HẠNH PHÚC
THEO QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
Thích Trí Giải
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn,
khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau. Loài thú
cũng biết tổ chức theo từng đàn để bảo vệ cho nhau.
Chúng cũng có cảm xúc âu yếm, đùa giỡn bên nhau, đó là
sự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Nhưng chúng không biết tư duy, vì vậy chúng vẫn
là loài thú.
Con người biết tư duy, có tổ chức thành gia đình, làng
xóm, và hình thành cộng đồng xã hội. Con người hành nhiều nghề khác nhau để duy
trì cuộc sống.
Ngoài vấn đề ăn mặc, con người sản sinh ra nhiều nét
văn hóa như nghệ thuật, thẩm mỹ, thơ ca, khoa học…Mục đích của con người nhằm
mưu cầu, tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mỗi người. Ở đây người viết xin trình bày
thế nào là chân hạnh phúc con người cần nên tìm
I. Nhóm
hạnh phúc thứ nhất là con người biết an phận:
Quan niệm của họ là xây dựng một mái ấm gia đình nho
nhỏ, vợ chồng con cái sống an vui, hòa thuận, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Họ
không ước vọng cao sang tiện nghi vật chất; cơm đủ ăn, áo mặc đủ ấm là hạnh
phúc, phần đông họ sống ở nông thôn, làm nghề nông, trồng trọt, chăn nuôi và
các nghề thủ công, có một số ở thành phố là những giáo viên, công chức. Hạnh
phúc của họ quả thật đơn sơ nhưng không kém phần nên thơ lý tưởng:
II. Nhóm
hạnh phúc thứ hai ước vọng cao hơn, phù hợp với xã hội phát triển ngày nay:
Phần lớn họ sống ở thành thị, có chung ước vọng học
hành, có bằng cấp, có địa vị, danh vọng, tiền của, nhà cửa cao sang, huy hoàng
và lộng lẫy, vợ đẹp con xinh, đầy đủ tiện nghi, theo cách nghĩ của họ sống mà
thiếu tiện nghi là không có hạnh phúc. Bởi vì họ là người tạo ra của cải vật
chất nên họ có quyền thụ hưởng, cho rằng đó là hạnh phúc cuộc đời.
III. Nhóm
hạnh phúc thứ ba thanh cao hơn, đó là những vị ẩn sĩ sống nơi non cao, núi thẳm.
Họ muốn ra khỏi chốn hồng trần đầy đau khổ này. Hay là
những người Phật tử hiểu được chân lý của cuộc đời, sống cuộc sống thiểu dục
tri túc, vui với đạo, vui với nội tâm, không màng đến danh lợi, họ tìm cuộc
sống hạnh phúc thanh cao hơn, tao nhã hơn. Hằng ngày làm bạn với cỏ cây, sông
núi, vui bên chén trà, nghe tiếng chim hót, hay là tụng Kinh, ngồi thiền… có
phải hạnh phúc của họ được mong cầu lên cảnh giới chư thiên hưởng thú vui dục
lạc trên ấy hay không?
Trên đây chỉ phân tích theo từng nhóm. Người viết muốn
nêu lên hạnh phúc cụ thể hơn, tùy theo độ tuổi, tùy theo hoàn cảnh sống, tùy
theo địa vị xã hội. Hạnh phúc của em bé là được vuốt ve, âu yếm của người mẹ,
được bú mớm, được cưng chiều, hạnh phúc của nó là ở gần bên cha me, gần bên
người thân yêu.
Có người cho rằng hạnh phúc là những điều mình mong
muốn, có người thấy thân mình đẹp, đoan trang là hạnh phúc, có người cho rằng
mạnh khỏe không bệnh tật là hạnh phúc…những điều hạnh phúc nêu trên thật sự
không bền chắc.
Nếu đem trí tuệ của đạo Phật mà quán chiếu thì thấy
những hạnh phúc ấy mong manh, dễ tan vỡ như giọt sương lúc ánh nắng ban mai, vì
bản chất cuộc đời là vô thường, duyên sinh vô ngã,
Ngài Vạn Hạnh thiền sư đã “Thị Đệ Tử ” bằng bài kệ
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn vật xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.Những hạnh phúc này theo lăng kính của Đạo Phật thì
chúng chính là mầm mống của sự khổ đau vì chất chứa nhiều sự lo âu, phiền não,
sầu khổ. Ví dụ: Có người nói rằng, gần người mình yêu là hạnh phúc. Bạn có chắc
chắn rằng người yêu ấy có chung thủy với bạn suốt đời không? Người yêu ấy không
có bị sanh, lão, bịnh, tử không?
Nếu như tất cả đều theo ý muốn của bạn thì quan niệm
hạnh phúc của bạn là đúng. Nhưng có bao giờ được như vậy không? Có những đôi
tình nhân nghĩ rằng được sống gần bên nhau là hạnh phúc. Nhưng cuộc sống bao
giờ cũng có hợp ắt phải có chia lìa, yêu nhau xa nhau sinh ra sầu khổ (ái biệt
ly khổ). Trong cái hợp đã có mầm móng của sự chia lìa.
Điều họ nghĩ: “đau
khổ vì nhau, buồn nhớ vì nhau là hạnh phúc” hạnh phúc của họ là thứ hạnh phúc chờ
đợi héo mòn, và hạnh phúc của sự âu lo. Thật sự, hạnh phúc của ái tình rất mong
manh, chóng tàn, là thứ tạm bợ, giả tạm mà có trong chốc lát, chứ không phải
hạnh phúc miên viễn.
Vì sao nói hạnh phúc của thế gian luôn luôn có sự ưu
não, buồn khổ? Bởi vì, hạnh phúc ấy xuất phát từ lòng tham ái, chấp thủ. Ở đâu
có mặt của tham ái, ở nơi đó có mặt của đau thương và thù hận.
Nhất là trong vấn đề tình yêu đôi lứa thường hay thờ
thốt với nhau, tiếng nói ấy cũng chính từ cái tâm chấp ngã mà có đôi khi để
đánh lừa đối tượng, không phải thứ tình yêu chân thật.
Một người có tình yêu chân thật thì luôn có sự hy sinh
và trao tặng cho người mình yêu thương, không mong cầu đón nhận. Tình yêu còn
có bản ngã, còn có chấp thủ thì sao có sự hạnh phúc chân thật và bền vững được.
Nên chúng ta hãy xem quan niệm hạnh phúc trong phật giáo như thế nào?
IV. Hạnh
phúc theo quan điểm của Phật giáo
Hạnh phúc trong Đạo Phật luôn luôn đòi hỏi sự hành trì
thâm hậu ở mỗi con người. Con người luôn ý thức và làm chủ ngũ dục (tài, sắc,
danh, thực, thùy) và những vật chất hữu vi chỉ là phương tiện sống. Mục đích
chính là con người phải biết quay về đời sống tinh thần tu tập diệt trừ mọi
phiền não để tâm hồn thanh tịnh, an lạc ngay trong kiếp sống hiện tại.
Đạo Phật không quan niệm vàng bạc, ngọc ngà châu báu
là hạnh phúc, Hạnh phúc càng không phải đặt chân vào lâu đài tình ái. Hạnh phúc
không phải hình thành từ chất liệu ngũ dục thế gian…không phải chạy theo tiếng
gọi của mỹ nhân để được nghe lời hay ngọt ngào, âu yếm cho là hạnh phúc, những
thứ này chỉ làm cho tâm con người quay cuồng trong vòng xoay sinh tử, không
biết bao giờ ngưng nghỉ, và tạo thêm khổ đau.
Hạnh phúc là những ai biết quay về với đời sống tâm
linh cao cả, đó là phần tinh ba cao quý nhất của con người, sống quay về với
chính mình và giây phút hiện tại. Nếu chúng ta rời khỏi mình mà chạy tìm cầu ở
ngoài thì làm mất đi cái gì quý giá nhất, lạc vào tà kiến, ấy chính là quên đi
cái sáng suốt vốn có của mình (Phật Tính). Từ trong bóng đêm vô minh mù mịt
trải qua hàng vạn kiếp, tâm hồn ta trôi giạt trong biển đời mênh mông, như con
tàu lênh đênh bị sóng gió dập dồi ở ngoài biển khơi không bến bờ nương tựa. Đó
chính là biển ái dục và bão tố vô minh, vùi dập chúng ta quay vòng trong sinh
tử vô tận.
Chúng ta học Phật Pháp một cách sâu xa và chắc chắn
trong tay có được một ngọn đuốc sáng trên con đường đi tìm chân hạnh phúc. Giá
trị nhiệm màu của đạo Phật là “tri” và “hành” chứ không phải dùng để nói suông, càng
thực hành sâu chừng nào mới thấy giá trị Phật pháp cao siêu chừng đó.
Đức phật tuyên bố: “Giải
thoát an lạc, giác ngộ và tịnh độ đều ở ngay trong tâm của chúng ta” hay là “Ta đến đây không phải cứu độ các
ngươi, Ta đến đây cốt là để chỉ đường đi sáng suốt cho các ngươi. Các ngươi hãy
noi theo đó mà tiến hóa giác ngộ để tự độ lấy mình.” “Ngươi là ngọn đuốc và là nơi nương
náu cho chính ngươi. Ngươi đừng tự phó thác vào chốn dung thân nào khác”
Hạnh phúc mà Đức Phật muốn dạy chúng ta đạt đến là
cảnh giới Niết bàn tại tâm. Niết Bàn là Bản Thể chân thực của ta, của
quần sinh và vũ trụ.
Niết Bàn là hạnh phúc.
Niết Bàn ở sẵn trong tâm khảm con người.
Niết bàn là Chân Thường, Hằng Cửu.
Niết Bàn là một trạng thái tĩnh lặng, bất biến.
Niết bàn có thể thực hiện ngay trong cõi đời này.
Như vậy Niết Bàn là trạng thái mà ta có thể tự tạo cho
ta, ban bố cho ta, chứ không do một vị Thần Phật ngoại tại nào. Tại sao vậy?
Thưa chính là vì ta đã nhập thể với Bản Thể vũ trụ, nguồn sinh xuất ra vũ trụ,
và chư Phật, chư Hiền Thánh Tăng.
Đến đây tôi sực nhớ lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Các ngươi hãy
nỗ lực lên. Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ, chứ không giác ngộ thế cho
ai được. Sự trói buộc của
ma vương sẽ tùy sức thiền định của ngươi mà được cởi mở.” (Kinh Pháp Cú
276)
Mới hay công trình tu trì, giải thoát của con người
cũng đã chịu một định luật thiên nhiên chi phối. Đó là: “Linh tại Ngã, bất
linh tại Ngã” (Hay tại ta, dở cũng tại ta).
Nếu Niết Bàn là hạnh phúc, là bất biến, là trạng thái
có thể thực hiện ngay ở đời này, thì dĩ nhiên là nếu có được hạnh phúc bây giờ,
thì hạnh phúc ấy cũng không thua kém hạnh phúc hưởng được sau khi nhắm mắt tắt
hơi.
Nhận định này hết sức quan trọng. Bởi vì ngay từ trong
cuộc sống hiện tiền của chúng ta có thể đạt được một trạng thái cao siêu nhất
mà trời đất có thể dành để cho chúng ta. Nếu cuộc sống hiện tại chúng ta chưa
đạt được an lạc nội tâm thì đừng có mơ tưởng viễn vong đến thế giới cao xa
Vì vậy con đường giải thoát là tìm Chân Tâm tự nơi
mình:
Lục Tổ Huệ Năng nói: trong Pháp Bảo Đàn Kinh: “Tự
mình tu, tự mình hành, thấy Pháp Thân của mình, thấy Phật ở Tự Tâm mình, độ lấy
mình mới được” [2]
Như vậy châm ngôn để đi tìm chân lý sẽ là:
Con đường hướng nội tiến cho sâu, Càng sâu, càng thấy lắm nhiệm mầu. Tâm khảm bao la không bờ bến, Vũ trụ mênh mông đã thấm đâu.Vậy muốn tìm Chân Tâm, muốn tìm Phật Tính, phải tìm
ngay trong người mình, trong lòng mình.
Phật bảo A Nan: Chân
Tính đã ở nơi ngươi mà ngươi chẳng tin, lại theo nơi miệng ta mà tìm Chân Tính,
vậy ngươi đã lầm chưa? [3]
Hạnh phúc theo Đạo Phật rất đơn giản, bất cứ người nào
cũng đạt được hạnh phúc đó, miễn sao đi đúng con đường đức Thế Tôn đã vạch ra.
Trong kinh Đức Thế Tôn dạy về sự chấm dứt khổ đau như sau: “Này các Tỳ kheo, trong tất cả
pháp, dù là pháp hữu vi hay vô vi, pháp giải thoát ly tham (viràga,) là cao cả
nhất. Ấy nghĩa là giải thoát khỏi kiêu mạn, diệt trừ tham, nhổ tận gốc sự chấp
thủ, cắt đứt sự tiếp tục, dập tắt khát ái, giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn.” [4]
Nếu ta theo con đường Đức Phật đã dạy thực hành một
cách kiên tâm trì chí, nếu ta tinh tấn đào luyện và thanh lọc bản thân, nếu ta
đạt đến mức phát triển tâm linh cần thiết, một ngày kia ta có thể thực chứng
Niết-bàn ngay trong ta, không cần phải nhọc trí vì những danh từ lớn lối bí
hiểm. Cho nên hạnh phúc trong Phật giáo cũng vậy, người nào thật sự tu tập đoạn
trừ tham ái, chấp thủ chính người ấy mới cảm nhận được hạnh phúc.
Hạnh phúc trong Phật giáo là sự từ bỏ“tham ái, chấp
trước” có nghĩa là không
vướng bận bất kỳ mọi hoàn cảnh nào, ở trong khổ đau vẫn thấy an vui, hạnh phúc,
ở trong đời ngũ trược đầy dẫy sự đau khổ và bất công, chúng ta cũng có thể tự
tại, an vui, cho dù chung quanh của ta toàn là ngũ dục, lạc thú. Chúng ta vẫn
không vướng mắc đến nó cho nên thật là chí lý khi nói:
Chân lý hạnh phúc không chờ đợi ở kiếp sau, và cũng
không cần tìm kiếm một nơi nào khác, chân lý có thể hiện hữu ngay bây giờ và ở
đây. Trong tất cả mỗi người ai cũng có một nguồn hạnh phúc chân thật, nhưng con
người không biết nhìn nhận hạnh phúc này, mà đi tìm cầu cái hạnh phúc giả tạm
kia.
Thích Trí Giải
Chú thích:
[1] Lâm
tế lục thị chúng, ĐĐ Thiên
Ân, Triết học Zen, tr.103
[2] Pháp
Bảo Đàn Kinh (Đoàn trung Còn
dịch), Sám Hối Phẩm, tr. 61
[3] 云 何 自 疑 汝 之 真 性, 性 汝 不 真, 取 我 求 實. Vân hà tự nghi nhữ chi Chân Tính, Tính nhữ bất chân,
thủ Ngã cầu thực. – Thủ Lăng
Nghiêm kinh (V.N. P.
T. hội xuất bản), q. II, tr. 16-17.- Thủ
Lăng Nghiêm, -Linh Sơn, Phật Học, tr. 113-114
[4] Aṅguttara-
Nikāya, II.p.34
Discussion about this post