HÔN NHÂN, HẠN CHẾ SANH ĐẺ VÀ CÁI CHẾT
Hòa thượng K. Sri Dhammananda – Thích Tâm Quang dịch Việt – California, Hoa Kỳ, 1997
Nguyên tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987
QUAN
ĐIỂM PHẬT GIÁO VÀ HÔN NHÂN
Với
Phật Giáo, hôn nhân được coi là một vấn đề riêng tư,
cá nhân và không phải là một bổn phận tôn giáo.
Hôn
nhân là một tập quán xã hội, một sự xây dựng tạo nên
bởi con người cho sự sung sướng và hạnh phúc của mình,
để phân biệt xã hội loài người với đời sống loài vật,
và để duy trì trật tự và hòa hợp trong tiến trình sinh
sôi nẩy nở. Tuy kinh sách Phật Giáo không đề cập đến
vấn đề một vợ một chồng hay đa thê, người cư sĩ Phật
Giáo vẫn được khuyên dạy là nên giới hạn một vợ mà
thôi. Đức Phật không đặt để luật lệ về đời sống
vợ chồng nhưng Ngài đã cho các lời khuyên cần thiết về
hạnh phúc lứa đôi. Suy luận rộng ra qua những bài pháp của
Ngài, là nên khéo léo, trung thành với người vợ và không
nên đam mê nhục dục, chạy theo đàn bà. Đức Phật nhận
định một trong những nguyên chính làm con người suy sụp
là do dan díu với người đàn bà khác (Kinh Parabhava). Người
đàn ông biết rõ những nỗi khó khăn, gian nan và đau khổ
mà mình sẽ phải chịu đựng với chỉ một vợ và một mái
gia đình. Những điều đau khổ ấy còn sẽ được nhân lên
khi phải đối đầu với tai ương hoạn nạn. Hiểu biết bản
chất yếu đuối của con người, Đức Phật khuyên dạy tín
đồ qua một trong các giới không được gian dâm hay đồi
bại về nhục dục.
Quan
điểm Phật Giáo về hôn nhân rất phóng khoáng: với Phật
Giáo, hôn nhân là một vấn đề hoàn toàn riêng tư và cá
nhân, và không phải là một bổn phận đạo giáo. Không có
luật lệ tôn giáo trong Phật Giáo bắt buộc một người phải
lấy vợ lấy chồng, giữ độc thân hay sống một cuộc đời
hoàn toàn trong trắng. Cũng không chỗ nào nói người Phật
Tử bắt buộc phải sanh con, hay phải hạn chế số con. Phật
Giáo cho cá nhân tự do quyết định tất cả những vấn đề
thuộc hôn nhân. Có thể hỏi tại sao các Thầy Tu lại không
lập gia đình vì không có luật lệ nào chống lại hôn nhân
cả. Lý do rõ ràng là để phục vụ nhân loại nên các nhà
sư đã chọn đường lối sống trong đó gồm có sống độc
thân. Những ai từ bỏ cuộc đời trần tục tự nguyện sống
cuộc đời không vợ con để tránh những ràng buộc thế gian
hầu duy trì được an lạc nội tâm, và hiến trọn đời mình
phục vụ người khác đạt được giải thoát tinh thần. Mặc
dù các nhà sư Phật Giáo không chủ tọa các lễ hôn phối
nhưng các nhà họ vẫn hướng dẫn các nghi thức tôn giáo
để cầu phước cho các cặp vợ chồng.
LY
DỊ
Ly
thân hay ly dị không bị cấm trong Phật Giáo, tuy sự cần
thiết phải ly dị sẽ rất hiếm xảy ra nếu những huấn
thị của Đức Phật được triệt để thi hành. Vợ chồng
phải được tự do xa nhau nếu họ thực sự không thể cùng
nhau chung sống được. Xa nhau tốt hơn là phải cùng nhau chung
sống một cuộc đời kéo dài khổ sở. Đi xa hơn nữa, Đức
Phật khuyên các người già không nên lấy vợ trẻ vì già
và trẻ không cân xứng sẽ tạo nên những khó khăn quá mức,
bất hòa và suy vi (Kinh Parabhava).
Xã
hội lớn mạnh nhờ hệ thống liên hệ bằng những tương
quan xoắn xuýt nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi mối quan hệ
là cả tấm lòng cam kết để hỗ trợ và bảo vệ nhau trong
một nhóm hay cộng đồng. Hôn nhân là một phần rất quan
trọng trong mạng lưới chặt chẽ của những quan hệ hỗ
trợ và bảo vệ lẫn nhau. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp phải
bắt nguồn và phát triển từ sự hiểu biết chứ không phải
từ sự sôi nổi tùy hứng, từ lòng trung thành thực sự chứ
không phải từ lòng ham mê bồng bột. Xây dựng hôn nhân sẽ
tạo một căn bản tốt đẹp cho sự phát triển văn hóa, kết
hợp hài hòa của hai cá nhân được chăm sóc tránh khỏi bị
cô đơn, tước đoạt và sợ hãi. Trong hôn nhân, người phối
ngẫu phát triển vai trò bổ sung sức mạnh và tinh thần can
đảm cho nhau, và mỗi người đồng thể hiện tinh thần nâng
đỡ và cảm kích tài đức của nhau. Không nên có tư tưởng
người đàn ông hơn người đàn bà hay người đàn bà hơn
người đàn ông – người này bổ túc cho người kia, một sự
hùn hạp bình đẳng cùng đem lại đức tính dịu dàng, khoan
dung, điềm tĩnh và hy sinh cho nhau.
PHƯƠNG
PHÁP HẠN CHẾ SANH ĐẺ, PHÁ THAI VÀ TỰ TỬ
Mặc
dù con người có tự do kế hoạch hóa gia đình cho thích nghi
với mình, nhưng không thể nào bào chữa cho việc phá thai
được.
Người
Phật Tử không có lý do nào để chống lại phương pháp hạn
chế sinh đẻ. Họ được tự do sử dụng bất cứ biện pháp
nào cổ xưa hay tân tiến để ngừa thai. Những ai chống lại
hạn chế sinh đẻ nói rằng điều này đi ngược lại luật
của Thượng Đế đã đặt ra, phải hiểu rằng quan điểm
của họ về vấn đề này không hợp lý. Việc được làm
trong phương pháp hạn chế sinh đẻ là ngăn chận sự hình
thành một kiếp sống của một chúng sanh. Không có giết chóc
và không có hành động tạo nghiệp. Nhưng nếu có bất cứ
một hành động nào để phá thai thì hành động này sai quấy
vì đã lấy đi hay phá hoại một mạng sống dù nhìn thấy
được hay không nhìn thấy được. Cho nên việc phá thai không
thể nào bào chữa được.
Theo
lời Phật dạy phải hội đủ năm điều kiện hiện hữu
mới tạo thành một hành động sát sanh, đó là:
1.
Một chúng sinh,
2.
Biết hay nhận thức đó là một chúng sinh,
3.
Có ý giết,
4.
Cố gắng giết, và
5.
Hậu quả là cái chết
Khi
một người đàn bà mang thai, có một chúng sinh trong dạ con,
và việc này hoàn thành điều kiện đầu tiên. Sau một vài
tháng, người đàn bà đó biết có một mạng sống mới trong
mình, và đó điều kiện thứ hai hoàn tất. Nay vì lý do này
hay lý do khác, người đó không muốn có cái bào thai trong
mình. Bà ta bắt đầu tìm đến một nhà phá thai làm công
việc phá thai, và như vậy điều kiện thứ ba hoàn tất. Điều
kiện thứ tư cho thấy cuối cùng, bào thai bị giết vì hành
động này. Vậy tất cả các điều kiện đều hiện hữu.
Như vậy, bà đã vi phạm giới thứ nhất “Không Sát Sanh”,
vì việc này tương đương với việc giết một chúng sanh.
Theo Phật Giáo, không một lý do nào có thể nói là ta được
quyền lấy đi mạng sống của người khác.
Trong
một số trường hợp, người ta cảm thấy bắt buộc phải
làm như vậy vì sự thuận tiện cho chính mình. Nhưng họ không
thể biện minh cho hành động phá thai và dù thế nào đi nữa,
họ cũng phải đối đầu với hậu quả của nghiệp xấu.
Tại một vài quốc gia, phá thai được hợp pháp hóa, nhưng
việc này chỉ để tránh một số khó khăn. Nguyên tắc đạo
lý không bao giờ đầu hàng cho lạc thú của con người mà
luôn đứng về phúc lợi của toàn thể nhân loại.
TỰ
TỬ
Hủy
bỏ mạng sống của chính mình trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng đều sai trái về mặt luân lý và tinh thần. Hủy hoại
mạng sống của mình vì dao động hay thất vọng chỉ gây
thêm nhiều đau khổ. Tự tử là một phương cách hèn nhát
để chấm dứt những khó khăn đời sống của mình. Một
người không thể tự tử nếu có được tâm thanh tịnh và
bình tĩnh. Nếu ta từ bỏ thế giới này với một tâm bối
rối và bất mãn, thì điều chắc khó cho ta được tái sanh
vào hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Tự tử là một hành động
bất thiện hay vụng về vì bị tác động bởi một tâm đầy
tham sân si. Những ai tự tử không biết làm sao đương đầu
với khó khăn, làm sao đối mặt với những sự thật của
đời sống, và làm thế nào để sử dụng tâm ý đúng cách.
Những người như vậy không thể hiểu được bản chất cuộc
sống và những điều kiện trên cõi đời này.
Một
số người hy sinh mạng sống của mình cho điều mà họ nghĩ
là một sự nghiệp tốt đẹp và cao thượng. Họ hủy bỏ
đời mình bằng các phương pháp như tự cống hiến tính mệnh,
tự bắn, hay tuyệt thực. Những hành động như vậy được
coi như gan dạ và can đảm. Tuy nhiên theo quan điểm Phật Giáo,
những hành động như vậy không phải để được tha thứ.
Đức Phật nhấn mạnh rõ ràng rằng các đầu óc muốn tự
kết liễu mạng sống của mình sẽ đưa đến bao khổ đau
hơn nữa.
TẠI
SAO DÂN SỐ TRÊN THẾ GIỚI LẠI GIA TĂNG?
Thật
không có lý do nào để nghĩ rằng chỉ trong khoảng thời gian
này mà dân số trên thế giới mới gia tăng.
Nếu
Phật Tử không tin vào linh hồn được Thượng Đế tạo ra
thì sao họ có thể giải thích về dân số gia tăng trên thế
giới này? Đó là một câu hỏi rất thường được nhiều
người nêu ra hiện nay. Người hỏi câu này thường chấp
nhận rằng chỉ có một thế giới có chúng sinh hiện hữu.
Ta phải nhận rằng đó là một điều hoàn toàn tự nhiên
mà dân số tăng tại những nơi có điều kiện khí hậu tốt,
có cơ sở y khoa, thực phẩm và những phương tiện phòng ngừa
về sinh sản và bảo vệ chúng sinh.
Ta
cũng nên nhận thức rằng không có lý do nào để cho rằng
chỉ trong thời gian này dân số trên thế giới mới gia tăng.
Không có cách nào để so sánh với bất cứ giai đoạn nào
của lịch sử cổ xưa. Có nhiều nền văn minh rộng lớn đã
hiện hữu và mất đi tại Trung Á, Trung Đông, Phi Châu và
Mỹ Châu thời cổ. Không còn lưu lại mảy may nào về những
bản kiểm kê về các nền văn minh đó. Dân số, cũng như
mọi thứ khác trong vũ trụ, cũng chịu ảnh hưởng theo chu
kỳ lên xuống. Trong những chu kỳ nhân số tăng vọt, ta dễ
có khuynh hướng lý luận chống lại thuyết tái sanh trên thế
giới này hay thế giới khác. Với vài nghìn năm qua, không
có bằng chứng nào cho thấy số người tại nơi nào đó trên
thế giới nhiều hơn ngày nay nhưng con số của các chúng sinh
hiện hữu trong nhiều hệ thống trên thế giới khác thật
ra không đếm được. Nếu con số của nhân loại có thể
so sánh với một hạt cát thì con số chúng sanh trong vũ trụ
sẽ giống như số hạt cát nơi tất cả các bờ biển trên
thế giới. Khi đủ nhân duyên, khi được hỗ trợ bởi thiện
nghiệp, một phần ít của con số chúng sinh không đếm được
tái sanh làm người. Sự tiến bộ của y khoa nhất là vào
thế kỷ thứ 19 và 20, giúp cho con người sống lâu hơn và
khoẻ mạnh hơn.
Đó
là một yếu tố góp phần cho dân số gia tăng. Dân số có
thể tăng thêm nhiều hơn nữa trừ phi người ý thức có biện
pháp kiểm soát. Vì lý do đó, công trạng hay trách nhiệm về
sự gia tăng dân số phải quy về cơ sở y khoa và những hoàn
cảnh thuận tiện ngày nay. Công trạng này hay trách nhiệm
không thể quy về một tôn giáo đặc biệt nào hay bất cứ
một nguồn gốc bên ngoài nào cả. Có những người tin rằng
tất cả những sự bất hạnh diễn ra để phá hủy mạng
sống con người đều do Thượng Đế tạo ra để giảm thiểu
dân số trên thế giới. Thay vì mang quá nhiều đau khổ đến
cho những sinh vật do chính Thượng Đế tạo ra, tại sao Thượng
Đế không thể kiểm soát dân số? Tại sao Thượng Đế còn
tạo càng ngày càng nhiều người tại những quốc gia đông
dân mà mà lại thiếu thốn thực phẩm, quần áo, và những
nhu cầu căn bản cần thiết? Những ai tin tưởng Thượng Đế
tạo mọi thứ không thể trả lời thỏa đáng câu hỏi ấy.
Nghèo khổ, bất hạnh, chiến tranh, đói, bệnh, nạn thiếu
thực phẩm không phải do ý muốn của Thượng Đế hay do ý
thích của ma quỷ nào đó, nhưng do các nguyên nhân không mấy
khó để có thể tìm ra được.
SINH
LÝ VÀ TÔN GIÁO
“Phần
dưới của chúng ta vẫn còn là thú vật” (Gandhi)
Sự
đòi hỏi sinh lý là động lực mạnh nhất trong bản chất
con người. Cho nên ảnh hưởng sâu rộng về sức mạnh dục
tính cần phải có biện pháp kiềm chế ngay trong cuộc sống
bình thường. Trường hợp của người sống hướng về tinh
thần, bất cứ ai muốn kiểm soát hoàn toàn tâm ý mình thì
một biện pháp mạnh mẽ rộng lớn của kỷ luật tự giác
rất cần thiết. Một năng lực mạnh mẽ như vậy trong bản
tính của con nguời chỉ có thể bị khuất phục nếu người
có chí biết kiểm soát tư tưởng và thực hành việc tập
trung tâm ý của mình. Sự kiềm chế sức mạnh dục tính khiến
sức mạnh tinh thần phát triển. Nếu ta kiểm soát được
sức mạnh dục tính, ta sẽ có thể kiểm soát nhiều hơn nữa
trên toàn thể bản chất của mình, trên những xúc cảm nhỏ
nhặt hơn.
Độc
thân là một trong những điều cần thiết cho những ai muốn
phát triển tinh thần đến mức toàn hảo. Tuy nhiên, không
bắt buộc mỗi hay mọi người phải độc thân để hành trì
Phật đạo. Lời khuyên của Đức Phật là giữ độc thân
thì thích hợp hơn cho một người muốn trau dồi để đạt
thành quả tinh thần. Với người cư sĩ bình thường, giới
luật là không tà dâm. Mặc dù sự đồi trụy của sức mạnh
nhục dục không phải đều cùng một loại như vậy nhưng
người đồi trụy lúc nào cũng bị đau khổ bởi những phản
ứng xấu cả về vật chất hoặc tinh thần hay cả hai.
Một
cư sĩ Phật Tử cần phải tập kiểm soát bản năng sinh lý
mình ở một mức độ nào đó. Sự đòi hỏi về xác thịt
phải được kiểm soát đúng cách nếu không con người sẽ
có tư cách xấu hơn là con vật khi bị đam mê bởi ái dục.
Hãy xét đến thái độ tính dục của cái mà ta gọi là ”
thấp hơn thú vật” . Cái nào mới thực sự là thấp hơn-
loài vật hay loài người? Loài nào có thái độ về tính dục
qua hành động bình thường và tự nhiên? Còn loài nào thi
đua về đủ mọi kiểu cách bất bình thường và đồi trụy?
Loài vật thường tỏ ra một sinh vật cao hơn, và con người
là kẻ thấp hơn. Và tại sao lại như vậy? Đơn giản là
vì con người với khả năng tinh thần nếu được sử dụng
đúng sẽ giúp cho họ điều khiển những thôi thúc thể xác
của mình, nhưng lại đi dùng sức mạnh tinh thần này vào
tác phong đáng trách và làm cho họ càng lệ thuộc vào những
đòi hỏi ấy. Con người như vậy xem như còn thấp hơn con
vật.
Tổ
tiên chúng ta coi nhẹ phần đòi hỏi sinh lý này. Cha ông chúng
ta hiểu cái đó đã đủ mạnh không cần phải dùng đến
kích thích nào nữa. Nhưng ngày nay chúng ta đã làm nổ tung
nó bằng cả ngàn hình thức quảng cáo, tuyên truyền, triển
lãm đầy kích động và khêu gợi; và chúng ta đã trang bị
cho sức mạnh dục tính bằng chủ trương nói rằng sự kìm
hãm sinh lý là nguy hiểm và có thể gây nên những xáo trộn
tinh thần.
Tuy
nhiên, sự kìm hãm tức là sự kiểm soát tính năng là nguyên
tắc đầu tiên của bất cứ nền văn minh nào. Trong xã hội
văn minh tiên tiến hiện nay, chúng ta đã làm ô nhiễm bầu
không khí giới tính bao quanh chúng ta – mức thôi thúc của
thân tâm muốn được thỏa mãn tình dục thật là to lớn.
Hậu
quả của việc khai thác tình dục này do những kẻ lợi dụng
ẩn nấp trong xã hội tiên tiến, thanh thiếu niên ngày nay
phát huy mạnh mẽ thái độ đối với tình dục làm thành
một mối lo ngại chung. Một thiếu nữ ngây thơ không dám
tự do để đi đây đi đó mà không bị quấy rầy. Mặt khác
phái nữ phải ăn mặc sao để đừng khơi động bản chất
thú tính ẩn tàng nơi đám thanh thiếu niên.
Con
người là con vật duy nhất không có thời gian ngưng hoạt
động giới tính theo tự nhiên để thân xác có thể hồi
phục sinh khí. Bất hạnh thay ngành khai thác thương mại về
bản tính đa dâm nơi con người đã khiến nhân loại hiện
đại bị đặt trước những chướng ngại tiếp diễn không
ngừng của sự kích thích tình dục từ mọi phía. Nhiều chứng
loạn thần kinh trong đời sống ngày nay đều có dấu vết
do tình trạng mất quân bình của những chuyện tình. Người
ta muốn đàn ông chỉ nên có một vợ, nhưng đàn bà lại
được khuyến khích bằng mọi cách để có thể được tự
mình trở nên “quyến rữ” không phải chỉ cho chồng, nhưng
để kích thích nơi mỗi người đàn ông sự đam mê mà xã
hội cấm người đó tham đắm vào. Nhiều xã hội cố gắng
bắt buộc chế độ một vợ một chồng. Như vậy, một người
đàn ông với nhiều nhược điểm vẫn có thể là một người
đạo đức, có nghĩa là người đó vẫn trung thành với một
vợ theo luật định. Sự nguy hiểm nơi đây nằm trong sự
kiện là người biết suy nghĩ thừa thông minh để hiểu rằng
những luật lệ ấy chỉ là nhân tạo và không có căn cứ
nào trên nguyên tắc tiên nghiệm, phổ thông có giá trị nào
cả; những luật lệ ấy có khả năng rơi vào cách suy tư
lầm lẫn giống như tất cả những luật lệ luân thường
đạo lý khác .
Tình
dục nên chỉ cho nhau ở nơi chốn thích hợp trong đời sống
bình thường của con người nhưng chẳng nên kiềm chế mất
sức khỏe mà cũng chẳng nên thái quá không lành mạnh. Nó
lúc nào cũng phải được ý chí kiểm soát, và được xem
như lành mạnh nếu nó được đặt trong bối cảnh thích hợp.
Không
nên coi sinh lý như một chất liệu quan trọng nhất cho hạnh
phúc của đời sống lứa đôi. Những ai quá tham đắm có
thể trở nên nô lệ cho nhục dục mà cuối cùng làm hại
đến tình yêu và sự tương kính trong hôn nhân. Như trong mọi
thứ, ta nên điều độ và có lý trí trong việc đòi hỏi
sinh lý của mình, cân nhắc tình cảm thân thiết và tính khí
lẫn nhau.
Hôn
nhân là một cam kết giữa người đàn ông và người đàn
bà đi vào cuộc sống chung. Kiên nhẫn, khoan dung và hiểu biết
là ba phẩm hạnh chính phải được phát triển và nuôi dưỡng
bởi hai người. Trong khi tình yêu là mối ràng buộc hai người
với nhau thì phần vật chất cần thiết để gia đình được
hạnh phúc nên do người đàn ông lo lắng để vợ chồng chia
sẻ. Tiêu chuẩn cho một cặp hôn phối tốt đẹp phải là
“của chúng ta” chứ không phải là “của anh” hay “của em”. Cặp
vợ chồng tốt đẹp phải “mở rộng” con tim đối với nhau,
và phải kìm hãm sự vui chơi “bí mật”. ôm giấu mãi bí mật
cho riêng mình có thể dẫn đến nghi kỵ và nghi kỵ là yếu
tố có thể phá hoại tình yêu của người hôn phối. Nghi
kỵ nuôi dưỡng hờn ghen, hờn ghen tạo sân hận, sân hận
làm tăng lòng oán ghét, oán ghét biến thành thù địch và
thù địch là nguyên nhân của khổ đau không thể tả kể
cả đổ máu, tự tử và chí đến giết người.
Discussion about this post