NGUYÊN NHÂN PHÂN PHÁI ĐẦU TIÊN
TRONG PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
VÀ KỲ KIẾT TẬP THỨ HAI
Thích Nguyên Lộc
Sử liệu Phật giáo lưu lại nhiều thông tin khác nhau về
nguyên nhân và thời gian phân phái đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ.
Lần phân phái đầu tiên giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ
(Sthaviravāda) đã xảy ra, hoặc trong cùng năm Đức Thế Tôn diệt độ(1),
hoặc vào những năm: 100, 116, 137 và 160 năm sau năm Đức Thế Tôn diệt độ, hoặc
vào năm 236 sau năm Đức Thế Tôn diệt độ(2). Tuy nhiên, hai thông tin về lần
phân phái đầu tiên xảy ra cùng năm và 236 năm sau Phật diệt độ không có nhiều
giá trị lịch sử. Hầu hết các nhà viết sử và nghiên cứu sử Phật giáo Ấn Độ khảo
cứu và tranh luận thời gian phân phái đầu tiên giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão
bộ xảy ra trong khoảng từ 100 đến 160 năm sau năm Phật diệt độ; và có nhiều
nguyên nhân khác nhau, mà nổi bật nhất là những bất đồng về “Mười điều” liên
quan đến giới luật được đề xuất bởi các Tỳ-kheo Bạt-kỳ, được phân xét trong Đại
hội Tăng-già tại thành Tỳ-xá-ly, hoặc “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của
Thánh giả A-la-hán được khởi xướng bởi Tỳ-kheo Đại Thiên hoặc bởi các nhóm
Tỳ-kheo, được tranh luận trong một Đại hội Tăng-già tại kinh thành Hoa Thị.
Về Đại hội Tăng-già Phật giáo tại thành Tỳ-xá-ly
(Vaiśāli) (thường được gọi là Đại hội kết tập kinh điển lần thứ II), các bộ
luật hiện còn của các bộ phái Phật giáo Ấn Độ đều đề cập đến Đại hội này(3). Nhìn chung, những tường thuật về Đại hội này
trong các bộ luật đều giống nhau ở những điểm chính yếu. Theo Luật tạng của
Thượng tọa bộ (Theravāda), một trăm năm sau năm Phật niết-bàn, các Tỳ-kheo
Bạt-kỳ (Vajji), thành Tỳ-xá-ly, cho phép thực hành “Mười điều” (Dasavatthūni).
“Mười điều” được phép đó là: 1. Được phép cất giữ muối trong ống sừng để khi
cần dùng, sẽ dùng; 2. Được phép ăn quá trưa khi mặt trời ngả bóng chưa quá hai
ngón tay;(4) 3.
Được phép, ăn đã đủ, oai nghi đã xả, chưa làm phép dư thực, vào trong xóm làng,
ăn thêm lần nữa; 4. Được phép khác trú xứ, nhưng cùng một cương giới, yết-ma
bố-tát riêng biệt; 5. Được phép biệt chúng yết-ma, nếu các Tỳ-kheo đến sau tùy
hỷ pháp yết-ma này; 6. Được phép thực hành theo những điều Hòa thượng tế độ và
Hòa thượng A-xà-lê đã thực hành; 7. Được phép uống sữa chưa đông sau bữa ăn; 8.
Được phép uống nước trái cây lên men (rượu pha loãng); 9. Được phép cất chứa
tọa cụ không làm viền; 10. Được phép cất giữ vàng bạc.
Lúc bấy giờ, Trưởng lão Da-xá (Yasa), du hành
trong dân gian, đến thành Tỳ-xá-ly (Skt. Vaiśāli), biết tin các Tỳ-kheo tại
thành này cho phép thực hành “Mười điều”. Ngài đã công khai phản đối rằng “Mười
điều” này là phi giới, phi luật, trước hội chúng Tỳ-kheo và quần chúng Phật tử.
Các Tỳ-kheo thành Tỳ-xá-ly yết-ma quy kết tội ngài đã nói xấu chúng Tăng trước
quần chúng Phật tử, khiến họ mất tín tâm vào Tam bảo và yêu cầu Trưởng lão
Da-xá sám hối trước Đại chúng Tỳ-kheo và nhận là mình nói sai trước quần chúng
Phật tử. Trưởng lão Da-xá vẫn giữ nguyên quan điểm của mình khi đề cập về “Mười
điều” này với quần chúng Phật tử. Ngài giải thích với họ là ngài không sai, mà
các Tỳ-kheo Bạt-kỳ cho phép thực hành “Mười điều” ấy là trái phạm giới luật của
Đức Thế Tôn đã cấm chế.
Sau đó, để ngăn chặn những điều, mà theo
ngài là
sai phạm, của những Tỳ-kheo thành Tỳ-xá-ly (Skt. Vaiśālī), Trưởng lão Da-xá
(Yasa) đã gởi sứ giả đến thành Pāvā, Avanti để trình bày sự việc cho các
Tỳ-kheo ở đây được rõ. Trưởng lão Da-xá đi về phía Tây, lần lượt đến gặp
các vị
Trưởng lão: Sambhūta Sāṇavāsī, Revata,
Sāḷha, Sabbakāmī để trình bày sự
việc và tìm sự ủng hộ của quý ngài. Sau khi nghe trình bày vụ việc, các Trưởng
lão cho rằng, muốn tranh luận đúng sai về “Mười điều” của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ
phải đến nơi xảy ra vụ việc, tại thành Tỳ-xá-ly, để tranh luận và giải quyết.
Do đó, một đại hội chúng Tỳ-kheo Tăng gồm 700 Tỳ-kheo được nhóm họp tại tu viện
Vālika, thành Tỳ-xá-ly. Đại Tăng chọn ra 8 vị trưởng lão đại diện cho hai phía:
Đông và Tây. Những Trưởng lão Tỳ-kheo đại diện cho các Tỳ-kheo thành Tỳ-xá-ly
thuộc các Tỳ-kheo phía Đông, gồm: Sabbākāmin, Sāḷha, Khujjasobhita và Vāsabhagāmika. Và những Trưởng lão Tỳ-kheo đại diện cho các Tỳ-kheo Pāvā
(Pāṭheyyaka), đứng đầu là Trưởng lão Da-xá, thuộc nhóm
các Tỳ-kheo phía Tây, gồm: Revata, Sambhūta, Yasa (Da-xá) và Sumana. Tăng sai
Trưởng lão Revata lần lượt hỏi Trưởng lão Sabbākāmin về “Mười điều” cho phép
của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phù hợp giới luật hay không phù hợp giới luật.
Trưởng
lão Sabbākāmin lần lượt trả lời “Mười điều” này là không phù hợp giới luật. Và
Đại tăng yết-ma “Mười điều” của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ, thành Tỳ-xá-ly là phi giới,
phi luật, sai phạm lời dạy của Đức Thế Tôn.
Luật tạng của Pháp tạng bộ (Tứ phần) và của Hữu bộ
(Thập tụng) cũng kết thúc tường thuật tương tự như Luật tạng Pāli của Thượng
tọa bộ. Tức là, tường thuật về Đại hội chúng Tỳ-kheo Tăng kết thúc tại lời kết
luận “Mười điều” của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phi giới, phi luật. Tuy nhiên, theo
Luật tạng của Ma-ha Tăng-kỳ (Mahāsāṃghika), nguyên nhân Đại tăng triệu tập Đại hội chỉ liên quan đến vấn đề
cất giữ vàng bạc. Và kết thúc Đại hội, Tôn giả Đà-ta-bà-la, người chủ trì Đại
hội, thưa với đại chúng Tỳ-kheo, có 5 pháp được tùy thuận, trong đó có pháp tùy
thuận: nếu Tỳ-kheo nào không có phương tiện thì có thể nhận vàng bạc và tiền
mặt.
Tất cả các luật
tạng dẫn ở trên không đề cập đến nguyên nhân phân phái giữa Đại chúng bộ
(Mahāsāṃghika) và
Trưởng lão bộ (Sthaviravāda).
Đảo sử
(Dīpavaṃsa)(5),
được biên soạn tại Sri Lanka vào khoảng đầu thế kỷ IV TL, và Đại sử
(Mahavaṃsa),(6) cũng
được biên soạn tại Sri Lanka vào thế kỷ V TL, tường thuật thêm thông tin phân
phái giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika)
và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda). Theo hai nguồn sử liệu này, sau khi Đại hội
tại thành Tỳ-xá-ly (Vaiśālī) trong thời gian trị vì của vua Kālāsoka, kết luận
“Mười điều” của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phi giới phi luật, các Tỳ-kheo ủng hộ
“Mười điều” bị các vị Trưởng lão buộc tội và trục xuất. Các Tỳ-kheo ủng hộ
“Mười điều” này, gồm 10 ngàn Tỳ-kheo, đã tiến hành một Đại hội kết tập kinh
điển khác, gọi là Đại kết tập (mahāsaṅgīti). Mười ngàn Tỳ-kheo trong Đại hội Đại kết tập này
thành lập Đại chúng bộ. Từ đây, Tăng đoàn Phật giáo phân rẽ thành hai bộ: Đại
chúng bộ và Trưởng lão bộ.
Những nhà viết
sử và nghiên cứu sử Phật giáo Ấn Độ chấp nhận những thông tin tường thuật trong
hai nguồn sử liệu này thì cho rằng nguyên nhân phân phái đầu tiên giữa Đại
chúng bộ và Trưởng lão bộ là do những quan điểm khác biệt về “Mười điều” được
cho phép bởi các Tỳ-kheo Bạt-kỳ trong Đại hội chúng Tỳ-kheo Tăng tại thành
Tỳ-xá-ly vào khoảng 100 năm sau Phật diệt độ.
Nhưng, như những tường thuật trong các bộ luật, khi
biết Trưởng lão Da-xá (Yasa) đang đi vận động các trưởng lão để triệu tập một
Đại hội phân xét về Mười điều được cho phép, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ cũng đến thăm
và tìm kiếm sự hậu thuẫn của Trưởng lão Revanta. Họ dâng cúng Trưởng lão
Revanta nhiều phẩm vật và hy vọng ngài sẽ ủng hộ quan điểm của họ. Nhưng ngài
từ chối. Điều này cho thấy, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ thành Tỳ-xá-ly đã lúng túng, lo
sợ và lường trước kết quả thất bại khi Đại tăng nhóm họp tranh luận về những
giới điều cho phép của họ. Nếu các Tỳ-kheo Bạt-kỳ là những Tỳ-kheo lãnh đạo
hoặc được sự ủng hộ của 10 ngàn Tỳ-kheo như Đảo sử (Dīpavaṃsa) và Đại sử (Mahāvaṃsa) tường thuật, thì chắc chắn
thế lực, ảnh hưởng của họ trong Tăng đoàn rất lớn và mạnh. Họ không thể lúng
túng, lo sợ và dễ dàng bị kết tội và trục xuất. Họ cũng không cần phải sử dụng
hạ sách bằng dùng phẩm vật (một hình thức dùng phẩm vật để mua chuộc) để tìm sự
ủng hộ của Trưởng lão Revanta (Ly-bà-đa). Với số đông Tỳ-kheo ủng hộ “Mười
điều” như vậy, nếu muốn thành lập Đại chúng bộ, thì ngay trong Đại hội tại
thành Tỳ-xá-ly, họ có thể phủ quyết kết luận của các vị Trưởng lão và tuyên bố
thành lập Đại chúng bộ, không cần phải đi đến thành Hoa Thị mới tiến hành một
Đại hội để lập phái. Vì vậy, có thể nói rằng, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ không có nhiều
ảnh hưởng trong Tăng đoàn như được tường thuật trong Đảo sử và Đại sử.
Không có nhiều ảnh hưởng và uy tín trong Tăng đoàn thì họ khó có thể triệu tập
một Đại hội khác để tách phân Tăng đoàn và thành lập Đại chúng bộ.
Vả lại, theo É. Lamotte, nội dung về Đại hội Đại
kết tập của Đại chúng bộ, sự kiện được tiến hành sau Đại hội tại thành Tỳ-xá-ly
được tường thuật trong Đảo sử, không được đề cập trong các tác phẩm lịch
sử biên soạn về sau của văn học Pāli. Trong tác phẩm Samantapāsādika,
ngài Budhaghosa (Phật Âm), một Đại luận sư của Thượng tọa bộ (Theravāda), không
đề cập đến sự kiện Đại kết tập của Đại chúng bộ. Thậm chí, trong Nikāyasaṃgraha,
một tác phẩm biên soạn theo quan điểm của Thượng tọa bộ, ngài Saṃgharāja Dharmakīrti cho rằng nguyên nhân phân phái
đầu tiên giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ là do những quan điểm khác biệt về
giáo nghĩa trong Đại hội kết tập kinh điển tại kinh thành Hoa Thị (Pāṭaliputra) do ngài Mục Liên Đế Tu (Moggaliputta
Tissa) chủ trì(7).
Điều này có nghĩa là chỉ hai nguồn sử liệu Đảo sử và Đại sử của
văn học Pāli cho rằng nguyên nhân phân phái đầu tiên, phân rẽ Tăng đoàn thành
hai bộ: Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika)
và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) là do bất đồng quan điểm về “Mười điều” liên
quan đến giới luật.
Do đó, nhiều
nhà viết sử và nghiên cứu sử Phật giáo Ấn Độ khác, mặc dù chấp nhận những tường
thuật về Đại hội Tăng-già Phật giáo tại thành Tỳ-xá-ly trong các bộ luật, nhưng
không chấp nhận nguyên nhân phân phái được tường thuật trong Đảo sử
(Dīpavaṃsa) và Đại
sử (Mahāvaṃsa).
Họ khảo cứu những sử liệu liên quan đến lần phân phái giữa Đại chúng bộ và
Trưởng lão bộ được lưu giữ trong văn học của Hữu bộ (Sarvāstivāda) và của Chánh
lượng bộ (Saṃmatīya).
Theo sử liệu của Hữu bộ và Chánh lượng bộ,(8)nguyên nhân phân phái là do trong Tăng chúng xuất
hiện hai quan điểm khác nhau: một bên là ủng hộ “Năm việc” liên quan đến phẩm
hạnh của Thánh giả A-la-hán và một bên là phản đối “Năm việc” này. Và kết quả
Tăng đoàn phân ly thành hai bộ: Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda). Những
người khởi xướng và ủng hộ “Năm việc” (pañcavastu) này cho rằng: 1. A-la-hán, tuy không còn phiền não và xuất tinh
nhưng trong giấc ngủ có thể bị ma vương quấy rối, làm cho xuất tinh; 2.
A-la-hán vẫn còn nhiều điều không biết về những vấn đề liên quan đến cuộc sống
hàng ngày; 3. A-la-hán, tuy không còn nhiễm ô vô tri nhưng vẫn còn bất nhiễm ô
vô tri; 4. A-la-hán vẫn còn nhờ người khác (Đức Phật) dẫn vào Thánh đạo và 5.
A-la-hán cũng phải nhờ tiếng “Khổ” (phát ra trong lúc thiền định) mới vào Thánh
đạo.
Nguyên nhân phân phái này được thuật lại trong tác
phẩm Samayabhedoparacanacakra của ngài Thế Hữu (Vasumitra), một Đại Luận
sư của Hữu bộ. Tác phẩm này có ba bản Hán dịch(9) và một bản Tạng dịch. Cả ba bản Hán dịch đều đồng
ý là: vào 116 năm sau Phật diệt độ, tại thành Hoa Thị (Pāṭaliputra),(10) trong lúc vua A-dục đang trị vì cõi Diêm Phù Đề
(Ấn Độ), có các chúng Tỳ-kheo, hoặc ba chúng tên: Năng, Nhân duyên, Đa văn
(Thập bát bộ luận); hoặc bốn chúng: Đại quốc, Ngoại biên, Đa văn, Chủng đức (Bộ
chấp dị luận) hoặc Long tượng, Biên đồ, Đa văn, Đại đức (Dị bộ tôn luân luận)
ủng hộ và truyền bá “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh A-la-hán của những kẻ dị
giáo. Do “Năm việc” này, Tăng chúng xảy ra bất đồng và dẫn đến Tăng đoàn phân
ra thành hai: Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ (trong các bản Hán dịch là Thượng
tọa bộ, nhưng trong bài này dùng từ Trưởng lão bộ (Sthaviravāda), để phân biệt
với Thượng tọa bộ được dịch từ Theravāda). Hai bản Tần dịch và Lương dịch không
đề cập tên tác giả của “Năm việc” này. Tuy nhiên, bản Đường dịch của ngài Huyền
Trang có nêu tên tác giả khởi xướng “Năm việc” này, là Đại Thiên (Mahādeva),
nên thường gọi là “Đại thiên ngũ sự”.
Các nhà Tỳ-bà-sa (Vibhāṣā) của Hữu bộ, trong A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa,(11) cũng đồng ý rằng, “Năm việc” này là do Đại Thiên
(Mahādeva) khởi xướng và là nguyên nhân phân phái đầu tiên này. Các nhà
Tỳ-bà-sa còn đi xa hơn, viết thêm tiểu sử của Đại Thiên; theo đó, trước khi
xuất gia, Đại Thiên phạm ba trọng tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết
A-la-hán. Tuy nhiên, các luận sư này thừa nhận, sau khi xuất gia theo Phật, Đại
Thiên là người thông minh, học nhiều hiểu rộng, được nhiều người kính trọng, kể
cả vua quan và hàng quý tộc. Các luận sư, các nhà dịch thuật và chú giải Trung
Hoa, như: Chân Đế, Cát Tạng, Huyền Trang, Khuy Cơ, cũng chấp nhận quan điểm của
các Luận sư Hữu bộ về nguyên nhân phân giáo đầu tiên này. Tuy nhiên, ngài Khuy
Cơ cho rằng Đại Thiên chỉ là nạn nhân bị tấn công từ các luận sư đối lập. Theo
Khuy Cơ, Đại Thiên là một người thông tuệ, đạo cao đức trọng. Mặc dù tuổi còn
trẻ, nhưng ngài đã chứng đạt quả vị tâm linh rất cao, được vua quan kính trọng,
đồng đạo quý mến. Đó là lý do tại sao Đại Thiên bị quy gán ba tội ngũ nghịch,
khi ngài đề xướng “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh A-la-hán(12).
Sử liệu liên quan của Chánh lượng bộ (Saṃmatīya) được ngài Thanh Biện (Bhavya hoặc
Bhāvaviveka) ghi lại trong tác phẩm Tarkajvālā (Mdo XIX, tr. 162b 6-163; cf.
Mdo XC, No. 12) vào thế kỷ thứ VI TL. Sau đó, những thông tin này được các sử
gia Tây Tạng, Bu ston, thế kỷ XIV, Gzon nu dpal, thế kỷ thứ XV và Tāranātha,
thế kỷ thứ XVII trích dẫn và thuật lại trong các tác phẩm lịch sử Phật giáo Ấn
Độ của họ. Tuy nhiên, Thanh Biện cung cấp hai nguồn thông tin khác nhau liên
quan đến lần phân phái lớn này. Theo nguồn sử liệu thứ nhất, 136 năm sau Phật
diệt độ, trong giai đoạn trị vì của vua Nanda hoặc Mahāpadma, một Đại hội
Tăng-già được nhóm họp để thảo luận về “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của
A-la-hán, được khởi xướng bởi Tỳ-kheo tên Bhadra (một Tăng sĩ nổi tiếng). Do
nguyên nhân này, Tăng đoàn bị phân rẽ. Và theo nguồn sử liệu thứ hai, 160 năm
sau năm Đức Thế Tôn diệt độ, trong lúc vua A-dục (Aśoka) đang cai trị tại kinh
thành Hoa Thị (Pāṭaliputra), Tăng
đoàn đã khởi lên tranh luận về một số giáo nghĩa và dẫn đến phân rẽ thành hai
bộ: Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ.(13)
Như vậy, tuy
những nguồn sử liệu của Hữu bộ (Sarvāstivāda) và Chánh lượng bộ (Saṃmatīya) thuật lại thời
gian phân phái có khác nhau, hoặc năm 137 sau Phật diệt độ, trong thời kỳ vua
Mahāpadma, hoặc năm 116 và 160 sau Phật diệt độ, trong thời kỳ vua A-dục
(Aśoka); nhưng cả hai nguồn sử liệu này đều đồng ý nguyên nhân dẫn đến Tăng
đoàn rạn nứt và phân rẽ thành hai bộ: Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ, là do bất
đồng “Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của Thánh giả A-la-hán.
Như chúng ta biết, khi Đức Thế Tôn còn tại thế, đã
có hai lần cộng đồng Tỳ-kheo bị phân ly: một, do Đề-bà-Đạt-đa lãnh đạo,(14)
và một, do bất đồng quan điểm
về một điều giới của hai vị Trưởng lão Tỳ-kheo tại Kosambi. Tuy hai lần phân
giáo này, sau đó, đều được Đức Thế Tôn bằng nhiều phương cách khác nhau đã tái
lập hòa hợp, nhưng cả hai lần phân giáo này có một đặc tính giống nhau là đều
được dẫn dắt hoặc lãnh đạo bởi những Tỳ-kheo có ảnh hưởng hoặc uy tín trong
cộng đồng Tỳ-kheo và quần chúng Phật tử. Lịch sử phân phái Phật giáo về sau
cũng vậy. Hầu hết các lần phân phái đều được dẫn dắt hoặc lãnh đạo bởi một
Tỳ-kheo hay một nhóm Tỳ-kheo có uy tín và ảnh hưởng lớn trong cộng đồng Tỳ-kheo
hoặc quần chúng Phật tử. Lần phân phái giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ có
thể cũng vậy. Như đã đề cập ở trên, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ không phải là các
Tỳ-kheo có ảnh hưởng và uy tín trong Tăng chúng và quần chúng Phật tử, nên họ
không đủ khả năng lãnh đạo mười ngàn Tỳ-kheo, phân tách cộng đồng Tăng đoàn và
thành lập Đại chúng bộ. Chỉ có những Tỳ-kheo như Đại Thiên hoặc các nhóm
Tỳ-kheo, những Tỳ-kheo đa văn, được Tăng chúng quý mến, có uy tín trong xã hội
(như được tường thuật trong các nguồn sử liệu Sanskrit và Trung Hoa), mới có
thể lãnh đạo các nhóm Tỳ-kheo ủng hộ quan điểm của họ và thành lập bộ phái mới:
Đại chúng bộ.
Bất đồng quan
điểm về giáo nghĩa, mà ở đây cụ thể là phẩm hạnh của A-la-hán, là những bất
đồng và sau này là mâu thuẫn sâu nặng nhất giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ
trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Các nhà Đại chúng bộ có quan điểm
rằng Thánh quả A-la-hán chưa phải là quả vị viên mãn, chỉ có Phật quả mới là
quả vị viên mãn. Họ ít quan tâm đến quả vị A-la-hán, mà quan tâm chính đến Phật
quả. Theo các nhà Đại chúng bộ, và sau này là Đại thừa, muốn thành Phật quả,
phải thực hành con đường của Bồ-tát. Cho nên, các nhà Đại chúng bộ xiển dương
con đường của Bồ-tát. Con đường này khác biệt với con đường của Thanh văn
A-la-hán. Ngược lại, các nhà Trưởng lão bộ xiển dương Thánh hạnh và Thánh quả
của A-la-hán. Những khác biệt giữa quan điểm của Đại chúng bộ về Bồ-tát và quan
điểm của Trưởng lão bộ về A-la-hán là những khác biệt xuyên suốt và chính yếu
trong dòng lịch sử bộ phái Phật giáo Ấn Độ. Vì vậy, rất có thể, những bất đồng
về phẩm chất của Thánh giả A-la-hán là nguyên nhân chính yếu và cuối cùng dẫn
đến Tăng đoàn phân chia thành hai Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda).
Liên quan đến lần phân phái này, Giáo sư André
Bareau, trong tác phẩm đối chiếu văn bản nổi tiếng, Các bộ phái Phật giáo
Tiểu thừa, cho rằng những dị biệt của Đại hội kết tập kinh điển tại thành
Tỳ-xá-ly không thể là nguyên nhân làm cho Tăng đoàn phân phái. Vì nếu, tại thời
điểm đó, Tăng đoàn đã phân ly thì chắc chắn các bộ luật của các bộ phái Phật
giáo phải ghi lại thông tin quan trọng này. Và Giáo sư Bareau chấp nhận nguyên
nhân phân phái đầu tiên của Tăng đoàn Phật giáo liên quan đến “Năm việc”, mà
ông cho là do Đại Thiên khởi xướng. Và lần phân phái này, theo André Bareau,
không thể xảy ra trong giai đoạn trị vì của vua A-dục (Aśoka) như tường thuật
của ngài Thế Hữu. Nếu nó xảy ra trong thời gian vua A-dục trị vì, thì các sử
liệu khác xưa hơn và thuộc các nguồn gốc khác nhau tại vùng Kasmir không
thể
không ghi lại danh tánh đức vua đại hộ pháp này, nhưng các nguồn sử này không
nhắc đến tên vua A-dục liên quan đến lần phân phái này. Và vua A-dục không thể
là đức vua trị vì trong khoảng đầu thế kỷ thứ hai sau Phật diệt độ. Giáo
sư Bareau kết luận rằng lần phân phái này
diễn ra trong khoảng năm 140 sau năm Đức Thế Tôn diệt độ, tại thành Hoa Thị (Pāṭaliputra) dưới triều đại vua Nanda hoặc Mahāpadma
do Tăng đoàn bất đồng về “Năm việc” của Đại Thiên.(15)
Tuy nhiên, theo ngài Huyền Trang, nguyên nhân phân
phái này bao gồm cả vấn đề tranh luận về giới luật và giáo nghĩa trong Tăng
đoàn Phật giáo(16). Giáo sư Paul Demiéville cũng có cùng quan điểm như ngài Huyền Trang.
Theo Demiéville, trong “A Propos du Concile de Vaiśāli”, nguyên nhân phân phái
đầu tiên này bao gồm những bất đồng về “Mười điều” liên quan đến giới luật và
“Năm việc” liên quan đến phẩm hạnh của A-la-hán. Nhưng vì, các luật sư quan tâm
đến giới luật hơn, nên họ chỉ ghi lại trong các bộ luật về Đại hội Tăng đoàn
tại thành Tỳ-xá-ly (Vaiśālī) liên quan đến mười điều giới luật; và các luận sư
quan tâm đến giáo nghĩa hơn, nên họ chỉ ghi lại trong các bộ luận về Đại hội
Tăng đoàn tại thành Hoa Thị (Pāṭaliputra)
liên quan đến năm phẩm hạnh của Thánh giả A-la-hán(17). Tuy nhiên, Giáo sư J. Nattier và Charles S.
Prebish phê bình giả thuyết của Demiéville. Theo họ, nếu giả thuyết của
Demiéville là đúng, thì giải thích như thế nào về những tường thuật trong Xá-lợi-phất
vấn kinh, một luận thư A-tỳ-đàm của Đại chúng bộ, theo đó, nguyên nhân phân
phái giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ liên quan đến giới luật. Và họ cho
rằng, giả thuyết của Demiéville có chỗ chưa thuyết phục(18). Giáo sư Nalinaksha Dutt đưa ra một giả thuyết
khác. Theo N. Dutt, có thể sự phân phái giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ bắt
đầu từ những quan điểm khác biệt về một số giới điều (Mười điều của các Tỳ-kheo
Bạt-kỳ) và dần dần xuất hiện thêm những khác biệt về giáo nghĩa (Năm việc liên
quan đến phẩm cách của A-la-hán)(19).
Giáo sư J. Nattier và Charles S. Prebish(20) đưa ra một giả thuyết khác, phủ nhận những giả
thuyết liên quan đến “Mười điều” cho phép của các Tỳ-kheo Bạt-kỳ và “Năm việc”
đề cập đến tính chất của A-la-hán. Theo hai giáo sư này, nội dung “Năm việc”
này, đặc biệt là nội dung thứ năm liên quan đến “Khổ” thánh đế của Thánh giả
A-la-hán, trong thời gian đầu, không xuất hiện trong các chi phái của Đại chúng
bộ ở phía Bắc, chỉ được tranh luận và truyền bá trong các chi phái của Đại
chúng bộ tại phía Nam, quanh vùng Andhra. Vì vậy, họ phủ nhận giả thuyết cho
rằng bất đồng về năm phẩm hạnh của A-la-hán là nguyên nhân phân phái chính.
Theo họ, nó chỉ là nguyên nhân phân phái phụ trong các chi phái Đại chúng bộ
tại phía Nam
Ấn Độ, do Đại Thiên khởi xướng và truyền bá. J. Nattier và Charles S. Prebish
cũng đồng ý cách đánh giá của Giáo sư É. Lamotte về nguồn sử liệu đề cập đến
nguyên nhân phân phái chính được tường thuật trong Đảo sử (Dīpavaṃsa). Vì vậy, hai giáo sư này phủ nhận nguyên nhân
phân phái được tường thuật trong Đảo sử. Giả thuyết của J. Nattier &
Charles S. Prebish dựa vào nguồn sử liệu được đề cập trong kinh Xá-lợi-phất
vấn. Kinh này được xem là một luận thư của Đại chúng bộ, và được học giả
André Bareau đánh giá là một trong những nguồn sử liệu sớm nhất về lịch sử bộ
phái Phật giáo Ấn Độ(21). Theo kinh này, lúc bấy giờ, có một Trưởng lão
Tỳ-kheo đem luật tạng được kết tập trong Đại hội do ngài Đại Ca-diếp chủ trì,
phân loại lại và bổ sung thêm một số giới điều. Do nguyên nhân này, cộng đồng
Tỳ-kheo Tăng khởi lên bất hòa. Họ nhờ vua nước này đứng ra phân xử đúng sai.
Nhà vua và Tăng chúng quy định, những Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống
do ngài Đại Ca-diếp kết tập thì chọn thẻ màu đen, những Tỳ-kheo chấp nhận giới
luật được thêm vào thì chọn thẻ màu trắng. Kết quả là số thẻ màu đen có đến 10
ngàn, còn số thẻ màu trắng chỉ có 100. Vua nước này kết luận rằng, cả hai đều
tuân giữ đúng theo tinh thần giới luật của Đức Thế Tôn giảng dạy, nhưng vì có
một số khác biệt nên không thể sống chung. Vì vậy, cộng đồng Tỳ-kheo phân chia
thành hai bộ phái. Mười ngàn Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống thành lập
Đại chúng bộ. Số Tỳ-kheo kia thành lập Thượng tọa bộ (Trưởng lão bộ)(22). Kinh này không đề cập tên vị vua trì vị lúc bấy
giờ, nhưng Giáo sư É. Lamotte nhận dạng vua này là vua A-dục (Aśoka). Như vậy,
theo nội dung tường thuật trong kinh này, nguyên nhân phân phái là do cộng đồng
Phật giáo nguyên thủy bất đồng về việc mở rộng một số giới điều trong giới bổn
và Đại chúng bộ là bộ phái giữ gìn giới bổn truyền thống do Tôn giả Upāli và
Đại tăng kết tập tại thành Vương Xá.
Trong thực tế, so sánh các luật tạng hiện còn của
các bộ phái, chúng ta thấy rằng luật Ma-ha Tăng-kỳ của Đại chúng bộ có số giới
điều ít nhất: 218 giới. Cụ thể là các Pháp chúng học (Śaikṣa – dharmas) trong giới bổn Tỳ-kheo của các
bộ luật. Pháp chúng học của Ma-ha Tăng-kỳ chỉ có 66 giới; trong khi luật Pāli:
75, Tứ phần luật: 100, Thập tụng: 113, Căn bản nhất thiết hữu bộ: 108. Và nhiều
học giả, trong những tác phẩm nghiên cứu về giới bổn Tỳ-kheo của họ, nhận định
rằng giới bổn Ma-ha Tăng-kỳ của Đại chúng bộ có niên đại sớm nhất(23).
Vì vậy, theo J.
Nattier & Charles S. Prebish, rất có thể sau Đại hội kết tập kinh điển tại
thành Tỳ-xá-ly, các cộng đồng Tỳ-kheo tại các địa phương lo sợ Tăng đoàn sẽ
phân ly, nên nỗ lực điều chỉnh một số tiểu giới mà Đức Thế Tôn cho phép thêm
giảm cho phù hợp với từng địa phương để giữ cho Tăng đoàn không bị phân chia.
Nhưng những nỗ lực này không như ý nguyện của họ, dần dần các cộng đồng địa
phương càng nhiều khác biệt về giới luật, Tăng đoàn càng thêm bất đồng và cuối
cùng là phân phái. Hai giáo sư này kết luận nguyên nhân tách phân Tăng đoàn
Phật giáo liên quan đến việc bổ sung giới điều trong giới bổn, mà cụ thể là
những giới điều thuộc Pháp chúng học và thời gian xảy ra lần phân phái này là
vào năm 116 sau Phật diệt độ.
Như trên đã trình bày, Thượng tọa bộ, theo Đảo
sử, thì cho rằng bộ phái gốc của mình (Trưởng lão bộ) gồm những Trưởng lão
Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống và thanh tịnh; và ngược lại, Đại chúng
bộ, theo kinh Xá-lợi-phất vấn, cũng tường thuật bộ phái mình là bộ phái
gồm những số đông Tỳ-kheo tuân giữ giới luật truyền thống và thanh tịnh. Những
tường thuật này phản ánh một phần quan điểm chủ quan của bộ phái. Thật không dễ
để kết luận nguyên nhân và thời gian chính xác dẫn đến phân ly giữa Đại chúng
bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ
(Sthaviravāda).
Lời kết
Đại chúng bộ là
bộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp
nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ. Khảo cứu nguyên
nhân phân phái giữa Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) và Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) để có
những đánh giá và nhận định khách quan và tương đối chính xác về Đại chúng bộ
là việc làm rất cần thiết. Đây là đề tài lớn mà nhiều sử gia Phật giáo đã hao
tốn nhiều trí lực và thời gian khảo cứu, tranh luận và đưa ra nhiều giả thuyết
khác nhau trong hơn một thế kỷ qua. Nhưng hiện nay vẫn chưa có một giả thuyết
nào đủ sức thuyết phục để các nhà chuyên môn chấp nhận. Vì vậy, chúng ta không
thể chỉ y cứ vào một nguồn sử liệu nào đó mà cho rằng Đại chúng bộ là bộ phái
khởi nguyên từ những Tăng sĩ trẻ, lơi lỏng giới luật, hay bộ phái được lãnh đạo
bởi những kẻ dị giáo xâm nhập vào Tăng đoàn nhằm làm suy yếu Phật giáo.
Một số quan
điểm của người viết trình bày ở trên, chỉ là cách nhìn và cách hiểu của người
viết căn cứ vào những sử liệu khác nhau của hai nguồn Pāli và Sanskrit về lần
phân phái lớn và đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Cách nhìn và cách hiểu
ấy có thể hợp lý và cũng có thể không hợp lý. Khi viết bài này, người viết chỉ
mang một ước nguyện, hy vọng có thể tìm lại hình ảnh chân thực của Đại chúng bộ
(Mahāsāṃghika).
Chú thích
(1) Trong Đại đường
Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang thuật lại rằng, khi ngài đến thành Vương Xá,
tại đây, có một trụ đá do vua A-dục khắc tạo để đánh dấu nơi Đại chúng bộ đã
kết tập kinh điển bên cạnh Đại hội kết tập kinh điển do ngài Đại Ca-diếp chủ
trì. Những Tỳ-kheo thuộc Đại chúng bộ là những người không thừa nhận Đại hội
kết tập kinh điển do ngài Đại Ca-diếp chủ trì. Họ gồm số đông Tỳ-kheo, khoảng
vài trăm ngàn người, nên gọi là Đại chúng bộ. Những Tỳ-kheo thừa nhận Đại hội
kết tập kinh điển do ngài Đại Ca-diếp chủ trì gọi là những Tỳ-kheo thuộc Trưởng
lão bộ. Étienne Lamotte, History of Indian
Buddhism, translated from the French by Sara Webb-Boin, Louvaun-la-neuve, 1988,
tr. 286. Tham khảo thêm: 大唐西域記, Đại chánh, số 2087, tr. 923a 2-10.
(2) Theo Nikāyasaṃgraha của ngài Saṃgharāja
Dharmakīrti, lần phân phái đầu tiên của Phật giáo Ấn Độ đã xảy ra ngay sau khi
kết thúc Đại hội kết tập kinh điển tại Pāṭaliputra (kinh
thành Hoa Thị) do ngài Moggaliputta tissa (Mục-liên-đế-tu) chủ trì, vào năm
236. Étienne Lamotte, như trên, tr. 288-289.
(3) Vinaya Pitaka Vol. V
(Cullavagga), I. B. Horner dịch, London: Luzac & Company Ltd., 1963,
tr.407-430; Luật Ma-ha Tăng-kỳ, Đại chánh, số 1425 tr.493 a28; Luật
Tứ phần, Đại chánh, số 1428, tr.968c19; Luật Thập tụng (Hữu
bộ), Đại chánh, số 1435, tr.450a 28.
(4) Theo Tứ phần của Pháp tạng bộ và Thập tụng của Hữu bộ, giới điều này cho
phép Tỳ-kheo: ăn đã đủ, oai nghi đã xả, chưa làm phép dư thực, được phép dùng
hai ngón tay lấy thức ăn để ăn thêm.
(5)Sử liệu về đảo Sri Lanka (Dīpavaṃsa), chương 4,
Tỳ-khưu Indacanda dịch Việt, đăng trên trang mạng Budsas.
(6)The Great Chronicle of Sri
Lanka (Mahāvaṃsa), Ananda W. P. Guruge dịch, Colombo: S. Godage & Brothers, 2006, tr.
427.
(7) É. Lamotte, History
of Indian Buddhism, như trên, tr. 288-9.
(8) Tất cả nguồn sử liệu
của Hữu bộ và Chánh lượng bộ liên quan đến lần phân phái này được trình bày
trong bài viết dựa theo bài khảo cứu “Buddhist controversy over the Five
Propositions” (pañcavastu) của Giáo sư É. Lamotte, đăng trong Studies of
Buddhism, do G. Prasad chủ biên, Delhi: NXB. Bharatiya Kala Prakashan, 2006.
Người viết tham khảo và ghi chú thêm sử liệu gốc được Giáo sư É. Lamotte khảo
cứu.
(9) Bản Hán dịch đầu
tiên gọi là Thập bát bộ luận, thường gọi là Tần dịch, dịch khoảng
năm 385 đến 413; tên dịch giả tuy trong sách ghi là do ngài Chân Đế dịch, nhưng
dịch giả này vẫn còn nhiều nghi vấn (Đại chánh, T 2032, tr. 18a 9-14). Bản Hán
dịch thứ hai gọi là Bộ chấp dị luận, do ngài Chân Đế dịch, thường gọi là
Lương dịch, dịch khoảng năm 557 đến năm 569 (Đại chánh, T 2033, tr. 20a
15-25). Và bản Hán dịch thứ ba gọi là Di bộ tôn luân luận, do ngài Huyền
Trang dịch, thường gọi là Đường dịch, dịch vào năm 662 (Đại chánh, số
2031, tr. 15a 15-23)
(10) Các bản Hán dịch đề
cập đến địa danh tranh luận về “Năm việc” khác nhau, nhưng tất cả những địa
danh đó, theo Giáo sư É. Lamotte, đều là tên gọi khác của kinh thành
Pataliputra.
(11)A-tỳ-đạt-ma
Đại Tỳ-bà-sa, Đại chánh,
số 1545, ch. 99, tr. 510c – 512a.
(12)Khuy Cơ, Du-già-sư-địa luận lược, Đại chánh, số 1829, tr.1b.
(13) É. Lamotte,
“Buddhist controversy over the Five Propositions”, như trên, tr. 51-2.
(14) Trong Đại Đường
Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang thuật rằng, ngài có gặp những Tỳ-kheo thực
hành theo giáo thuyết của Đề-bà Đạt-đa tại ba Tu viện ở Karṇasuvarna. Tuy nhiên,
theo tất cả kinh luật của các truyền thống Phật giáo, một thời gian ngắn sau
khi Đề-bà Đạt-đa cùng 500 Tỳ-kheo tách phân khỏi cộng đồng Tỳ-kheo được Đức Thế
Tôn hướng dẫn, Trưởng lão Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, vâng lời Đức Thế Tôn,
đã đến tu viện 500 Tỳ-kheo này đang trú ngụ và hướng dẫn họ trở về với Chánh
pháp. Sau đó, Đề-bà Đạt-đa vì tức giận, ngã bệnh, mà qua đời. Và theo Giáo sư
Ed. J. Thomas, trong The life of Buddha as Legend and History, thật khó
có thể, một cộng đồng Tỳ-kheo, những người theo Đề-bà Đạt-đa, tồn tại hơn 1.000
năm (từ khi Đức Thế Tôn còn tại thế đến lúc các nhà chiêm bái Trung Quốc đến Ấn
Độ) mà tất cả các nguồn sử liệu khác toàn hoàn không đề cập đến.
(15) André Bareau, Các
bộ phái Phật giáo Tiểu thừa, Pháp Hiền dịch, NXB. Tôn giáo, năm 2003, tr.
54-5.
(16) N. Dutt, Buddhist Sects in India,
Delhi: Motilal
Banarsidass, 1998, tr. 31.
(17) J. Nattier &
Charles S. Presbish, “Mahāsāṃghika Origins:
the Beginning of Buddhist Sectarianism” trong Buddhism Critical Concepts in Religious Studies, tập. II, do Paul
William chủ biên, London & New York: NXB. Routledge, 2005, tr. 201.
(18) Sđd., tr. 201.
(19) N. Dutt, như trên,
tr. 31.
(20) J. Nattier &
Charles S. Presbish, như trên, tr. 199-228.
(21) André Bareau, như
trên, tr. 26.
(22) Đại chánh, số 1465,
tr. 900b 20-28; và tham khảo đoạn dịch sang tiếng Anh từ tiếng Pháp của É.
Lamotte, trong History of Indian Buddhism, như trên, tr. 172.
(23) Các giáo sư: Andre
Bareau, W. Pachow, Hofinger, Erich Frauwallner, và Gustav Roth.
Tài
liệu tham khảo
1. Luật Tứ phần, quyển 6,
Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng dịch Việt, Tỳ-kheo Thích Nguyên
Chứng hiệu đính và chú thích, đăng trên trang mạng Phật Việt.
2. Luật Ma-ha Tăng-kỳ, HT.Thích Phước Sơn dịch Việt, đăng trên trang mạng Quảng Đức.
3. Tiểu phẩm (Cullavagga), Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch Việt, đăng trên trang mạng Budsas .
4. Dị bộ tông luân luận, HT.Thích Trí Quang dịch Việt, đăng trên trang mạng Đạo Phật Ngày nay.
5. The Great Chronicle of Sri
Lanka (Mahāvaṃsa), Ananda W. P. Guruge dịch, Colombo: S. Godage & Brothers, 2006.
6.
Étienne Lamotte, History of Indian Buddhism, translated from the French
by Sara Webb-Boin, Louvaun-la-neuve, 1988.
7. N. Dutt, Buddhist Sects in India, Delhi:
Motilal Banarsidass, 1998.
8. Studies of Buddhism, G.
Prasad chủ biên, Delhi:
NXB. Bharatiya Kala Prakashan, 2006.
9. J. Nattier & Charles S. Presbish, “Mahāsāṃghika Origins: the
Beginning of Buddhist Sectarianism” trong Buddhism Critical Concepts in Religious Studies, tập. II,
do Paul William chủ biên, London & New York: NXB.
Routledge, 2005.
Người gửi bài: Chân Diệu Mỹ
Discussion about this post