguy, dù đứng trên cương vị nào Ngài cũng
thể hiện rõ nỗi âu lo, khắc khoải đến tiền đồ của
Đạo pháp. Câu nói đầy cảm khái và vô cùng xúc động của
Ngài, trước chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa trong Hội
đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất,
tại chùa Ấn Quang, chắc chắn hôm nay và cả ngày mai, khó
ai mà quên đi được:“Đôn Hậu nầy, từ khi xuất gia,
sau khi học Đạo, cho đến mãi mãi ngày nay, Đôn Hậu không
làm một việc gì riêng cho mình hết. Trong khi đó, làm riêng
cái gì cũng được, nhưng mà không, làm cho Đạo thôi. Trước
sau cũng chỉ vì Đạo thôi!”
Ngôn
từ thiết tha ấy, hay tâm hồn vô thượng ấy của Ngài, không
chỉ là tấm gương sáng chói cho hàng thất chúng đệ tử
noi theo, mà còn là một ánh hào quang rực sáng trên nền trời
Phật Giáo Việt Nam hiện đại.
Chúng
tôi có thể nói, Giáo hội Phật Giáo truyền thống được
Chư Lịch đại Tổ sư dày công khai sáng và vun đắp lên từ
2000 năm qua, đến hôm nay, dù đã và đang trải qua giai đoạn
”dầu sôi lửa bỏng”, nhưng vẫn tồn tại, và chắc chắn
sẽ tồn tại miên viễn ở ngày mai… thì một phần lớn
cũng nhờ ở tâm hồn vô thượng ấy của Ngài bồi đắp
thêm lên!
Nghĩ
thế, là đệ tử, chúng tôi không ngần ngại cho sưu tầm
và biên soạn cuốn NIÊN BIỂU này. Trước là để báo đáp
thâm ân cao dày của Bổn sư đã chăm nom dạy dỗ cho hàng
đệ tử chúng tôi. Sau là để cung cấp cho các nhà Sử học
Phật Giáo những tư liệu cần thiết khi nghiên cứu về các
bậc Cao Tăng, hoặc biên soạn về lịch sử Phật Giáo Việt
Nam trong giai đoạn Hậu bán thế kỷ Hai mươi nầy. Một
giai đoạn mà Phật Giáo Việt Nam, sau bao nhiêu năm trầm mình
trong suy vi, đen tối, vừa mới vươn lên được trong cao trào
chấn hưng năm 1932, thì đã phải dồn dập hứng chịu không
biết bao nhiêu là biến thiên của lịch sư,í để rồi laiû
bước vào trong nỗi thịnh suy !
Việc
biên soạn cuốn NIÊN BIỂU, chúng tôi đã cố gắng rất nhiều,
nhưng vì khả năng có hạn, nên có thể khó tránh khỏi sai
sót vài chi tiết.
Rất
mong quý Thầy, quý Phật tử thiện tri thức góp ý, bổ sung
cho được đầy đủ.
Nam
mô Thường Tinh Tấn Bồ-Tát Ma-ha-tát.
Phật
lịch 2544,
Linh
Mụ, mùa An cư năm Canh Thìn
TỨ
CHÚNG ĐỆ TỬ
Cẩn
bạch
NIÊN BIỂU
ĐẠI LÃO HÒA
THƯỢNG THÍCH ĐÔN HẬU (1905-1992)
Chánh Thư ký,
Xử lý Viện Tăng Thống
Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất
–
Ất Tỵ, 1905
Hòa
thượng sinh giờ Tý (từ 23 đến 1 giờ). Ngày Hợi, 13-01 âm
lịch (tức 16-02 dương lịch). Niên hiệu Thành Thái năm thứ
XVII.
Tại
làng Xuân An, Tổng An Đôn, Phủ Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị.
–
Canh Tuất, 1910
Bắt
đầu học chữ Hán với các cụ đồ Nho trong làng.
–
Giáp Dần, 1914
Thân
mẫu mất, Hòa Thượng thọ tang mẹ năm lên 9 tuổi.
– Bính
Thìn, 1916
Hòa
thượng Thanh Ninh Tâm Tịnh về thăm nhà, ghé thăm thân phụ
Hòa thượng và đoán tướng cho Hòa thượng năm lên 11 tuổi.
– Đinh
Tỵ, 1917
Hòa
thượng vừa học chữ Hán với các sĩ phu, vừa được thân
phụ cho lên trường Huyện học thêm chữ Quốc ngữ.
– Tân
Dậu, 1921
Hòa
thượng đậu bằng Tiểu học (Certificat), chương trình Pháp
– Việt.
– Nhâm
Tuất, 1922
Ngày
19-9 âm lịch (tức 17-11 dương lịch). Niên hiệu Khải Định
năm thứ VII, Hòa thượng xuất gia, vào chùa Tây Thiên đầu
sư với Tổ khai sơn Thanh Ninh Tâm Tịnh. Năm Hòa thượng lên
17 tuổi. (Tính tròn 17 năm 8 tháng 20 ngày theo dương lịch ).
– Quý
Hợi, 1923
Ngày
10-6 âm lịch (tức 23-6 dương lịch), Hòa thượng được thọ
Sa-Di giới, tại giới đàn chùa Thuyền Tôn, Huế, được Bổn
sư đặt Pháp danh là TRỪNG NGUYÊN, Pháp hiệu là ĐÔN HẬU.
– Giáp
Tý, 1924
Ngày
15-6 âm lịch (tức 16-7 dương lịch), niên hiệu
Khải Định năm thứ IX, Hòa thượng được thọ Cụ túc giới,
tại Đại giới đàn chùa Từ Hiếu, Huế.
– Bính
Dần, 1926
Ngày
06-3 âm lịch (tức 17-4 dương lịch), Hòa thượng Thanh Ninh
Tâm Tịnh viên tịch. Sau lễ Chung thất Bổn sư, Hòa thượng
được nhị vị Pháp huynh là Hòa thượng Trừng Văn Giác Nguyên
và Trừng Thủy Giác Nhiên, gởi qua chùa Thệ Đa Lâm (tức
chùa Hồng Khê ngày nay) để tiếp tục tu học với Pháp huynh
là Hòa thượng Trừng Huệ Giác Viên.
– Đinh
Mão, 1927
Hòa
thượng lại được Hòa thượng Trừng Huệ Giác Viên gởi
vào chùa Thập Tháp (Bình Định) tham học với Hòa thượng Quốc sư Phước Huệ.
– Tân
Mùi, 1931
Hòa
thượng trở về quê thọ đại tang thân phụ, một thời gian
mới trở lại chùa Thập Tháp tiếp tục việc tu học.
– Nhâm
Thân, 1932
Sau
năm năm chuyên cần học ở chùa Thập Tháp, Hòa thượng trở
về Huế và được An Nam Phật Học Hội mời vào làm Giảng
sư nòng cốt của Hội.
– Giáp
Tuất, 1934
Hòa
thượng bắt đầu công việc trước tác và biên soạn. Bài
đầu tiên Hòa thượng biên soạn là bài “Giảng giải danh
từ Phật”. Bài này Hòa thượng đã giảng tại Hội quán
Phật Học Hội chùa Từ Quang, Huế, ngày 15-01 dương lịch
và sau đó đăng trong tạp chí Viên Âm, cơ quan hoằng pháp
của An Nam Phật Học Hội, số 14 năm 1935.
– Ất
Hợi, 1935
An
Nam Phật Học Hội bắt đầu khai giảng Phật Học viện với ba Trường Sơ đẳng, Trung đẳng và Đại học tại chùa
Tây Thiên. Hòa thượng tiếp tục học chương trình Đại học.
Vừa học Đại học, vừa được mời giảng dạy cho các lớp
học sinh trường Trung đẳng của Viện.
– Bính
Tý, 1936
Hòa
thượng biên soạn bài “Chánh tín và mê tín”. Bài này Hòa
thượng đã giảng tại Hội quán Phật Học hội chùa Từ
Quang, Huế, vào ngày 05-5 dương lịch, và đã đăng trong tạp
chí Viên Âm số 20, năm thứ II tháng 3 và 4. Hòa thượng phỏng
thuật theo Kinh Pháp cú “Chuyện nàng Liên Hoa”, đã đăng
trong tạp chí Viên Âm, số 21 năm thứ II tháng 5 và 6.
– Đinh
Sửu, 1937
Hòa
thượng biên soạn tác phẩm “Đâu là con đường hạnh phúc
?” đã đăng trong tạp chí Viên Âm số 27 và 28.
– Mậu
dần, 1938
Hòa
thượng tốt nghiệp văn bằng Đại học Phật Giáo với hạng
Ưu. Hòa thượng được An Nam Phật Học Hội cử đi thuyết
pháp tại Đà Nẵng, Quảng Nam, khắp cả 17 tỉnh miền Trung
và một số tỉnh ở miền Nam.
– Canh
Thìn, 1940
Hội
Phật tử Việt Kiều tại Savanakhẹt,Vương quốc Lào, mời
Hòa thượng sang dự lễ khánh thành chùa Diệu Giác và thuyết
pháp.
– Nhâm
Ngọ, 1942
Hội
Phật tử Việt Kiều tại Savanakhẹt, Vương quốc Lào,
lại mời Hòa thượng sang thuyết pháp. Lần này hòa thượng
được diện kiến với Đức Vua Sãi tại Thủ phủ Viêng Chăn.
– Ất
Dậu, 1945
An
Nam Phật Học Hội đổi danh hiệu thành Việt Nam Phật Học
hội.
Đại
Hội đồng thường niên năm XIII, công cử Hòa thượng giữ
chức vụ Chánh Hội trưởng Việt Nam Phật Học hội, thay
thế Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Hội đồng Sơn môn Tăng-Già
Trung Việt công cử Hòa thượng lên Trú trì chùa Linh Mụ.
– Bính
Tuất, 1946
Đại
hội bất thường của các Hội đoàn Phật Giáo miền Trung
mời Hòa thượng kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội Phật
Giáo Liên Hiệp Trung Bộ.
– Đinh
Hợi, 1947
Hòa
thượng tháp tùng nhị vị Hòa thượng Trừng Văn Giác Nguyên và Trừng Thủy Giác Nhiên, chạy tản cư về làng An Xuân,
xã Quảng An, Huyện Quảng Điền. Tại đây, Hòa thượng bị
thực dân Pháp bắt giam 3 ngày rồi thả ra.
Trở
về chùa Linh Mụ được một thời gian ngắn, Hòa thượng
bị thực dân Pháp bắt lại. Lần này Hòa thượng
bị tra tấn dã man trên 10 ngày, rồi bắt đi đào huyệt để
bắn mà chôn. May nhờ có Sư bà Trừng Hảo Diệu Không và
Cư sĩ Tâm Huệ Tráng Đinh, can thiệp kịp thời với bà Hoàng
Thái hậu Từ Cung và Hoàng hậu Nam Phương, nên vào giờ phút
sắp đem ra hành hình mới được tha về.
Cũng
trong năm này, sau khi dân chúng Huế hồi cư, Hòa thượng bắt
đầu lo việc trùng tu chùa Linh Mụ lần thứ nhất. Đây là
lần trùng tu gặp nhiều khó khăn nhất vì quang cảnh chùa
phần lớn đã bị phá hủy trong những ngày đầu của cuộc
chiến tranh Việt Pháp bùng nổ.
– Mậu
Tý, 1948
Ngày
mồng 8-2 âm lịch, Vía Đức Phật Thích Ca xuất gia, cũng là
ngày Phật học đường Bảo Quốc và Ni viện Diệu Đức tái
khai giảng. Hòa thượng được mời làm Giáo thọ cho cả hai
trường.
Hòa
thượng lại luân chuyển đảm nhận các chức vụ quan trọng
như Yết-ma, Giáo thọ, Luật sư trong các Đại giới đàn được
tổ chức tại chùa Bảo Quốc, chùa Từ Hiếu Huế, chùa Long
Sơn Nha Trang, chùa Ấn Quang Sài Gòn.
– Canh
Dần, 1950
Vì
có nhiều Phật sự quan trọng rất cần đến Hòa thượng,
nên Đại hội đồng thường niên lần thứ XIX, đã công cử
Cư sĩ Chơn An Lê Văn Định lên giữ chức vụ Chánh Hội trưởng
hội Việt Nam Phật học để thay thế Hòa thượng. Hòa thượng
chỉ đảm nhận trọng trách Cố vấn Giáo hạnh.
Hòa
thượng biên soạn bài “ Ý nghĩa ngày Từ thiện Phật Giáo”.
Bài nầy đã được Hòa thượng giảng tại nhà Đại chúng
– Huế ngày mồng 04 – 04 âm lịch.
– Tân
Mão, 1951
Hòa
thượng là thành viên Ban Tổ chức Đại Hội nghị Phật Giáo
Viêt Nam Thống nhất của 6 Tập đoàn Tăng già và Cư sĩ thuộc
ba miền Bắc Trung Nam Việt Nam, họp tại chùa Từ Đàm Huế
từ ngày 06-9/5 dương lịch. Đây là Đại Hội nghị có tính
lịch sử lớn lao của Phật Giáo Việt Nam, vì trong suốt 2.000
năm qua mới được tổ chức lần đầu tiên.
Đại
hội Giáo hội Tăng Già Trung Việt, công cử Hòa thượng lên
giữ chức vụ Giám Luật Giáo hội Tăng Già Trung Việt.
Đại
hội Giáo hội Tăng Già toàn quốc họp tại chùa Quán Sứ,
Hà Nội, ngày mồng 7-8 âm lịch, tức ngày mồng 7-9 dương
lịch, công cử Hòa thượng lên giữ chức vụ Giám Luật Giáo
hội Tăng Già toàn quốc.
– Bính
Thân, 1956
Liên
Hoa Văn tập, được chuyển làm cơ quan hoằng pháp của Giáo
hội Tăng Già Trung Phần. Hòa thượng được mời làm Chủ
nhiệm. Tòa soạn đặt tại Huế.
Hòa
thượng cùng với Hòa thượng Tâm Phật Thiện Siêu trích dịch
và biên soạn Bộ Nghi tụng giới của tại gia Bồ Tát. Soạn
phẩm do Giáo hội Tăng Già Trung Phần ấn hành.
Hòa
thượng viết bài “ Định Hướng” đã đăng trong Liên Hoa
Văn Tập số 2, và bài “Nhiệm vụ Phật tử trước tình
thế hiện tại”, đã đăng trong Liên Hoa Văn Tập, Bộ mới
số 6.
– Đinh
Dậu, 1957
Hòa
thượng lo việc đại trùng tu chùa Linh Mụ lần thứ hai. Đây
là lần trùng tu có tính quy mô và bền bĩ, nên Hòa thượng
đã cho thay thế cột kèo, trước đây làm bằng gỗ nay được
đúc bê tông cốt thép rất kiên cô. Thoạt nhìn không thể
phân biệt được đó là bê tông cốt thép giả gỗ, vì thế
cho nên vẫn giữ được đường nét mỹ thụât trong lối
kiến trúc Á đông cổ.
– Mậu
Tuất, 1958
Liên
Hoa Văn tập được đổi tên thành Liên Hoa Nguyệt san và nâng
lên làm cơ quan hoằng pháp của Giáo hội Tăng Già toàn
quốc. Hòa thượng vẫn giữ trọng trách Chủ nhiệm.
Hòa
thượng viết bài “Kiểm Điểm” đã đăng trong Liên Hoa
Nguyệt san số1.
Hòa
thượng viết lời giới thiệu cho tác phẩm “Thảo luận
với Bác sĩ Bá Khắc Sum” do Thượng tọa Nguyên Tánh Đức
Tâm, dịch, Tòa soạn Liên Hoa Nguyệt san ấn hành.
–Kỷ
Hợi, 1959
Hòa
thượng biên soạn tác phẩm “Nhiệm vụ cần thiết của
một Phật tử.”
Đại
Hội kỳ II, Giáo hội Tăng Già toàn quốc, họp tại chùa Ấn
Quang, Sài gòn ngày 23-02 âm lịch tức ngày 31-03 dương lịch.
Đại Hội lại công cử Hòa thượng giữ chức vụ Giám Luật
Giáo hội Tăng Già toàn quốc. Nhân dịp nầy Hòa thượng viết
bài “ ôn ý” đã đăng trong tập kỷ yếu của Đại
Hội.
– Canh
Tý, 1960
Hòa
thượng viết bài “Cảm ứng tự nhiên” đã đăng trong trong
Đặc san kỷ niệmVía ĐứcQuánThếÂm Bồ Tát, ngày 19-09 âm
lịch tại chùa Non Nước, Đà Nẵng.
Hòa
thượng biên soạn tác phẩm “Tứ nhiếp pháp.” Nhà in Liên
Hoa ấn hành.
– Tân
Sửu, 1961
Hòa
thượng biên soạn tác phẩm “Cách thức sám hối các tội
đã phạm”, do Giáo hội Tăng Già Trung Phần ấn
hành.
– Nhâm
Dần, 1962
Hòa
thượng biên soạn tác phẩm “Phương pháp tu quán”, do Giáo
hội Tăng Già Trung Phần ấn hành.
– Quý
Mão, 1963
Hòa
thượng là thành viên Ban lãnh đạo phong trào tranh đấu của
Phật Giáo Việt Nam với chính quyền Ngô Đình Diệm.
Nhận
Giáo chỉ của Hòa thượng Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo
Việt Nam Trừng Thông Tịnh Khiết, ra chỉ đạo cuộc tranh
đấu tại Tỉnh Quảng Trị.
Hòa
thượng trở về Huế và tiếp tục chỉ đạo phong trào tranh
đấu tại chùa Diệu Đế, Huế.
Đêm
20-08 dương lịch, chính quyền Ngô Đình Diệm tấn công chùa
Diệu Đế bắt Hòa thượng đem giam tại Ty Cảnh sát Thừa Thiên. Nhờ sự bình tĩnh và khôn khéo nên một thời
gian ngắn thì Hòa thượng, cùng nhiều Hòa thượng và Thượng
tọa khác được thả ra. Sau đó, Hòa thượng đi nằm chữa
bệnh dạ dày tại bệnh viện Ngô Quyền, Huế.
Hòa
thượng viết đơn xin tự thiêu để cúng dường Phật Pháp,
nhưng không thực hiện được đại nguyện, vì nhị vị Sư
bà Tâm Luân Thể Quán và Tâm Định Cát Tường, đã cung kính
đảnh lễ xin Hòa thượng không nên thực hiện định ý ấy,
vì sẽ mất đi người lãnh đạo, trong lúc Phật Giáo đang
ở vào giai đoạn cam go và quyết liệt như sợi chỉ mành
treo chuông!
Hòa
thượng tiếp xúc và phê bình sự sai trái của Uỷ ban Phật
Giáo Thuần túy, do chính quyền Ngô Đình Diệm dựng lên với
mưu đồ làm suy yếu cuộc tranh đấu của Phật Giáo.
Hòa
thượng tiếp kiến và trả lời những câu hỏi của Phái
đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc, tại khách sạn Thuận Hóa
Huế (nay là khách sạn Hương Giang 1), về việc chính quyền
Ngô Đình Diệm đàn áp dã man Phật Giáo đồ Việt Nam.
Ngày
03-11 dương lịch, sau khi chế độ độc tài Ngô Đình Diệm
bị lật đổ, Hòa thượng nhân danh Giám Luật Giáo hội Tăng
Gìa toàn quốc, gởi “Lời kêu gọi khẩn thiết” đến
chư Tăng Ni và Phật Giáo đồ trên toàn quốc.
– Giáp
Thìn, 1964
Ngày
30-12 dương lịch, Hòa thượng tham dự Đại Hội nghị của
11 Giáo phái và Hội đòan Phật Giáo Việt Nam, tổ chức tại
chùa Xá Lợi, Sài Gòn, để thành lập Giáo hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất.
Đại
Hội đã công cử Hòa thượng vào chức vụ Chánh Đại diện
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất miền Vạn Hạnh
kiêm Chánh Đại diện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất tỉnh Thừa Thiên.
– Ất
Tỵ, 1965
Hòa
thượng làm Yết-Ma cho Đại giới đàn Vạn Hạnh, tổ
chức tại chùa Từ Hiếu, Huế. Đại giới đàn đã quy tụ
hơn 1000 giới tử.
– Bính
Ngọ, 1966
Nhân
danh Chánh Đại diện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
miền Vạn Hạnh, Hòa thượng đã lãnh đạo cuộc tranh
đấu “Bất bạo động,” chống sự đàn áp của chế
độ Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Một chế độ được
mệnh danh là chế độ “Diệm mà không có Diệm”
– Đinh
Mùi, 1967
Hòa
thựơng viết lời giới thiệu cho tác phẩm “Đại cương
Thiền Quán” của Đại đức Nguyên Chứng Tuệ Sỹ.
Hòa
thựơng viết lời giới thiệu cho tác phẩm “Pháp môn Tịnh
Độ “ của Sư bà Tâm Luân Thể Quán.
– Mậu
thân, 1968
Lúc
23 giờ, ngày 19-01 âm lịch (tức ngày 17-02 dương lịch). Chính
quyền Cộng sản Việt Nam, dưới danh nghĩa Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đã ra lệnh cho một toán
người có võ trang đến chùa Linh Mụ “mời” Hòa thượng
lên Trường sơn để tham gia kháng chiến cứu nước. Lúc nầy,
thời tiết đang giá lạnh, nên bệnh xuất huyết dạ dày của
Hòa thượng tái phát trầm trọng. Vả lại, là một vị Thiền
sư chỉ chăm lo việc tu hành, nên Hòa thượng cũng chẳng thiết
tha gì đến việc tham gia kháng chiến cứu nước như lời
mời. Do đó, mà Hòa thượng đã viện dẫn nhiều lý do để
từ chối, nhưng cuối cùng vẫn bị mời lên cáng khiêng đi
“vì lệnh của cấp trên”.
Lên
đến Trường sơn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam liền giao Hòa thượng chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy
ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ Hòa
bình Việt Nam. Hòa thượng ở Trường sơn hơn 3 tháng.
Đến
ngày 10-6, dương lịch, Hòa thượng lại được “lệnh mời”
ra Hà Nội, lại được lên cáng khiêng đi, lặn lội trong
rừng núi suốt 25 ngày mới ra đến Hà Nội.
Ngày 04-07 dương lịch, Hòa thượng ra đến Hà Nội, được
bố trí cho trú tại số nhà 71 đường Nguyễn Du. Tại đây,
Chính phủ lại giao thêm cho Hòa thượng chức vụ Ủy viên
Hội đồng Cố vấn Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam.
Ngày
13-07 dương lịch, Hòa thượng diện kiến và nói chuyện với
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ngôi nhà sàn, nơi ông ở.
Ngày
14-07 dương lịch, Hòa thượng được mời dự buổi chiêu
đãi do Mặt trận Dân tộc thống nhất tổ chức.
Ngày15-07,
dương lịch, Hòa thượng dự buổi chiêu đãi do Thủ tướng
Phạm Văn Đồng mời tại Phủ Thủ tướng.
Ngày16-07,
dương lịch, Hòa thượng dự buổi chiêu đãi của Ban Bí thư
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản
Việt Nam) do Tổng Bí thư Lê Duẩn mời tại nhà khách Quảng
Bá, cạnh Hồ Tây.
– Kỷ
Dậu, 1969
Tại
nhà khách nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Hòa thượng diện
kiến và chụp ảnh chung với Quốc Vương Norôdom Sihanouk.
– Canh
Tuất, 1970;
Từ
ngày 15-08 đến ngày 17-09, dương lịch, Chính phủ Hà Nội
đưa Hòa thượng đi tham quan thủ đô Mạc Tư Khoa (Moscow) và
một số nước Cộng hòa Liên bang Xô-Viết.
Từ
ngày 18-09 đến ngày 24-09, dương lịch, lại đưa Hòa thượng
đi tham quan thủ đô Bắc Kinh (Trung Quốc), thăm Quảng
trường Thiên An môn, công viên Bắc Hải, Di hòa viên, Vạn
Lý trường thành, vùng Lăng mộ 13 Vua Nhà Minh và nhiều di
tích lịch sử văn hóa khác.
– Tân
Hợi, 1971
Chánh
phủ Hà Nội cử Hòa thượng làm Trưởng phái đoàn Phật
Giáo Cộng hòa miền Nam Việt Nam, để cùng đi với phái đoàn
Phật Giáo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự hội
nghị 10 nước Châu Á vì Hòa bình, họp tại thủ đô Ulanbato,
nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Tại hội nghị nầy, Hòa
thượng được bầu làm Ủy viên thường trực.
Sau
hội nghị, Hòa thượng được mời đi tham quan các di tích
lịch sử văn hóa và chùa viện của Phật Giáo ở Mông Cổ.
– Quý
Sửu, 1973
Hòa
thượng được mời làm Thành viên chính thức của Hội Phật
Giáo Châu Á vì Hòa bình.
– Ất
Mão, 1975
Ngày
30-04, dương lịch, đất nước thống nhất, Hòa thượng được
trở về Huế, nhưng không được về chùa Linh Mụ mà phải
ở lại Viện Đại học, Huế. Một thời gian sau mới được
phép về chùa.
Đã
nhiều lần Hòa thượng nôn nóng muốn vào Sài Gòn để thăm
Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống
nhất, nhưng không làm sao đi được!
Một
thời gian sau, có tin điện của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ,
Chủ tịch Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
từ Sài Gòn điện ra, mời Hòa thượng vào tìm cách giải
quyết cho một việc rắc rối giữa Phật Giáo Ấn Quang và
Chính phủ. Nhờ vậy Hòa thượng mới được dịp vào thăm
Hội đồng Lưỡng Viện.
Thời
gian ở Sài Gòn, Hòa thượng tham dự hội nghị Hội đồng
Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại
dinh Thống nhất (phủ Tổng thống cũ). Tại hội nghị nầy,
Hòa thượng nhắc lại là xin được trở về nếp sống của
người tu hành như đã đề cập khi còn ở Trường Sơn, nhưng
Hội nghị không chấp thuận, lại còn yêu cầu Hòa thượng tiếp tục đóng góp thêm nữa vào việc
nước.
Cũng
trong hội nghị nầy, Hòa thượng trả lời với Luật sư Nguyễn
Hữu Thọ về việc Chính phủ đã ra lệnh cho cán bộ, binh
lính cách mạng đi đập phá, san bằng các tượng Phật lộ
thiên ở nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam.
Hòa
thượng được đến thăm và ngỏ lời phát biểu trước Hội
đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
tại chùa Ấn Quang.
Hội
đồng Lưỡng Viện cung thỉnh Hòa thượng vào Hội đồng
Trưởng lão.
– Bính
Thìn, 1976
Hòa
thượng bắt đầu đi giảng dạy Kinh, Luật, Luận cho các
lớp học Tăng Ni ở chùa Bảo Quốc, Chùa Linh Quang và cả
chùa Linh Mụ.
Ông
Trưởng ban bầu cử Quốc hội, đơn vị thành phố Huế, lên
mời Hòa thượng ra ứng cử Đại biểu Quốc hội khóa VI.
Hòa thượng nêu nhiều lý do để xin từ chối, nhưng cuối
cùng cũng phải ra ứng cử vì “lệnh của Trung ương”.
Đắc
cử đại biểu Quốc hội khóa VI, đơn vị thành phố Huế
với số phiếu bầu thấp nhất 60%.
Thực
tế, Hòa thượng đắc cử là do lệnh từ Trung ương điện
vào”không được làm cho Ông Đôn Hậu thất cử ”.
Ra
Hà Nội tham dự kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa VI, Hòa
thượng gặp và nói chuyện với Thủ tướng Phạm Văn Đồng,
lý do vì sao Phật Giáo lại chủ trương lập Chính phủ ở
miền Nam Việt Nam?
Trong
khi họp các Tiểu ban ở Quốc hội, Hòa thượng trình bày:
“Trên bảy mươi tuổi tôi chưa thấy có cái nền Dân chủ
nào trên thế giới mà lạ lùng như vậy! Ra lệnh cho nhân
dân đừng bỏ người này, đừng bỏ người kia, không có
cái nền dân chủ nào lạ lùng như vậy!”
Lúc
ấy ông Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi họp một Tiểu ban
bên cạnh nói chen vào: ”Nầy, Đôn Hậu nầy, tôn giáo mà
họ bầu như vậy là cao lắm rồi đó nghe không?” Nghe ông
Giáp nói thế, sự bất bình ở Hòa thượng nổi lên cực
độ, nhưng là vị thầy tu nên Hòa thượng đã dằn được
cơn phẫn nô, nếu không thì “cái ghế tôi ngồi sẽ phang
ông Võ Nguyên Giáp một cái!”
Chánh
phủ lại giao cho Hòa thượng một chức vụ nữa là Ủy viên
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
– Đinh Tỵ, 1977
Hòa
thượng biên soạn tác phẩm: “Đồng mông chỉ quán”. Đã
quay Ronéo.
Đại
hội kỳ VII Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất công
cử Hòa thượng giữ chức vụ Chánh Thư ký Viện Tăng Thống.
Làm
Đường đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn chùa Bảo Quốc,
Huế. Giới đàn qui tụ hơn 500 giới tử.
– Mậu
Ngọ, 1978
Ngày
26-10 dương lịch, Hòa thượng viết đơn (lần thứ nhất)
nêu rõ lý do về: “Những vụ bắt bớ, giam cầm nhiều vị
Hòa thượng, Thượng tọa trong Hội đồng Lãnh đạo cao cấp
của Giáo hội Phật Giáo và một số vị khác trong các Ban
Trị Sự Tỉnh đã gần hai năm nay mà không được trả tự
do, cũng không được Công tố viện cho biết tội trạng gì.
Nhất là với cái chết của Thượng tọa Thích Thiện Minh
trong nhà giam gần đây”, để xin từ chức Đại biểu Quốc
hội khóa VI.
Đơn
xin từ chức không được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp
thuận. Vẫn phải ở lại làm Đại biểu Quốc hội.
Ngày
08-12 dương lịch, có hai ông Bùi San, Bí thư Tỉnh ủy Bình
Trị Thiên và ông Cổ Kim Thành, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên, đồng Đại diện
chính thức Ủy ban Thường vụ Quốc hội lên tiếp kiến Hòa
thượng tại chùa Linh Mụ. Trong lần gặp gỡ và nói chuyện
nầy, Hòa thượng đã trình bày cặn kẽ thực trạng Phật
Giáo Việt Nam đang bị Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chính quyền đàn áp mọi mặt. Trong đó Hòa thượng đã phê phán quyết liệt việc Chính quyền bắt giam
và đánh chết Thượng tọa Thích Thiện Minh trong nhà giam.
Cuối
cùng, Hòa thượng tuyên bố thẳng thắn và dứt khoát: “Nếu
được Đảng và Chánh phủ chấp nhận 3 điều kiện thì tôi
sẽ ở lại làm Đại biểu Quốc hội, mà không thì xin rút
lui”.
– Kỷ
Mùi, 1979
Ngày
06-01 âm lịch, Đại lão Hòa thượng Đệ Nhị Tăng Thống
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Trừng Thủy Giác
Nhiên viên tịch.
Hội
đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất
cung thỉnh Hòa thượng kiêm nhiệm chức vụ Xử lý Viện Tăng Thống.
Hòa
thượng biên soạn bài “Giảng về ý nghĩa chữ Tu”. Chưa
xuất bản.
– Canh
Thân, 1980
Ban
Vận động Thống nhất Phật Giáo Việt Nam ra đời, do Hòa
thượng Thích Trí Thủ làm Trưởng ban, đã mời Hòa thượng
vào Ban Cố vấn.
Hòa
thượng đọc bài “Tham luận” trong kỳ họp thứ 7,
Quốc hội khóa VI. Nội dung góp ý về việc soạn thảo và
xây dựng bản Hiến pháp mới.
Hòa
thượng viết đơn (lần thứ hai) nêu rõ lý do: Vì bệnh tình
và già yếu, vả lại có tiếp tục làm Đại biểu Quốc hội
thì cũng chẳng giúp được việc gì cho Dân tộc và Đạo
pháp, để xin từ chức.
Hòa
thượng rất vui mừng khi đơn xin từ chức được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội chấp thuận. Đến đây là chấm dứt
một đoạn đường 13 năm Hòa thượng tham gia vào chính
sự!
– Tân
Dậu, 1981
Hòa
thượng gửi Thông điệp nhân Đại lễ Phật Đản, Phật
lịch 2525.
Hòa
thượng làm Đường đầu Hòa thượng cho Đại giới đàn
tổ chức tại chùa Bảo Quốc, Huế. Giới đàn Quy tụ hơn
700 giới tử.
Hòa
thượng làm lê quy y và truyền giới cho hơn 1000 Phật tử
tại chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ở Quảng Trị.
Hòa
thượng biên soạn tác phẩm: “Giảng phẩm Tựa Kinh Bảo
Đàn”. Chưa xuất bản.
Hòa
thượng gửi thư cho Hòa thượng Thích Trí Thủ, Trưởng
ban Vận động Thống nhất Phật Giáo Việt Nam, bàn về việc
Thống nhất Phật Giáo.
Hòa
thượng gửi thư cho Chủ tọa Đoàn đề nghị năm điều cần
bổ sung trong việc Dự thảo Bản Hiến chương của Giáo hội
Phật Giáo Việt Nam. Trong đó Hòa thượng nêu một vấn đề
vô cùng quan trọng là “Cờ Phật giáo Quốc tế đã bị Ban
dự thảo Hiến chương loại bỏ!”
Ban
Tổ chức Đại hội Thống nhất Phật Giáo Việt Nam, gửi
thư mời Hòa thượng tham dự Đại hội, tổ chức tại
chùa Quán Sứ, Hà Nội vào ngày mồng 4 đêïn ngày mồng 7
tháng 11 dương lịch, nhưng Hòa thượng từ chối không ra dự
họp vì đang chữa bệnh.
Hòa
thượng gửi thư cho Hòa thượng Thích Trí Thủ, Chủ tịch
Hội đồng Trị Sự Trung ương Giáo hội Phật Giáo Việt Nam,
từ chối không đảm nhận chức vụ Đệ Nhất Phó Pháp chủ
kiêm Giám Luật Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, với lý do: Hòa
thượng “Còn một trách nhiệm lớn đối với Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam Thống nhất, trong cương vị Chánh Thư ký, Xử
lý Viện Tăng Thống.”
– Nhâm
Tuất, 1982
Hòa
thượng gửi thư cho Hòa thượng Thích
Đức Nhuận, Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, từ
chối không đảm nhận chức vụ Đệ Nhất Phó Pháp Chủ kiêm
Giám Luật Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, với lý do “xét
thấy tôi nay tuổi đã già, sức đã yếu, lại thêm bệnh
hoạn liên miên”.
Hòa
thượng gửi Thông điệp nhân Đại lễ Phật Đản, Phật
Lịch 2526.
Hòa
thượng bắt đầu dành nhiều thì giờ một mình lặng lẽ
trong liêu mà “Kể chuyện,” và tự điều khiển máy ghi
âm vào hai cuốn băng HF, có độ chạy dài 135 phút. Các câu
chuyện Hòa thượng kể được ghi vào băng, cũng như được
ghi vào tập “Hồi ký“, là những sử liệu quan trọng, vô
giá cho Dân tộc và Phật Giáo Việt Nam ở vào Hậu bán thế
kỷ XX.
Nhân
danh Chánh Thư ký, Xử lý Viện Tăng thống Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam Thống nhất, Hòa thượng ký công văn số 02-82/
VTT ngày 14-7 dương lịch, gửi cho Hòa thượng Thích Trí Thủ,
Chủ tịch Hội đồng Trị Sự Trung Ương Giáo hội Phật Giáo
Việt Nam, mạnh mẽ phản đối Ban Trị Sự thành hội Giáo
hội Phật Giáo Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh, ngang nhiên
đến đoạt thủ trụ sở Trung ương của Hội đồng LưỡngViện
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất, tại chùa Ấn Quang
,Sài Gòn.
– Quý
Hợi, 1983
Làm
Đường đầu Hòa thượng cho Đại giới đàn Ni giới tại
chùa Trúc Lâm, Huế.
Trong
khi sức khỏe dồi dào, Hòa thượng đã cảm thán bài Kệ,
theo thể Cổ phong ngũ ngôn tứ tuyệt:
“Hành
thâm Tỳ – Ni tạng,
Giới
thể tịnh trang nghiêm,
Định
lực tồi Ma đạo,
Tuệ
quang chiếu giác viên”.
Nội
dung bài Kệ là một tuyệt tác phẩm của nền Văn học Phật
Giáo Việt Nam hiện đại!
–
Giáp Tý, 1984
Hòa
thượng biên sọan tác phẩm: ”Khóa nghi diễn giảng Đàn
Bạt độ giải oan.” Chưa xuất bản.
– Ất
Sửu, 1985
Hòa
thượng viết đơn gửi ông Bộ trưởng Bộ Nội Vụ nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Mai Chí Thọ, xin bảo
lãnh cho các Đại đức Tâm Phật Trí Siêu, Nguyên Chứng Tuệ
Sỹ và Nguyên Giác hiện đang bị chính quyền giam giữ trong
các trại giam. Đơn xin đã không được Bộ Nội Vụ trả
lời.
– Bính
Dần, 1986
Hòa
thượng cho đại trùng tu chùa Long An, ngôi chùa do thân phụ
Hòa thượng xây dựng tại tỉnh Quảng trị. Đây là lần
trùng tu thứ hai.
Hòa
thượng cho kết tập những bài học đã được Hòa thượng
biên soạn và giảng dạy tại các Phật Học Viện để ấn
hành thành tác phẩm “Luật Tứ phần Tỳ Kheo Ni sao.”
Giữa
mùa xuân, Hòa thượng lâm cơn trọng bệnh. Thất chúng đệ
tử tưởng rằng Hòa thượng không qua khỏi, nhưng nhờ sự
tận tâm chăm sóc của các Y, Bác sĩ Phật tử, trong đó có
Bác sĩ Lê Văn Bách nên sau 3 tháng chữa trị,
cơn bệnh của Hòa thượng đã bình phục, nhưng để
lại di chứng là thể trạng của Hòa thượng không được
y như trước.
– Mậu
Thìn, 1988
Ngày
mồng 3 tháng giêng âm lịch, tức ngày 19.2, dương lịch, Hòa
thượng ban lời Di huấn cho thất chúng đệ tử, Lời Di huấn
gồm có 6 điều, mà điều nào cũng thể hiện nỗi ưu tư, lo lắng của Hòa thượng về việc nghiêm trì giới luật của chư Tăng
Ni, và sự hưng vong của Đạo pháp.
– Tân
Mùi, 1991
Ngày
mồng 3-8 âm lịch, tức ngày 10-9 dương lịch. Nhân danh Đại
lão Hòa thượng, Ngài ký và gởi một bức “Tâm thư” đến
chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa Đại đức Tăng
Ni Việt Nam ở Hải ngoại, kêu gọi sự đoàn kết hòa hiệp,
thể hiện tinh thần tương kính, tương thuận, tương giáo,
tương sám như luật dạy, để hoằng dương và bảo vệ sự
tồn vong của Đạo pháp.
Ngày
24-9 âm lịch, tức ngày 31-10 dương lịch. Nhân danh Chánh Thư
ký, Xử lý Viện Tăng Thống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
Thống nhất, Hòa thượng ký và gởi bức Thông điệp đến
Chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni
và đồng bào Phật tử Việt Nam ở Hải ngoại.
Nội
dung bức Thông điệp có 4 điều. Trong đó Hòa thượng khuyến
thỉnh chư vị Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng
Ni và đồng bào Phật tử Việt Nam ở Hải ngoại là nên có
kế hoạch thành lập một Giáo hội hợp nhất lấy tên là
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất tại Hải ngoại.
Nguyên tắc tổ chức: Căn bản là dựa theo Hiến chương của
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất đã ban hành ngày
04-01-1964, và đặt dưới sự điều hành của hội đồng Lưỡng
Viện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất tại quê
nhà. Bức Thông điệp của Hòa thượng gởi đi đã được
sự hưởng ứng hết sức nồng nhiệt của tất cả tổ
chức Phật Giáo Việt Nam hiện ở khắp nơi trên thế giới.
Ngày
10-10 âm lịch, tức ngày 15-11 dương lịch. Nhân danh Chánh Thư
ký, Xử lý ViệnTăng Thống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống
nhất, Hòa thượng đã ký và gởi Bản Chúc thư đến Chư
tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa trong Hội đồng Lưỡng
Viện Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất. Bản Chúc
thư gồm có 5 điều, nội dung tất cả 5 điều được Hòa
thượng ghi trong Bản Chúc thư đều thể hiện rõ ràng sự
quyết tâm cao cả của Ngài, là mong quí Hòa thượng, Thượng
tọa trong Hội đồng Lưỡng Viện đặc biệt lưu tâm đến
những vấn đề quan trọng của Giáo hội, dù trong mọi hoàn
cảnh khó khăn nào cũng phải bảo vệ và phát huy cho được
sự toàn vẹn, và sự lớn mạnh của Giáo hội Phật Giáo
Việt Nam Thống nhất. Vì Giáo hội Phật Giáo Việt Nam
Thống nhất, là Giáo hội duy nhất được sự truyền thừa
của chư Lịch đại Tổ sư trong suốt dòng lịch sử huy hoàng
2000 năm qua.
– Nhâm
Thân, 1992
Vào
lúc 20 giờ, ngày 21-3 âm lịch, tức ngày 23-4 dương lịch.
Hòa thượng an nhiên thị tịch.
Thọ
87 tuổi đời và 68 năm Hạ lạp.
Kim
quan Hòa thượng được tôn trí trang nghiêm trong điện Địa
Tạng cũ tại chùa Linh Mụ.
Tang
lễ đã được Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật Giáo
Việt Nam Thống nhất, cùng Ban tổ chức tang lễ cử hành đúng
theo lời Di huấn tha thiết của Ngài là đơn giản, trang nghiêm
và đầy không khí đạo vị.
Về
phía Chính phủ cũng muốn giành quyền tổ chức tang lễ Hòa
thượng theo nghi thức Quốc tang, vì cho rằng Hòa thượng đã
đóng góp nhiều công lao cho Cách mạng. Nhưng Hội đồng Lưỡng
Viện và Ban tổ chức tang lễ không chấp thuận trên nguyên
tắc, vì Hòa thượng đang là vị lãnh đạo tối cao của Giáo
hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất.
Dù
không giành được quyền tổ chức tang lễ Hòa thượng, nhưng
sau đó, phái đoàn Tỉnh Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt
Nam, Ủy ban Nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tỉnh Thừa Thiên-Huế đã đến đặt vòng hoa tưởng niệm
và làm lễ viếng Kim quan Hòa thượng. Phái đoàn đã thay mặt
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
truy tặng Hòa thượng Huân chương Hồ Chí Minh, với lý do
là Hòa thượng đã đóng góp công sức lớn lao cho Cách mạng.
Thế nhưng, Ban tổ chức tang lễ đã tuân thủ theo lời Di
huấn của Ngài mà không tiếp nhận.
Cũng
nên biết rằng Huân chương Hồ Chí Minh là Huân chương cao
quý của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Lễ
cung nghinh Kim quan Hòa thượng nhập bảo tháp, được tổ chức
trọng thể và trang nghiêm vào lúc 6 giờ ngày mồng 01 tháng
04 âm lịch, tức ngày 3-5 dương lịch.
Đến
dự lễ nhập tháp Hòa thượng có đông đủ Chư tôn Hòa thượng,
chư Thượng tọa trong Hội đồng Lưỡng Viện Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam Thống nhất (trừ chư vị Hòa thượng,
Thượng tọa, đang bị chính quyền Cộng sản Việt Nam quản
thúc và giam giữ ), cùng đông đủ Chư tôn Hòa thượng,
Thượng tọa, và gồm hai vạn tín đồ Phật tử, hàng ngàn
Huynh trưởng và Đoàn sinh, đại diện cho Gia đình Phật tử
khắp các tỉnh ở miền Nam Việt Nam cũng về dự.
Về
phía Chính quyền có phái đoàn Chánh phủ nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ,
Chủ tịch,Chủ tịch Đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam dẫn đầu. Phái đoàn Tỉnh Đảng bộ Đảng
Cộng sản Việt Nam, Ủy ban Nhân dân và Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế, do ông Vũ Thăïng
Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên Huế dẫn đầu cũng đến
tham dự lễ nhập tháp Kim quan Hòa thượng.
Bảo
tháp của Hòa thượng được xây dựng phía hậu tẩm điện
thờ Đức Quán Thế Âm Bồ-tát, trong khuôn viên chùa Linh Mụ.
Kiến
trúc ngôi bảo tháp thể hiện được đường nét đặc trưng
về sự đơn sơ và giản dị, nhưng cũng không thiếu phần
mỹ thuật, đúng y theo lời Di huấn cuối cùng của Hòa thượng.
Bảo tháp
Discussion about this post