Với sự trợ giúp tích cực của người Pháp thông qua giám mục Pigneau de Béhaine tức Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh từ Xiêm La trở về nước chiếm lại Gia Định rồi tiến chiếm Bình Thuận, Diên Khánh, Phú Yên, Quy Nhơn và Phú Xuân. Đến mùa Xuân năm 1802 Nguyễn Ánh chiếm được Thăng Long. Và sau đó trở về Phú Xuân, lập kinh đô mới đặt niên hiệu là Gia Long năm thứ nhất, sai sứ sang nhà Thanh xin phong vương. Việc triều chính đầu tiên cuả vua Gia Long là trả thù nhà Tây Sơn. Dưới đây là câu chuyện báo thù của vua Gia Long được phỏng theo sử liệu thời Tây Sơn và tài liệu của giáo sĩ De La Bissachère, người có dịp chứng kiến buổi hành hình trong cuốn ký sự “Relation sur le Tonkin et la Cochinchine” xuất bản năm 1807, mô tả lại cuộc hành hình đẫm máu tại Phú Xuân vào mùa Thu năm 1802.
Vào ngày trăng tròn tháng Bảy năm Nhâm Tuất 1802 tại kinh thành Phú Xuân, mới tờ mờ sáng, sương hãy còn bay lãng đãng trên mặt nước sông Hương thì tiếng súng thần công nổ vang trời báo hiệu cho toàn dân kinh thành biết hôm nay vua mở hội hành hình nhà Tây Sơn: xử tội tướng Trần Quang Diệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân, mẹ Trần Quang Diệu và Trần Bích Xuân, con gái của đôi tướng tài. Dân chúng từ Quy Nhơn Bình Định đến Phú Xuân ai nấy đều biết rõ đôi danh tướng Trần Quang Diệu – Bùi Thị Xuân đã bao lần xông pha chiến trường, chiến đấu dũng cảm, vào sinh ra tử từ Nam ra Bắc giúp vua Quang Trung thống nhất sơn hà.
Dọc đường bên dòng sông Hương dẫn đến pháp trường An Hoà, ngoại ô kinh thành Phú Xuân, nhà vua cho bố trí binh lính dày đặc, chung quanh pháp trường dân chúng tập trung đông đảo để được nhìn lần cuối hai vị tướng quả cảm anh hùng đã trở thành niềm kiêu hãnh của toàn dân.
Trời đã sáng, mặt trời lên cao nhưng bị che khuất bởi những vầng mây đen trở nên u ám thê lương. Một bầu không khí nghiêm trang hồi hộp của hàng ngàn người đang chờ đợi chung quanh pháp trường để chứng kiến một cảnh tượng ghê gớm chưa từng xảy ra trước đây trong lịch sử nước nhà.
Từ xa tiếng vó ngựa dồn dập cùng những hồi chiêng trống báo hiệu vua Gia Long và đoàn tuỳ tùng đến! Vua cùng đoàn tuỳ tùng ngồi trên các xe song mã dừng trước khán đài. Ngoài vua, người ta còn thấy các quan ngự sử, thượng thư cùng các phu nhân. Trong số những người nước ngoài đến tham dự có sự hiện diện của giám mục Eyot, giáo sĩ Le Labouse, giáo sĩ De La Bissachère, hai ông Dayot và Vannier thuyền trưởng hai chiến thuyền Pháp và hai viên sĩ quan bộ binh mang quân hàm Đại Tá quân đội viễn chinh Pháp phò tá quân lực của Nguyễn Ánh.
Sau đó đội hành quyết dẫn bốn người ra trình diện vua mà họ gọi là bốn tên tử tội: mẹ Trần Quang Diệu, tướng Trần Quang Diệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân và cô con gái 15 tuổi Trần Bích Xuân. Mẹ Trần Quang Diệu, tuy gìa nhưng nét mặt vẫn quắc thước, còn nữ tướng Bùi Thị Xuân, tuy mặc quần áo vải thô bó sát thân người, chân bị còng dây xích bước từng bước ngắn rất khó nhọc nhưng vẫn toát ra một vẻ hiên ngang oai dũng.
Trước giờ hành quyết vua Gia Long hạ lệnh:
– Trần Quang Diệu. Ngươi có điều gì muốn nói trước khi chết không?
Trần Quang Diệu đứng thẳng, nghiêm trang nói:
-Mẹ ta nay tuổi già sức yếu, một đời người chẳng hại ai, nay đã ngoài tám mươi. Xin ngươi hãy tha chết cho mẹ ta.
Vua Gia Long đưa mắt nhìn mẹ Trần Quang Diệu rồi cười nói:
– Hôm nay là ngày Rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân, Ta mở lượng khoan hồng tha cho mẹ ngươi được sống nhưng nhà ngươi phải chết không toàn thây. Quân đâu, mang tên Trần Quang Diệu ra xử lăng trì. [3]
Mẹ Trần Quang Diệu nghe vậy đứng thẳng người giơ tay chỉ thẳng vào mặt vua Gia Long mắng:
– Thằng tiểu nhân ! Giết gì thì cứ giết việc gì phải phanh thây xẻ thịt. Ta quyết không vì sự sống của thân già này mà để cho các con ta chịu nhục.
Nói xong tự mình dập đầu vào bậc tam cấp tự tử mà chết.
Bùi Thị Xuân đau đớn than rằng:
– Mẹ ơi! Sao mẹ lại huỷ hoại thân mình như thế làm chúng con đau lòng!
Ba hồi trống dục nổi lên, ngoài sân đội hành quyết bắt đầu hành hình tướng Trần Quang Diệu. Một tên chém đầu ông lìa khỏi cổ, tên thứ hai chém ngang hông đứt làm hai đoạn rồi chúng tiếp tục lóc da xẻ thịt!
Bùi Thị Xuân tức giận chỉ vào mặt vua Gia Long hét lớn:
– Nguyễn Ánh! Ngươi là kẻ tiểu nhân hèn hạ, đã làm điều dã man tàn bạo, đào mộ Tiên đế ta (tức vua Quang Trung), dù ngươi là kẻ chiến thắng nhưng mai này ai dám bảo ngươi là kẻ anh hùng.
Vua Gia Long cười mỉa hỏi:
– Ngươi thử cho ta biết, ta và Nguyễn Huệ, ai hơn ai?
– Luận về tài, ngươi làm sao so sánh được, một bên là mãnh hổ một bên là cẩu hèn. Tiên đế ta trăm trận trăm thắng từ Nam ra Bắc, đại phá quân Thanh lấy lại cơ đồ chỉ trong năm ngày. Còn ngươi cầu cứu quân ngoại bang cả vạn binh, chỉ một đêm bị quân ta đánh tan rã.
Vua Gia Long giận run người nhưng vẫn làm ra vẻ bình tĩnh hỏi:
– Còn nói về đức thì thế nào?
Bùi Thị Xuân đáp:
– Về đức, ngươi cũng không đáng để so sánh. Tiên đế ta lấy nhân nghĩa đối xử với các tôi nhà ngươi. Còn ngươi dùng tâm của kẻ tiểu nhân hèn hạ đối xử với các nghĩa sĩ. Tiên đế ta đánh đổ hai nhà Trịnh, Nguyễn là đem an lạc và đời sống ấm no cho sơn hà xã tắc. Còn ngươi rước quân ngoại bang về tàn sát lương dân, bắt được các sĩ tướng của Tiên đế ta thì xử tru di tam tộc. Tiên đế ta chết đã mười năm, ngươi còn đào mả lấy xương cốt làm tội.
Bùi Thị Xuân vừa dứt lời, các tướng hầu cạnh vua đều rút gươm khỏi vỏ. Vua Gia Long ngăn lại bảo:
– Đừng giết ngay, ta muốn xem gan nó lớn cỡ nào. Quân đâu! đem con gái Bùi Thị Xuân ra cho voi giày trước mặt nó.
Bỗng một người con gái tuổi thanh xuân từ cánh trái khán đài tiến đến cạnh vua nói lớn:
– Xin Hoàng huynh hãy tha tội chết cho con gái Bùi Thị Xuân, nó còn trẻ dại đâu có tội tình gì?
Mọi người giật mình quay qua nhìn, thì ra là Quận Chúa Ngọc Du. Vua Gia Long lấy làm ngạc nhiên hỏi Ngọc Du:
– Trong trận đánh thành Bình Định, Trần Quang Diệu đã giết chết Võ Tánh chồng của em, sao em còn xin tha cho con gái của nó?
Ngọc Du trả lời:
– Thưa Hoàng Huynh. Ngày trước trong trận đánh thành Qui Nhơn, chồng em không giữ nổi thành nên đã tự vẫn và Bùi Thị Xuân đã tha mạng cho mẹ con em nên em mới còn sống đến ngày nay. Xin Hoàng huynh nghĩ tình ấy mà tha tội cho con gái Bà.
Vua Gia Long lắc đầu, đoạn quay sang bọn quân sĩ quát lớn:
– Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Quân đâu, hãy mang con gái Bùi Thị Xuân ra hành hình!
Thế là một hồi trống dục lại nổi lên. Đội hành quyết áp tải người con gái tên Trần Bích Xuân ra sân lột hết y phục một cách dã man tàn bạo. Một võ sĩ khác dẫn một con voi to lớn bước chậm rãi đến gần nàng. Khuôn mặt nàng biến sắc, Bích Xuân hoảng sợ nhìn về phía mẹ kêu thất thanh:
– Mẹ ơi cứu con với!
Bùi thị Xuân nghiêm nét mặt hét lớn:
– Con nhà tướng phải chết anh dũng! Hãy hiên ngang chết cùng cha mẹ còn hơn là sống với đám tiểu nhân bán nước!
Bùi thị Xuân vừa dứt lời, voi đã dùng vòi quấn lấy con gái Bà tung lên không trung. Khi nàng rơi xuống cùng với tiếng hét hãi hùng, voi đưa cặp ngà ra hứng, ngà voi nhọn xuyên qua người, Bích Xuân quằn quại trên miệng voi mà chết. Voi quăng xác nàng xuống đất rồi dùng chân phải giày đạp lên. Xót thương thay người con gái trẻ chết nát tan thân thể. Mọi người mục kích đều rùng mình rơi nước mắt!
Nữ tướng Bùi Thị Xuân lặng người đớn đau. Bà kéo lê đôi chân đã bị xiềng đến gần con voi vừa giày đạp con gái mình. Khí sắc của bà vẫn hồng hào, hiên ngang như khi lâm trận. Tên điều khiển voi thúc voi quấn lấy bà. Voi vừa vươn vòi, bà trợn mắt hét lên một tiếng như sấm nổ, voi thất kinh co vòi thụt lui. Tên nài voi lại thúc voi, voi bước tới thấy bà lại thối lui. Tên nài không biết tính sao, lấy gậy đập vào đầu voi, voi thét lên một tiếng hất tên nài xuống đất rồi cắm đầu chạy ra khỏi pháp trường. Đội quân hành quyết lại đưa voi khác vào thay, nhưng con nào cũng thế, khi đến gần nghe nữ tướng hét lên đều co vòi quay đầu bỏ chạy. Thì ra chúng đã bị khuất phục khi nhận ra Bà đã cùng chúng bao phen vào sinh ra tử.
Ba hồi trống dục dứt tiếng. Cả pháp trường im phăng phắc đến nghẹt thở. Nguyễn Ánh muốn báo thù nên cho voi dẫm nát thân thể Bà, nhưng đã thất bại, tức giận quát lớn:
– Nếu voi không giết nổi người đàn bà này thì cho ngũ mã phanh thây [2]. Nhất định phải cho nó chết không toàn thây!
Ba hồi trống dục lại vang lên. Năm tên nài ngựa trong đội hành quyết dẫn năm con ngựa khỏe ra pháp trường, chúng dùng dây buộc mỗi con vào đầu, vào tay, vào chân nữ tướng xếp thành hình ngôi sao. Nữ tướng vẫn bình tĩnh, nét mặt không thay đổi và không tỏ chút sợ hãi nào. Tiếng trống tiềp tục dồn dập trong bầu không khí thê lương. Tên đội trưởng ra dấu hiệu cho năm tên nài cùng quất roi cho ngựa chạy về năm hướng làm thân xác Bà bị xé nhiều mảnh, máu me lai láng trông rất kinh hãi. Ai nấy đều xúc động, mặt đầm đìa nước mắt.
Thương thay cho nữ tướng tài ba, dũng cảm! một đời hy sinh cho sơn hà xã tắc, đã phải chết không toàn thây. Riêng Gia Long Nguyễn Ánh tỏ vẻ hân hoan sau khi đã tận diệt toàn gia đình tướng Trần Quang Diệu. Nguyễn Ánh đâu có biết cái chết hiên ngang của Bà đã trở thành một hình ảnh vô cùng oai hùng ở pháp trường, nó đã in sâu vào tâm khảm người dân từ Bình Định đến Phú Xuân. Họ vô cùng cảm kích trước trước sự anh dũng của nữ tướng khi chứng kiến những giây phút cuối cùng đầy khí phách, kiên cường của Bà và hình ảnh bất diệt này vẫn còn vang vọng đến ngày nay.
Xa xa có tiếng chuông chùa ngân vang vọng lại. Hôm nay các chùa đang thiết lễ Vu Lan, ngày báo hiếu cùng là ngày xá tội vong nhân. Chư Tăng Ni đang cầu nguyện cho các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn chiến tranh được vãng sinh về miền lạc cảnh, cho chúng sinh khắp mọi miền sớm được giải thoát khỏi cảnh khổ ải trầm luân, người người sống an vui hạnh phúc, không hận thù chia rẽ.
Tịnh Thuỷ (Tâm Linh)
Mùa Vu Lan 2010
Chú thích:
[1] Bùi Thị Xuân, người ở thôn Xuân Hòa, phía Nam sông Côn, thuộc tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Có thể nói, trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ Đô đốc Bùi Thị Xuân, một nữ tướng văn võ toàn tài, vợ danh tướng Trần Quang Diệu, quê làng Xuân Hòa, huyện Bình Khê (nay là Phú Xuân, thị trấn Phú Phong huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Bà là vị anh thư đã cùng chồng hết lòng hết sức giúp nghĩa quân Tây Sơn lập nên một triều đại Tây Sơn. Năm 1778, Bùi Thị Xuân được Nhà Tây Sơn phong làm Đô đốc. Bà cùng chồng phò tá Nguyễn Huệ tiến ra Bắc đánh đổ Lê – Trịnh, đặt cơ sở vững chắc cho sự nghiệp thống nhất đất nước sau này. Đội tướng binh do bà huấn luyện đã góp phần quan trọng vào chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa lịch sử xuân Kỷ Dậu 1789.
[2] Có sách nói Bà bị xử hình điểm thiên đăng (dùng vải nhúng sáp nóng đem quấn chung quanh cơ thể, rồi cột vào trụ sắt xong châm lửa đốt)
[3] Tùng xẻo (còn gọi là lăng trì hay xử bá đao) (tiếng Hoa giản thể: 凌迟, tiếng Hoa phồn thể: 凌遲, bính âm: língchí) là một trong những hình phạt tàn khốc và dã man được dùng rộng rãi ở Trung Quốc thời cổ xưa từ năm 900 cho đến khi chính thức bãi bỏ vào năm 1905. Từ ngữ trong tiếng Hán “lăng trì” có nghĩa lấn lên một cách chậm chạp. Đây cũng là hình thức ghê rợn vào bậc nhất trong các án tử hình, phạm nhân sẽ vô cùng đau đớn vì không được chết nhanh chóng, có trường hợp xẻo tróc nửa phần thịt trên cơ thể mà phạm nhân vẫn còn giãy dụa gào thét. Mức độ tàn bạo của nó thì không có gì có thể sánh nổi; ngoài việc xẻo từng miếng thịt trên người tử tội, đao phủ còn có nhiệm vụ là giữ cho tử tội không được chết một cách nhanh chóng, tức là sau bao nhiêu nhát xẻo thì nạn nhân mới được chết. (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Discussion about this post