HẠNH PHÚC
NGƯỜI GIỮ GÌN NĂM GIỚI
Thích Nữ Giác Anh
Vươn
đến một đời sống thành công và hạnh phúc là niềm mơ ước muôn thưở và rất chánh
đáng của mỗi con người. Làm người ai cũng mong một đời sống vui vẻ và hạnh
phúc.
Hạnh
phúc không đo bằng vật chất, dù vật chất là một phần tạo nên sự yên tâm cho con
người. Hạnh phúc không đo bằng danh vị, dù địa vị và danh thơm một phần nào
cũng góp nên cảm giác chắc chắn và thoải mái. Hạnh phúc không đo bằng sức khoẻ
hay sắc đẹp, dù rằng không có sức khỏe hay thiếu phần ngoại hình cũng khó mang
lại một đời sống hạnh phúc trong thế giới vốn rất trọng bề ngoài này. Hạnh phúc
không phải chỉ có những mối quan hệ tốt đẹp với người thân xung quanh, vì dù đã
có người thân, người thương nhưng vẫn cần những phương tiện cần thiết để sống
và để tiếp tục thương. Hạnh phúc càng không phải là những thành công trong đời
sống vì thành công mà không có mãn nguyện cũng đồng nghĩa với thất bại (success
without fulfillment is failure).
Như
vậy, hạnh phúc đời thường phải chăng là do tất cả những yếu tố đó ghép lại? Nếu
phải như vậy, thì giữa cuộc đời này mấy ai dám mơ một đời sống hạnh phúc? Trong
Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là
một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới. Vì thế, dù
những tiêu chuẩn làm nên hạnh phúc có vẻ khó khăn như kể trên, nhưng trên thế giới này vẫn có những
cuộc đời rất hạnh phúc. Chắc chắn những con người hạnh phúc đó biết sống cuộc
đời dựa trên đạo đức căn bản của năm giới. Năm giới đó, người Phật tử ai ai
cũng biết: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không
dùng những chất gây mê mờ.
Qui y
Tam Bảo và lãnh thọ năm giới là cửa ngõ cho những ai muốn bước vào thế giới
tuyệt diệu của Phật giáo. Tuy vậy, bất cứ cá nhân nào dù chưa qui y Tam Bảo mà
đã giữ gìn theo năm giới, cũng đảm bảo có một đời sống hạnh phúc giữa thế gian
đầy đau khổ này. Điều đó rất chắc chắn. Quả thật, năm giới là nền tảng, là điều
tất yếu để xây dựng một xã hội an định, một đất nước giàu mạnh và an ninh, dân
chúng nơi đó thật sự hưởng an lạc và thái bình.
Giới
đầu tiên, không sát sanh. Diễn đạt
theo cách khác của không sát sanh là đời sống biết trân trọng và thương yêu
chính bản thân và muôn loài. Ta không thể thương người nếu ta không biết thương
ta. Vì không biết thương ta nên ta mới hại ta. Vì hại ta nên xã hội ngày nay
mới có tỉ lệ quyên sinh cao nhất trong mọi thời đại. Và cũng chính không biết
thương ta nên ta mới hại người, vì chính hại người là cái nhân cho người hại
lại ta. Một cái vòng nực cười, lẫn quẫn, vô lý… nhưng mấy ai thật sự hiểu để
tránh được!
Đức
Phật dạy giới thứ nhất không được sát sanh, đó là cách nói ngắn gọn cho dễ nhớ.
Vì làm sao đi đến không sát sanh nếu đời sống không bắt nguồn từ sự trân trọng
và thương yêu lẫn nhau. Giữa người và người, giữa người và muôn loài, mối quan
hệ đó một khi đã mất đi sự trân trọng và thương yêu, thì chắc chắn phải dẫn đến
sự xâm phạm và giết hại lẫn nhau.
Tình
trạng bạo hành trong gia đình, con cái bất hiếu lớn tiếng với cha mẹ, vợ chồng
cãi vã dẫn đến đánh đập lẫn nhau… tất cả những kết quả đó từ sự thiếu trân
trọng và thương yêu bên kia. Có một gia đình nọ, mỗi khi gặp chuyện bất đồng
dẫn đến cãi vả, dù cãi nhau họ cũng không lớn tiếng. Do vì thói quen tôn trọng,
sợ làm tổn thương người kia đã đạt đến đỉnh cao trong từng tư cách và đã biến
thành thói quen của mỗi người. Chuyện đó không phải là không có trong xã hội.
Nói
rộng ra hơn nữa, một chính phủ biết trân trọng và thương yêu người dân, khi lâm
vào hoàn cảnh cần có chiến tranh, họ cũng chọn thời điểm ít tốn nhân mạng của bên
mình và của đối phương nhất, chứ không dễ dàng hy sinh tính mạng của binh lính
và dân lành hai bên bao giờ. Huống chi trong thời bình, những chính phủ biết
quí trọng thương yêu dân chúng, chắc chắn sẽ xây dựng xã hội dựa trên cơ sở
nhân bản, tự do và đặt quyền lợi của người dân lên trên hết.
Nước Úc
là hình ảnh điển hình của một xã hội hạnh phúc và an định. Người dân nơi đây
sống vui hiền hòa, nhân vị luôn là tiêu chí đầu tiên. Chế độ an sinh xã hội cho
người thiếu may mắn, bệnh đau, thương tật, yếu già… đứng đầu trên thế giới.
Chính phủ Úc biết trân trọng và thương yêu người dân. Giữa người với người,
đồng loại với nhau đều xây dựng mối quan hệ trên sự trân trọng, tôn kính và
thương yêu như thế, thì chắc chắn xã hội ấy thái hòa và an lạc. Và đất nước Úc
quả thật là như vậy so với các nước khác trên thế giới.
Duới
cái nhìn của Phật Giáo, tình thương còn lan xa hơn. Đức Phật dạy rõ, tất cả
chúng sanh đều có Phật tánh, có nghĩa là tất cả chúng sanh đều cần yêu thương
và giúp đỡ như mình. Vì thế, hạnh nguyện ăn chay của người Phật tử bắt nguồn từ
tình thương đối với chúng sanh muôn loài là như vậy. Bồ Tát đạo dựa trên Bồ Đề
Tâm làm căn bản, Bồ Đề Tâm là thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, nghĩa là
trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Chúng sanh không phân biệt người hay
trời, thấy hay không thấy, địa ngục hay súc sanh, hóa độ chúng sanh là hóa độ
tất cả. Làm sao hóa độ chúng sanh cho được nếu không có sự trân trọng và thương
yêu chúng sanh. Thế nên, người Phật tử thọ Bồ Tát giới đều lấy việc trường chay
làm pháp hành đầu tiên. Có nhiều Phật tử, tuy chưa thọ Bồ Tát giới nhưng vì
lòng bi mẫn đối với chúng sanh, cũng phát nguyện trường chay. Những tấm gương
đó thật tươi sáng!
Tuy
nhiên, cũng không nên vì ăn chay, vì thương chúng sanh với ý tưởng cố chấp thái
quá mà đánh mất hạnh phúc khi đối xử với những người thân bên mình. Cái tuyệt
của Phật Pháp “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” là ở chỗ đó. Tuỳ theo
nhân duyên mà không đánh mất lòng từ bi, vẫn giữ được hạnh nguyện từ bi nhưng
không làm gẫy đổ nhân duyên. Nhạy bén, dung hòa làm sao để có thể bày tỏ được
tình thương, đem đến hạnh phúc cho mọi người và mọi loài, từ người gần đến
người xa, từ người thân đến người lạ, không bỏ mất một ai, đó mới là cái hay
của người giữ giới.
Sống
với niềm trân trọng và tình thương rộng mở, cá nhân đó luôn cảm nghiệm một tâm
hồn nhẹ nhàng và vui tươi. Người biết thương yêu sẽ tránh được nỗi lo lắng sợ hãi
người khác trả thù mình.
Trên thế
gian này, ai cũng muốn mọi người trân trọng và thương yêu mình. Nhưng không có
một hạnh phúc nào, tình thương chân thật nào đến từ một chiều cả. Mình thương
người thì người mới thương mình, mình biết quí trọng người thì người mới quí
trọng mình.
Đối với
loài khác, biết sống thương yêu, không sát hại luôn đem đến một cảm thọ an bình
và yên ổn. Không sát hại chúng sanh sẽ không thọ quả báo đau đớn của giết hại.
Sống vui, không sát sanh đem đến một thân thể khỏe mạnh, không ốm đau và bệnh
tật. Sức khỏe tốt đẹp là điều rất cần cho hạnh phúc.
Bí
quyết đầu tiên cho một đời sống hạnh phúc là như thế.
Giới
thứ hai, không trộm cắp. Không trộm
cắp nói cách khác là tôn trọng vật sở hữu của người khác. Ở các nước như
Singapore, Malaysia… hình phạt của tội trộm cắp rất nghiêm và rất nặng, đặc
biệt ít có trường hợp du di. Các cửa hàng ngoài đường, người ta có thể trưng
bày mọi thứ quí giá, đắt tiền mà không lo lắng đến tệ nạn trộm cắp. Ở các quốc
gia đó, nếu bị bắt vì tội trộm cắp, hình phạt có thể bị đánh đòn tại chỗ, hay
chặt một ngón tay để làm gương. Nghe qua thật tàn nhẫn, nhưng quả thật, tệ nạn
ăn cắp ở những nước đó rất ít xảy ra. Người dân không lo sợ chuyện bị ăn cắp
dọc dường, mất đồ là có thể việc nhỏ, quan trọng hơn là cảm giác sợ sệt, bất an
rất khó chịu!
Quả
thật, trong gia đình nếu có một người bị tật ăn cắp thì gia đình đó chắc chắn
thường hay xào xáo, khổ sở. Bản thân người có tật đó, không thể có phút giây
yên vui được. Vì làm sao vui khi môi trường chung quanh không vui. Người mắc
bệnh ăn cắp, lúc nào đầu óc tâm tư cũng lo toan, suy tính, làm thế này và làm
thế kia… Xong việc ăn cắp rồi, cũng chưa yên ổn, phải lo lắng giấu giếm sợ
người mất của nghi kỵ, không tha cho mình. Thật tội nghiệp cuộc đời của người
phải đeo nghiệp ăn cắp.
Ngược
lại, nếu luôn sống tôn trọng quyền sở hữu của người khác sẽ luôn đem đến một
cảm thọ an ổn và nhẹ nhàng. Nhẹ nhàng vì không phải lo. An ổn vì ai cũng vui. Lại
thêm gặp việc gì cũng thường được dễ dàng, trôi chảy. Sống tôn trọng sở hữu của
người, được quả báo ít bị mất trộm, ít lo bị ăn cắp. Đi đâu, làm gì hay thậm
chí có quên việc gì ở đâu, cũng có người lượm được đem trả lại. Ai kinh nghiệm
qua rồi, mới thấy cảm giác đó thật tuyệt!
Có một
câu chuyện, người thật việc thật. Chú kia là hướng dẫn viên du lịch, hôm đó dẫn
đoàn đi Nhật. Làm tour guide thì lúc nào cũng phải có sẵn tiền mặt để đổi cho
khách. Hôm đó chú ấy ôm gói tiền rất to, rất nặng, hơn 50,000 Úc kim, đến lúc
cần phải đi toilet, chú ôm nguyên gói tiền vào toilet công cộng, khi xong việc,
thân thể nhẹ nhàng đứng lên đi ra, bỏ gói tiền lại. Đến khi nhớ ra thì đã hơn
nửa ngày rồi. Chú ấy tức tốc quay trở lại chỗ cũ, nhưng biết hỏi ai bây giờ.
Chú chỉ biết thất vọng đến báo trạm cảnh sát gần đó nhất. Nhưng ngay lúc thất
vọng nhất, ông cảnh sát đã xin xem giấy tờ passport để làm thủ tục hoàn lại gói
tiền cho khổ chủ. Gói tiền được một người Nhật sau đó lượm được và đem đến gởi
cho trạm cạnh sát. Chú tour guide nhận lại gói tiền trên tay, vừa mừng, vừa
khâm phục tinh thần chân thật của người Nhật Bản. Chú tour guide đó là chú T.
T, giám đốc công ty Triumph Tour ở Sydney này.
Tôn trọng
vật sở hữu người khác là việc nghĩ xa và cấp thiết, tôn trọng ý tưởng hay công
sức của người là việc gần hơn nhưng không thiếu phần quan trọng. Vì biết trân
trọng ý tưởng hay công lao của người khác, đó là lối sống của một người có nhân
cách cao, văn minh và anh dũng. Những người như vậy, sống cuộc đời thật thảnh
thơi, bạn bè con cháu quay quần, vì người đó biết khuyến khích và công nhận
tiềm năng của người khác. Giữa cuộc đời bon chen và tỵ hiềm, rất cần những tấm
lòng rộng lớn đẹp đẽ như thế.
Một con
người, một xã hội ai ai cũng gìn giữ giới thứ hai không trộm cắp này, thì con
người đó, xã hội đó làm sao không ổn định và thăng bằng được. Chắc chắn hạnh
phúc sẽ mỉm cười với người luôn trân quí sở hữu của mình và của người như thế.
Giới
thứ ba, không tà dâm. Không tà dâm
nói cách khác là sống đời trang nghiêm, thanh tịnh và chung thủy. Đối với người
tu sĩ Phật Giáo, giới này là không dâm dục. Không dâm dục vì tất cả chúng sanh
đều từng là cha mẹ mình. Không dâm dục vì dâm dục là cái nhân của sanh tử luân hồi.
Trong vô lượng kiếp tái sinh, có khi làm thân nam, có khi làm thân nữ, có khi
làm bạn, có khi là thù… Cái ái luyến dẫn đến đòi hỏi dâm dục thật ra không bắt
nguồn từ cái thật thương yêu bền vững chân thật. Giới hạn của ý thức con người
chỉ gói gọn trong một kiếp sống ngắn ngủi. Kiếp này thấy thương người này,
nhưng có thể sẽ thương người khác vào kiếp sau. Nhưng mỗi lần thương, cứ hoang
tưởng cái thương đó sẽ là duy nhất! Vì vậy, Phật dạy tất cả tu sĩ Phật Giáo nên
thường xuyên quán tưởng Vô Thường, sợ phải theo nghiệp mà tái sanh nên phải nhớ
rõ muốn đi trên đường chấm dứt sinh tử phải không dâm dục.
Hoàn
cảnh ngày nay, dù xa cách Phật đã lâu, giữa đại dương bao la của sinh tử, rất
khó tìm thấy những người gìn giữ được hạnh nguyện này. Nếu ai tìm được người
đó, hãy cung kính trân trọng, vì người đó chính là ngọn đuốc soi sáng đêm dài
tăm tối, là bài học quí giá trên con đường thực hành đạo giải thoát.
Tuy khó
gặp, nhưng không phải là không có. Người viết được tận mắt, tận tai, tận tâm…
chứng kiến một người. Người đó là vị ân nhân trên lộ trình tu đạo. Nhìn vị đó,
người tu tự an ủi giữa thời mạt pháp này vẫn còn người tu, vẫn còn người hành
những điều khó hành nhất. Đảnh lễ vị đó, người tu biết rằng nếu cố gắng mình
cũng được dõi theo bước chân Ngài, được vẹn tròn đến ngày viên mãn.
Đối với
người cư sĩ tại gia hay nói xa hơn, đối với người đang sống đời bình thường.
Không tà dâm là điều quan trọng bắt buộc như giới không dâm dục của người tu
sĩ. Hạnh phúc gia đình phần chính yếu dựa vào sự thủy chung của hai bên. Lỗi
lầm nào cũng có thể tha thứ được, chứ một khi đã phạm vào lỗi này rồi, thì hạnh
phúc gia đình thật vô cùng mong manh!
Thế
gian không thiếu những con người sống đời thanh cao và chung thủy. Nhưng cũng
có rất nhiều gia đình tan vỡ vì một trong hai người thiếu thủy chung. Một khi
đã không còn tin cậy được nhau nữa thì dù con cái có thành đạt, sự nghiệp có
giàu có, gia nhân có đông đủ… trong chốc lát cũng biến thành mây khói! Màn đêm
đau khổ sẽ trùm lên cả gia đình. Từ đó, bệnh tật, tan gia bại sản cũng xảy đến.
Tâm bệnh sẽ kéo theo thân bệnh là điều tất nhiên. Con cái trong gia đình, tự
nhiên đang êm ấm bỗng dưng lạnh lẽo, tiêu điều. Vì cha mẹ thiếu vun bồi giới
hạnh, mà cuộc đời của các con cũng thành những trẻ cô đơn từ đây. Thật tang
thương biết bao!
Trong
xã hội nếu có nhiều gia đình ly dị (divorce), thành phần trẻ em thiếu tình
thương, thiếu giáo dục đạo đức cũng sẽ nhiều thêm. Lớp thiếu niên đó lớn lên
thiếu tình thương, thiếu trách nhiệm sẽ sống ra sao… Khi đôi mắt các em trong
gia đình đỗ vỡ nhìn các em được sống trong cảnh hạnh phúc mà khao khát, mà thương
cảm… mà buồn rơi nước mắt !
Phật
khuyên người Phật tử gìn giữ giới thứ ba này, cũng là lời khuyên cho toàn thể
nhân loại. Trong số những người con thành đạt, phần lớn đều được nuôi dưỡng từ
mái ấm thủy chung của cha mẹ. Cha mẹ đồng lòng thì chuyện gì cũng làm nên, khó
khăn nào cũng có thể vượt qua. Các con chắc chắn sẽ nên người. Một mái ấm như
thế tràn ngập tiếng cười và niềm thương yêu. Các trẻ lớn lên trong không khí
ấy, phần lớn sẽ được trưởng thành như ý nguyện. Thêm một bí quyết nữa để sống
đời hạnh phúc là gìn giữ giới thứ ba này vậy.
Giới
thứ tư là không nói dối, nói theo
cách khác là sống đời chân thật. Trên thế gian này, chỉ có Phật Đà viên mãn
hạnh nguyện “chân thật ý, chân thật ngữ”. Vì cứu cánh giải thoát là đạt đến vô
ngã, vì vô ngã nên không sợ hãi, không sợ hãi nên không cần phải dối.
Sống
trong cuộc đời, ai ai cũng thích được gần người thành thật. Một tình bạn sỡ dĩ
bền lâu mấy mươi năm không phai mờ là vì hai người thành thật với nhau. Sống
bên cạnh người thành thật, luôn có cảm giác an ổn và thoải mái. Sống với người
thành thật, không phải lo toan, suy nghĩ. Dù cho có đôi lúc gây cấn, bất đồng,
nhưng do thành thật mọi việc cũng suông sẽ, nhẹ nhàng. Thậm chí qua đó tình thương
càng gắn kết sâu đậm hơn.
Trong
Phật đạo, thành thật là cái nhân của chứng đạo. Thành thật với mình là quan
trọng nhất. Không thể tu đạo được nếu không có đức tánh thành thật. Giảng kinh
thuyết pháp mà tánh đức không thành thật cũng không thể giảng lâu, giảng sâu và
rộng rãi được. Âu đó cũng là nhân quả nghiệp báo vậy.
Đức
Phật thường ví người không thành thật mà tu đạo, giống như đổ nước vào bát úp,
Phật Pháp không thể nào thâm nhập thấm sâu vào tâm trí người không thành thật.
Vì hạt giống trí tuệ giải thoát đã bị chủng tử giả dối ngăn chặn không thể sinh
sôi, phát triển.
Nói dối
việc tuy nhỏ, cũng tạo thành thói quen. Lâu dần chính thói quen đó tác hại ghê
gớm đến đời sống của mình. Thế gian không chấp nhận người nói dối. Phật Pháp
càng không chấp nhận.
Người
luôn nói thật, sống thật thường chiêu cảm mọi người thương mến, dễ gần. Nói ra
lời gì cũng dễ nghe. Diễn giảng Phật Pháp rộng sâu, thu hút. Nhân chủng chân
thật chiêu cảm đọc tụng kinh điển sớm mau giác ngộ, tỉnh thức hơn người. Thế
gian có câu, nồi nào úp vun nấy, người ngay sẽ gặp người ngay. Đi đâu cũng có
thiện thần giúp đỡ. Nói nôm na là thế, nhưng xét kỹ cách nói ấy rất khoa học,
vì nhân nào quả nấy là định luật của muôn đời, trường hợp nào cũng như thế
không sai khác được. Giới thứ tư không nói dối là thêm một bí quyết nữa để sống
đời hạnh phúc.
Giới
thứ năm, không dùng chất làm mê mờ.
Chất làm mê mờ có thể là rượu, bia, là thuốc hút, ma tuý…. Giới này trong kinh
điển Phật dạy là giới phụ tùy. Phụ tùy là giới không bắt buộc, hoặc không chính
thống là điều bắt buộc phải ngăn cấm. Tuy nhiên, nếu phạm giới này thì khó
tránh gìn giữ các giới trên.
Người
ta thường hay nói “rượu vào thì lời ra”, những lời tuôn ra trong cơn say thường là không chánh ngữ. Hoặc người ta
thường nói “tửu sắc”, rượu thường đi chung với sắc, trong lúc mê mờ thì rất khó
giữ giới không tà dâm. Say sưa, mê mờ khiến cho người dễ rơi vào trạng thái
thiếu cẩn trọng, mất tư cách. Thế gian thường hay nói “đốt thuốc là đốt tiền”,
nguồn lực tài chánh thay vì nuôi dưỡng hạnh phúc gia đình, sẽ biến thành những
cơn say đốt cháy bản thân và những người yêu quí xung quanh.
Trong
xã hội, biết bao cảnh những con người thành công, sự nghiệp cao trọng lại vướng
vào cạm bẫy sa lầy của nghiện ngập ma túy. Danh vọng đang lên cao phải đứt
đoạn. Cuộc đời đang như mơ phải sa cơ thất thế, vì bệnh hoạn do tiếp thu những
chất làm hư người này.
Các bậc
thánh trong thế gian, không ai không sáng suốt, không làm chủ tâm thức của
mình. Đức Phật khuyên người Phật tử đã qui y Tam Bảo, đã bước trên con đường giải
thoát, nên xa lìa những nguồn cội làm mê mờ đời sống tâm linh như thế. Giới thứnăm này là chất liệu cuối để xây dựng nên một đời sống an lành, mạnh khoẻ và
hạnh phúc.
Năm
giới là căn bản của người Phật tử. Năm giới là nền tảng của một xã hội. Năm
giới là rào phòng thủ vững chắc xây dựng một quốc gia. Ai cũng mơ ước vươn lên
một đời sống hạnh phúc, và ai cũng có khả năng gìn giữ năm giới. Đối với người
Phật tử của Phật giáo Nam Truyền, mỗi đêm ít nhất họ hành trì bằng cách đọc lại
ba pháp Qui Y, Quy Y Phật, qui y Pháp và qui Y Tăng. Và quan trọng hơn họ đều
tụng lại năm giới. Năm giới là cuộc đời của người Phật tử, là cuộc sống của
người Phật tử.
Năm
giới quan trọng như hơi thở, như bữa cơm chính trong ngày. Năm giới không phải
là điều bắt buộc mà là niềm vui, là nguồn sống, là hạnh phúc của mỗi cá nhân.
Một khi gìn giữ năm giới đã ăn sâu vào tiềm thức, biến thành thói quen cư xử
trong đời sống, thì chắc rằng đời sống của người đó sẽ rất an vui và hạnh phúc.
Ai ai
cũng vươn đến một đời sống hạnh phúc và ai ai cũng có thể gìn giữ thọ trì năm
giới như lời Phật dạy và thế giới này sẽ trở thành một thế giới thật sự an bình
và hòa ái.
Một mùa
Phật đản nữa lại về, chúc nguyện tất cả chúng sanh đều an lạc và hạnh phúc
trong ánh quang minh của đạo pháp.
Sydney, Kỷ niệm mùa Phật Đản PL 2556,
năm Nhâm Thìn 2012
à
Discussion about this post