HƯỚNG VỀ PHẬT ĐẢN
QUA KÍNH THÁNH CẦU (K. TRUNG BỘ I, 26)
MẶC PHƯƠNG TỬ.
Đức Phật hay Đạo Phật, mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh, và hiện hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người, và muôn loài một cách đích thực hơn bao giờ hết, cho dù từ ngàn xưa hay cả đến ngàn sau.
Hằng năm, giao thời Xuân-Hạ, mùa Phật Đản đang tới gần khắp nơi trên hành tinh nhân loại, đối với những ai có phát khởi lòng kính tin hướng tâm đến tinh thần giáo lý của Đức Phật, đều có những giây phút tư duy nghĩ về ngày Đức Phật Đản Sinh.
Một Đức Phật lịch sử, đã thật sự có mặt, và tận mắt thấy biết trong cuộc sống lạc thú nơi thế đời, nhưng lại có sự tu tập từ bỏ các dục, có sự thành tựu chứng đắc vô thượng an ổn, không còn bị chi phối các khổ nạn triền ách thế gian, có hành đạo giáo hóa chúng sanh, và cuối cùng có tịch diệt niết bàn viên mãn.
Đức Phật Đản Sinh và tịch diệt cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Thế nhưng, toàn bộ tinh thần nội dung giáo lý thâm diệu của Ngài vẫn luôn khẳng định sự tồn tại một cách hùng hồn bất tuyệt, trong sáng và hòa nhập qua từng dòng chảy an bình vào cuộc sống xã hội con người, muôn vật trong mỗi thời đại từ ngàn xưa, và mãi cho đến tận ngàn sau.
Chúng ta nghĩ rằng; nếu một xã hội phát triển tốt, thì cũng chính do sự nhận thức đúng đắn lành mạnh từ phía của con người phát triển. Song song với sự phát triển ấy, Tâm Từ, Vô Tham cùng với Giới-Định-Tuệ cũng phải được phát triển trong hàng ngũ người đệ tử Phật có thể hiện qua sự tu tập nhu nhuyễn, thuần tịnh để dẫn đến một trạng thái ;
“Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát”.
Do đó, sự xuất hiện của Đức Phật có hai mục đích là ; giữ sự im lặng của bậc Thánh (tu thiền) và trình bày sự Khổ, Khổ Tập cũng như con đường đưa đến Diệt Khổ. Phật dạy :
“ Nầy các tỷ kheo, có hai sự tầm cầu nầy, Thánh cầu và phi Thánh cầu”. Với tuệ quán thanh tịnh siêu nhân, Đức Phật đã thấy rõ “Những gì tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già…, tự mình bị bệnh…, tự mình bị chết…, sầu…, ô nhiễm… lại đi tìm cầu cái bị ô nhiễm.”
Sự thâm sâu qua lời dạy trên, tất nhiên không phải vượt ra ngoài cuộc sống nầy mà có được, mà chính nơi sự sâu kính trong lòng cuộc sống mới hiển bày diệu lý thâm sâu. Nếu như ngày nào sự chấp thủ còn có mặt “Đây là tôi, đây là của tôi…” thì mọi vấn đề vẫn còn là sự nắm giữ cái bị sanh, già…ô nhiễm. Bởi vì nguồn gốc của đau khổ là tham và chấp thủ (ngã và ngã sở). Cường độ giao động trong dòng tâm thức con người nói riêng và nói chung là cả một cộng đồng xã hội nhân quần, khuynh hướng phát triển như thế nào về Thiện hay Bất Thiện, Đạo đức hay phi Đạo đức, Giáo dục, Nhân- Nghĩa hay phi Giáo Dục và Nhân Nghĩa. v.v…
Sự lành mạnh hóa sẽ đem lại hưng thịnh sung mãn hạnh phúc và bình an, còn như thấp kém, nghèo nàn bởi do biến chất tha hóa trong tư duy Dục thủ, Kiến thủ… thì mọi biến động bất an sẽ phát sinh cho chính mình và kẻ khác. Đồng thời, mọi việc sẽ manh nha nhiều ác xấu hơn trong cuộc sống con người. Thấy rõ nguyên nhân ấy, Đức Phật đã xác chứng qua lời dạy:
“Có người tự mình bị sanh…già…bệnh…chết, sầu bi, ô nhiễm…Nầy các tỳ kheo, những chấp thủ ấy, Người ấy lại nắm giữ tham đắm, mê say chúng…Như vậy gọi là phi Thánh cầu.” Vì những sự việc trên có liên hệ tích cực đến thế giới ngũ thủ uẩn. Như vậy, đồng nghĩa với đau khổ, sinh diệt. trầm luân.
Chúng ta thấy, từ một tâm thức náo động và não hại, lại cộng thêm vào những nhân tố giao động và não hại khác, từng khoảnh khắc ý niệm vô thường lại thêm vào trong khoảnh khác vô thường kế tiếp, sự đấu tranh tàn hại do tham đắm, chấp thủ và ô nhiễm gây ra, lại cộng thêm vào những ý niệm đồng tình với những đấu tranh, phẫn hận và những tư duy tàn hại khác… Chính vì vậy, đã tạo nên dòng biến động cường độ cho đau khổ và luân chuyển trong biển sanh tử.
Từ nhận thức trên, Đức Phật đã mở ra một sinh lộ để đến thế giới an bình, đó là một hành động có ý thức giác ngộ ngang qua hiện tượng các pháp rằng :
“Nầy các tỳ kheo, thế nào là Thánh cầu ? Ở đây, có người tự mình bị sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, ô nhiễm. Sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sanh, già, bệnh, chết… Tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn. Nầy các tỳ kheo, như vậy gọi là Thánh cầu.”
Đức Phật hay Đạo Phật mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người và muôn loài một cách đích thực hơn bao giờ hết, cho dù từ ngàn xưa hay cả đến ngàn sau. Nếu như sự “bị sanh…đến ô nhiễm” tác hại do các chất độc khí tạo ra từ không gian hay từ dòng nước, thì môi trường sống sẽ bị dẫn đến tàn hại, nhiệt não, bệnh tật cho cả một vùng sinh thái.
Nhưng ở đây, sự biến động tàn hại nói trên, nó chỉ là hệ quả của ngọn ngành. Điều mà chúng ta muốn nói đến là phải thấy từ nguồn, từ buổi ban đầu, đó là sự nhiễm hại tàn phá manh nha do những ý niệm tà kiến, những kiến chấp do dục tham cuồng nhiệt, những ác tư duy khát vọng mơ hồ, những tư kiến ích kỷ thấp kém đã bị chìm sâu vào lạc thú thường tình… Thì đây, sẽ tạo thành một vòng xoáy, một trục quay có sức công phá cực kỳ nguy hiểm cho thế giới loài người. Đã có biết bao sự bất ổn, mất thăng bằng từ môi trường cho đến tâm sinh lý, cảm tính, nhân tính, đạo đức từ phía con người.
Tất cả đều do đắm đuối mê lầm mãi miết của sự đi tìm cầu cái “bị sanh… bị ô nhiễm”. Trái lại, tự trong mỗi con người chúng ta ý thức được giá trị sự sống hay cuộc sống một cách đúng đắn cũng như về mọi sự vật hiện tượng (nội giới và ngoại giới), thấy rằng; bản chất của nó không ngừng biến động, luôn chuyển động từ một trạng thái nầy đến một trạng thái khác. Thời như vậy, sẽ dẫn đến ý niệm vô tranh, không nhiệt não, định tĩnh, tâm hiền thiện tươi mát. Chính đây là sự mạch nguồn cho đạo lộ an ổn khỏi các khổ ách.
Có ba giai đoạn của Tâm:
-. Sanh Tâm: giai đoạn nầy là thời điểm giao tiếp giữa Căn và Trần.
-. Trụ Tâm : Giai đoạn nầy là hệ quả qua quá trình giao tiếp để xuất hiện một dòng lực tham ái, chấp thủ, hữu.
-. Diệt Tâm : Đến giai đoạn nầy, nói lên công năng vận dụng ý thức trong quá trình có tư duy tu tập để được hữu phần đoạn diệt, sanh nhàm chán, ly tham.
Trải qua ba giai đoạn trên, chúng ta thấy cái nhìn đặc biệt của bậc đạo sư về thiền tư, thiền quán, giúp cho chúng ta có dịp nhìn lại sự dong ruổi của tâm theo dòng luân chuyển bất định trong cõi tử sanh. Trong một bài kinh khác, Đức Phật đề cập đến một trạng thái trói buộc do dục hỷ sinh ra, và cũng chính đoạn trừ mọi dục hỷ mà một hành giả mới được thong dong tịnh lạc, Phật dạy :
“Chính HỶ trói buộc đời
Tầm cầu dẫn hành đời
Do đoạn trừ KHÁT ÁI
Mới được gọi NIẾT BÀN”
(Kinh Tương Ưng I. 39).
Điều mà chúng ta thấy ở giáo lý duyên khởi (12 nhân duyên), đó là lý do vì sao Đức Phật giải thích về con người lại phải có mặt trong cuộc đời nầy. Và vì sao Đức Phật lại do dự không muốn trình bày “Pháp” mà Ngài đã trải nghiệm và sau khi thực chứng vô thượng bồ đề, Phật dạy:
“Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái lạc ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý (y tánh duyên khởi pháp), thật khó mà thấy được tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y đều được từ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt, Niết bàn”.
Theo lý duyên khởi, tương quan tương duyên với nhau mà các pháp khởi lên, chuyển biến và đoạn diệt. Do đó, thiền tư thiền quán lại đóng một vai trò quan trọng trong việc tu tập để chuyển hóa. Nếu như không nhận thức được rằng: “Tự mình bị sanh… lại đi tìm cầu cái bị sanh…” chính ở đây, vị ấy không thấy lý duyên khởi của vạn hữu. Và trái lại là đoạn trừ mọi kiết sử, thấy được định lý y tánh duyên khởi pháp, thực tập, dẫn đến một trạng thái tịch tịnh Niết bàn. Do sự chứng ngộ và thành tựu trên, bậc đạo sư đã nói lên lời kệ:
“Hết thảy pháp không nhiễm
Hết thảy pháp xã ly
Ta sống chân giải thoá
Đoạn tận mọi khát ái…”
Đến đây, Đức Phật cho biết thêm về sự cột trói đối với vị đang tu tập, chính là năm dục tăng trưởng (sắc, thinh, hương vị, xúc) khi được khởi lên “ khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục hấp dẫn… không thấy sự nguy hại của chúng, không rõ sự xuất ly khỏi chúng mà thọ dụng chúng… Các người đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa. Thời như vậy, vị ấy đã bị ác ma xử như ý muốn, không vượt khỏi tầm mắt của ác ma”. Một điều nữa, mà chúng ta cần phải thấy ở lời dạy qua bài kinh nầy là:
-. Nếu như vị có tu tập, không sanh tâm tham đắm, không bị sự cấu nhiễm là vấn đề cần thiết, không để lại những vết tích trên con đường giải thoát, như cánh chim bay vào hư không, đó là kết quả của người tu theo Phật.
Cho nên năm chi thiền Sắc giới (Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm) và Tứ thiền Vô Sắc giới, trú và Diệt Thọ Tưởng, thấy với trí tuệ, các lậu hoặc không còn. Chính ở đây là cứ địa, là nơi trú ẩn an ổn, bấy giờ hành giả thật sự vượt khỏi tầm mắt của ác ma, vượt thoát khỏi những ý lực của ác ma, vị ấy đã làm cho ác ma mù mắt.
Với những ý nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu nôm na rằng: Do nhiếp tâm chánh niệm tĩnh giác, rõ biết được Khổ và nguyên nhân của Khổ. Đồng thời, tìm cầu đạo lộ an ổn vô thượng, vượt thoát khỏi các triền ách, chấm dứt mọi khổ pháp, thành tựu vô thượng thiện pháp, giải thoát ( Diệt và Đạo).
Với kinh nghiệm bản thân của Đức Phật, từ khi còn là một đạo sĩ lang thang tầm đạo khắp núi rừng hang đọng, đến khi chứng đạt vô thượng bồ đề là một quá trình tu tập thể nghiệm chơn lý. Sau đó, Đức Phật đã thật sự công bố chánh pháp vào đời :
“Giống lên trống bất tử
Trong thế giới mù lòa…”
Ta thấy, Đức Phật không dấu lại những gì trong bàn tay của một người thầy, Ngài chỉ dạy sự tu tập như chính Ngài đã trải nghiệm.
Hôm nay, với một nghĩa cử mà tất cả chúng ta cùng nghĩ về ngày Đức Phật Đản sinh. Và qua lời dạy của Ngài, trong tinh thần giác ngộ tu tập và giải thoát, với sự hướng tâm chánh niệm ấy, Đức Phật luôn đản sinh trong cuộc đời, và Đức Phật hằng đản sinh từng ý niệm tĩnh thức trong mỗi chúng ta ngay giây phút hiện tại.
MẶC PHƯƠNG TỬ.
Discussion about this post