KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 56)
Pháp Sư Tịnh Không
Kinh văn:
“Thường hành bố thí cập giới nhẫn
Tinh tấn định huệ Lục Ba La
Vị độ hữu tình linh đắc độ
Dĩ độ chi giả sử thành Phật”.
Bài kệ này trong phán khoa là “tất linh
thành Phật”. Trong bốn câu văn thì đã đầy đủ tứ hoằng thệ nguyện, hai câu phía
trước là thường hành lục độ, bao gồm học pháp môn, đoạn phiền não, câu thứ ba
là độ chúng sanh, câu sau cùng là thành Phật đạo, cho nên viên mãn đầy đủ ý
nghĩa của tứ hoằng thệ nguyện. Lục Ba La Mật là hành trì của Phật, cũng chính
là nói chư Phật Như Lai thị hiện ở sáu cõi, ở mười pháp giới, các Ngài biểu
hiện ra là cái gì? Trong Phật pháp gọi là thị hiện, người hiện tại chúng ta gọi
là biểu diễn, đời sống công việc giáo học đối nhân xử thế tiếp vật của các Ngài
đã biểu diễn ra, sáu điều này toàn bộ đều bao gồm trong đó. Bồ Tát học Phật
cũng thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày. Nếu như rời khỏi đời sống mà
học Phật thì là trống không, không khế hợp thực tế, có lý luận không có sự
thật, vậy thì liền biến thành huyền học. Phật pháp có sự có lý, lý sự hòa dung,
đó mới là trí tuệ chân thật. Trong kinh văn, chúng ta phải đặc biệt chú trọng
hai chữ “thường hành”.
Thường
hành chính là vĩnh viễn không có gián đoạn. Chư Phật Như Lai, các chúng Bồ Tát
ở sáu cõi, ở mười pháp giới, thật đúng như trên kinh đã nói là “tùy loại hóa
thân, tùy cơ nói pháp”, ẩn hiện tự nhiên, tâm hạnh của họ vĩnh viễn không có
gián đoạn. Phật Bồ Tát gìn giữ cái tâm gì? Trên đề Kinh Vô Lượng Thọ đã giảng
là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác. Đây là dụng tâm của chư Phật Bồ Tát, dùng thanh
tịnh bình đẳng giác để hành sự, đó chính là Phật hạnh, Bồ Tát hạnh. Ngày nay
chúng ta muốn học nhưng học không giống được. Chúng ta cũng học bố thí, cũng
học trì giới, cũng học nhẫn nhục, tại vì sao học không giống? Tâm của chúng ta
không phải tâm Phật, cũng chính là nói tâm của chúng ta vẫn cứ mê mà không
giác, vẫn cứ nhiễm mà không tịnh, vẫn cứ tà mà không chánh, tâm của chúng ta là
mê-tà-nhiễm, tâm của Phật Bồ Tát là giác-chánh-tịnh. Đây là chỗ khác nhau, đó
là chỗ chúng ta có học thế nào cũng học không giống được, nguyên nhân ở ngay
chỗ này.
Nếu
như chúng ta chân thật học Phật, người xưa thường nói là “phải tu từ cơ bản”. Cơ
bản là tu tâm, thế nhưng tâm cùng hạnh có liên quan mật thiết, quan hệ này
không thể tách ra, cho nên hành cũng vô cùng quan trọng. Chúng ta tỉ mỉ mà
quán sát hành trì của Phật Bồ Tát, các Ngài bố thí chân thật là tất cả đều
buông bỏ, đem kiến tư phiền não buông bỏ. Trong kiến tư phiền não, cái thứ nhất
là “ngã kiến”. Ngày nay chúng ta tu học đối với Phật pháp không thâm nhập được
pháp môn, rất muốn vào cửa mà không thể vào được. Tại vì sao không thể vào
được? Chưa phá được ngã kiến, cho nên học thế nào cũng học không giống. Lúc nào
bạn có thể đem thân kiến phá đi, không còn chấp trước cái thân này là ta, vậy
chúng ta muốn hỏi “ngã” là gì? Các vị ở trong kinh điển Đại thừa cũng
nghe được không ít, đặc biệt là Hoa Nghiêm, ở trên kinh Phật vì chúng ta tường
tận khai thị, “ngã” là tất cả chúng sanh, mấy người có thể biết được? Tất cả
chúng sanh là ta, tất cả chúng sanh là thân tướng của ta, đương nhiên cũng bao
gồm cái thân này ở trong đó, như vậy thì bạn xem như chân thật hiểu rõ. Hư
không pháp giới là phòng ốc của chúng ta cư ngụ, là sân vườn trong nhà chúng
ta, bạn có thể thể hội được hay không? Bạn quả nhiên thể hội được thì chính là
trên đại kinh thường nói, bạn đã chứng được pháp thân thanh tịnh, vào lúc này
bạn tu sáu Ba La Mật thì liền tương ưng khế hợp Phật hạnh, Bồ Tát hạnh. Đó là
đại đức xưa dạy người nên có câu “tu từ căn bản”. Chúng ta phải đem ý niệm
chuyển đổi lại, chuyển đổi quan niệm lại. Đạo lý này tôi vừa nhắc đến thì các
vị đồng tu ít nhiều có thể thể hội được. Tại vì sao tất cả chúng sanh là thân
ta, hư không pháp giới là nhà ta, là sân vườn của chúng ta? Trên kinh Hoa
Nghiêm nói rất hay: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tâm của ai? Thức của
ai? Tâm thức của chính mình, không phải của người khác, cho nên tận hư không
khắp pháp giới là chính mình. Ngày nay chúng ta mê chính là mê sự việc này, chư
Phật Bồ Tát ngộ cũng là ngộ ở sự việc này. Mê ngộ ở người, sự thật thì không có
mê, cũng không có ngộ. Sự là nói sự tướng với bạn, thật là nói cái lý chân thật
với bạn, chính là tự tánh, chân tâm, chân như. Sự tướng cùng lý thể đều không
có mê ngộ, mê ngộ là ở người. Bạn một niệm giác ngộ thì phàm phu thành Phật,
một niệm mê hoặc thì Phật biến thành phàm phu, đạo lý chính là như vậy. Thế
nhưng thọ dụng của chư Phật Bồ Tát cùng phàm phu khổ vui khác biệt quá lớn.
Phàm phu thọ dụng rất là khổ cực, thọ dụng của chư Phật Bồ Tát thì được đại tự
tại, không giống nhau. Cho nên chúng ta cần phải giác ngộ, cần phải học Phật,
phải học buông bỏ của Phật.
Trong
lục độ thì Bát Nhã là nhìn thấu, năm cái còn lại là buông bỏ. Bố thí là buông
bỏ tham lam. Đối với tất cả pháp thế xuất thế gian nhất định không có tham
luyến, không luận đối với người, với vật, với việc đều không có tham luyến, đối
với pháp thế gian, đối với Phật pháp đều không tham luyến, vì sao vậy? Tất cả
pháp không phải là thật. Năng biến là tự tánh, sở biến là vạn vật, thể tánh của
năng biến là tịch tịnh, trong Phật kinh gọi là tịch mặc. Như Lai thấy được
chứng đắc, chứng đắc gọi là tịch diệt nhẫn, Bồ Tát chứng đắc gọi là Vô sanh
pháp nhẫn, các Ngài hiểu rõ chân tướng sự thật. Năng biến là tịch diệt, sở biến
thì làm gì là chân thật? Cho nên “chư pháp duyên sanh”. Phật đã nói rất nhiều
về nhân duyên sanh pháp. Phàm là pháp duyên sanh đều không có tự thể. Tự thể
của nó là gì? Tánh thể tịch diệt, đó là tự thể của nó. Cho nên thể là không
tịch, tướng có tánh không, sự có lý không, đó mới là chân tướng sự thật. Hiểu
rõ chân tướng này gọi là nhìn thấu. Sau khi nhìn thấu thì đối với tất cả pháp
thế xuất thế gian, quyết định không hề lưu luyến, quyết định sẽ không bỏn xẻn,
cái tâm này vĩnh viễn đoạn dứt. Đây gọi là bố thí Ba La Mật. Chỗ này từng câu
từng câu nói với các vị là lời chân thật, thế nhưng cảnh giới này rất khó làm
được. Do nguyên nhân gì không làm được? Phật nói không hề sai, thứ nhất nghe
kinh quá ít, nguyên nhân thứ hai là từ vô thỉ kiếp đến nay phiền não tập khí
quá nặng, cho nên bạn vẫn cứ là không thể thâm nhập được pháp môn, nguyên nhân
chính ngay chỗ này. Nghe kinh là quan trọng đến như vậy, một ngày hai giờ
đồng hồ thì không đủ, hai giờ đồng hồ nghe kinh nhắc nhở bạn, một ngày 24 giờ
đồng hồ, vẫn còn 22 giờ mê hoặc điên đảo, đang khởi vọng tưởng, bạn thử nghĩ
xem làm sao có thể thành tựu?
Cho
nên vào thời xưa, tòng lâm tự viện, Thế Tôn ở trong kinh điển cũng thường nói,
mỗi ngày giảng kinh hai thời. Thế Tôn đã nói hai thời là đơn vị thời gian vào
thời xưa của Ấn Độ, không giống như hiện tại của chúng ta. Hiện tại chúng ta
dùng đơn vị thời gian thông dụng trên quốc tế, đem một ngày một đêm phân thành
24 đơn vị thời gian, người Trung Quốc chúng ta gọi là 24 tiểu thời. Tiểu là cái
ý gì vậy? Nó nhỏ hơn đơn vị thời gian của thời xưa nên gọi là tiểu. Đơn vị thời
gian của thời xưa là phân ngày đêm thành 12 thời, dùng chữ để đại biểu cho thời
khắc này là “tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi”. Một
thời của Trung Quốc chúng ta là hai giờ của hiện tại, tiểu thời, thế nhưng đơn
vị thời gian của Ấn Độ xưa còn lớn hơn so với Trung Quốc. Chúng ta thường thấy
ở trên Phật kinh, ngày ba thời, đêm ba thời, họ đem thời gian phân thành sáu
thời. Chỗ này là chúng ta xem thấy trên Phật kinh. Họ gọi ba thời ban ngày là
sơ nhật phân, trung nhật phân, hậu nhật phân. Ba thời ban đêm gọi là sơ dạ
phân, trung dạ phân, hậu dạ phân. Tổng cộng là sáu thời. Cho nên một thời của
Ấn Độ xưa là bốn giờ của chúng ta hiện tại, vậy Thế Tôn nói giảng kinh hai thời
thì chẳng phải là tám giờ hay sao? Chúng ta mỗi ngày nghe kinh tám giờ mới đủ
tiêu chuẩn. Chúng ta nghĩ lại, lời Phật nói có đạo lý, mỗi ngày nghe kinh tám
giờ đồng hồ, lại thêm niệm Phật tám giờ đồng hồ thì đại khái cơ hội khởi vọng
tưởng sẽ ít đi, cho nên mới có thể đem tập khí của chúng ta từ vô thỉ kiếp hóa
giải hết. Có thể hóa giải thì bạn có thể khai ngộ, không thể hóa giải thì
công lực này của bạn cũng có thể hàng phục được nó, không để nó khởi hiện hành.
Cho nên tôi nói với mọi người, công phu của chúng ta ngày nay không có lực là
do nghe kinh quá ít. Thế nhưng nếu bạn muốn hỏi, tôi một ngày nghe kinh tám giờ
thì ai giảng cho tôi nghe? Thật đúng rồi, bạn không tìm ra người giảng cho bạn,
thế nhưng hiện tại thì được, hiện tại có băng thu âm. Tôi khuyên các vị đồng
tu một ngày nghe một băng thu âm, không nên nghe nhiều, nghe phải lặp lại. Nếu
như một băng thu âm là một giờ, bạn liền nghe tám lần, nghe đi nghe lại, đó gọi
là trường kỳ huân tu, như vậy bạn mới có thể nghe hiểu. Nghe qua một lần
không hiểu, nghe lần thứ hai thì có ý mới, nghe lần thứ ba thì hiểu được càng
sâu, số lần nghe được càng nhiều càng tốt. Đại đức xưa nay cầu học đều dùng
phương pháp này.
Vào
thời xưa, nổi tiếng nhất chúng ta biết được Luật sư Đạo Tuyên thời đại Đường
triều. Luật sư Đạo Tuyên là tổ sư của Luật tông. Luật sư Đạo Tuyên nghe “Tứ
Phần Luật” hai mươi lần. Vào lúc đó rất khó, thật không dễ dàng. Nơi nào có
pháp sư giảng “Luật Tứ Phần” Ngài cũng đi nghe. Ngài nghe hai mươi lần là ở hai
mươi nơi, hai mươi người giảng. Loại tinh thần nghị lực này của người cầu học,
chúng ta phải học tập. Chỉ có nhiều lần huân tu thời gian dài thì mới có thể
hàng phục được phiền não, mới có thể khai mở được trí tuệ, không thể nghe qua
một lần mà có thể khai ngộ.
Hôm
nay, chúng ta ở nơi đây giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng kinh Hoa Nghiêm. Các vị
đồng tu yêu cầu giảng tỉ mỉ một chút. Chúng ta không bị hạn chế bởi thời gian,
chúng ta có thể giảng dài lâu, mọi người có thể có được thọ dụng hay không?
Không thấy được, giảng phía trước không nhớ được phía sau, nghe phía sau quên
hết phía trước, đây đều là sự thật. Nếu bạn chân thật muốn học Hoa Nghiêm thì
có phương pháp, mỗi buổi giảng chúng ta đều có ghi hình, bạn lấy đĩa ghi hình
này nghe lại, mỗi ngày lặp lại nhiều lần, xiết chặt không rời. Xin nói với các
vị, tâm của bạn liền định, vọng tưởng tạp niệm trong tâm của bạn liền được hàng
phục, không có thời gian khởi vọng tưởng, không có thời gian khởi vọng niệm,
lâu ngày dài tháng, trong không hề hay biết bạn liền được thiền định. Cái thiền
định này không phải ngồi xếp bằng quay mặt vào vách, mà công phu thiền định này
cao. Đối diện với thế giới muôn màu bạn không hề khởi tâm, không động niệm, ý
niệm của bạn tư duy kinh giáo. Bạn ngày ngày nghe kinh, bạn ngày ngày đang tư
duy kinh giáo, thời tiết nhân duyên chín mùi thì bỗng nhiên khai ngộ, bạn liền
khế nhập vào cảnh giới Hoa Nghiêm, bạn liền được Hoa Nghiêm Tam Muội, hoặc giả
là được niệm Phật Tam Muội, nó chân thật có hiệu quả. Người hiện đại phát minh
ra những khoa học kỹ thuật này, chúng ta phải cố gắng trưng dụng nó. Hiện tại
chỉ cần bạn chịu phát tâm học tập, thực tế mà nói, duyên thù thắng hơn rất
nhiều so với người xưa.
Vào
thời xưa nghe giảng kinh, nếu bạn căn khí tương đối tốt, bạn nghe một lần có
thể ghi nhớ, có thể lý giải thì bạn mới có thể có thọ dụng. Nếu như một lần
nghe không nhớ, không thể lý giải thì chỉ là trong A Lại Da Thức trồng được
thiện căn, trồng được duyên xa mà thôi, ngay trong một đời không thể thành tựu,
bởi vì không có cơ hội nghe được lần nữa, không có cơ hội huân tu thời gian
dài. Hiện tại lợi dụng công cụ khoa học, vấn đề này được giải quyết rồi. Về
điểm này thì người ngày nay có phước báo lớn hơn nhiều so với người xưa, thế
nhưng vấn đề là bạn có chịu dùng hay không? Nếu như người xưa được những công
cụ này, chúng ta khẳng định tin tưởng là người học Phật thành tựu phải tăng hơn
rất nhiều lần. Họ thật chịu làm. Rất đáng tiếc vào lúc đó, những khoa học này
chưa được phát minh, họ không có được cơ duyên thù thắng như vậy. Chúng ta sanh
vào thời đại này, so sánh với người xưa thì có chỗ thù thắng cũng có chỗ bất
cập. Những sự lý này chúng ta đều rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, biết
được tu học như thế nào.
Thứ nhất, bố thí ba la mật.
Làm
thế nào tu bố thí? Tâm địa đối với thế xuất thế gian pháp một trần không
nhiễm, một tí không dính, bố thí Ba La Mật của bạn liền tu được viên mãn. Nếu
như không thể thì là tu phước.
Tu
phước, Phật ở trong kinh luận nói với chúng ta rất nhiều, mỗi một người chúng
ta ngày nay sanh đến thế gian này, mọi người được thân người, vì sao bạn có thể
được thân người? Ở trên kinh Phật nói, trong đời quá khứ bạn tu năm giới mười
thiện. Nhà Phật nói năm giới là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm,
không vọng ngữ, không uống rượu. Bạn làm được rồi, cả đời đều có thể tin thủ mà
không hủy phạm, Phật nói đó là điều kiện bạn được thân người, trong đời quá khứ
đã từng tu qua cái nhân này. Không dễ dàng gì đời này được thân người, chưa nói
là gặp được Phật pháp. Như cổ thánh tiên hiền chúng ta dạy cho chúng ta luân
thường, cổ thánh đã nói ra ngũ thường. Ngũ thường cùng ngũ giới hoàn toàn như
nhau. Ngũ thường chính là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhân là không sát sanh,
nghĩa là không trộm cắp, lễ là không tà dâm, trí là không uống rượu, tín là
không vọng ngữ. Đây là cổ thánh tiên hiền giáo hóa chúng sanh, chúng ta có thể
vâng giữ thì có thể được thân người. Nhà Phật nói đó là dẫn nghiệp, dẫn dắt
chúng ta đến cõi này để thọ sanh.
Tuy
mọi người đều được thân người, nhưng mỗi một người phước báo không như nhau, có
người cả đời hưởng phước, có người cả đời trải qua được rất gian khổ, đây là do
nguyên nhân gì? Cái nguyên nhân này chính là sáu Ba La Mật. Sáu điều này không
cố gắng tu học, cho nên tuy được thân người, nhưng đời sống trải qua được rất
gian khổ. Đừng nói bạn ở nhân gian, nếu như bạn sanh thiên (dẫn nghiệp cõi trời
là thượng phẩm mười thiện, tứ vô lượng tâm), thiên nhân phước báo cũng không
giống nhau. Đại đa số thiên nhân đều hưởng phước, còn có số ít thiên nhân rất
bần cùng, không bằng người giàu có ở nhân gian chúng ta. Do nguyên nhân gì vậy?
Họ có dẫn nghiệp của thiên nhân cõi trời nhưng không có phước trời. Có thể thấy
được, tu phước vẫn là rất quan trọng, cho nên trồng nhân thiện được quả thiện,
trồng phước được phước.
Phật
nói với chúng ta, tiền của từ do đâu mà có? Tiền của là quả báo, thế gian này
có người phát tài to, có người rất nghèo khó, quyết không thể nói người này rất
giỏi, rất thông minh, rất may mắn. Người giỏi hơn so với họ, thông minh hơn so
với họ, người may mắn hơn so với họ vẫn rất nhiều, tại vì sao những người đó
không phát tài? Tại vì sao chỉ có họ phát được tài? Trong mạng của họ có. Trong
mạng vì sao mà có? Trong đời quá khứ đã tu. Phật nói với chúng ta tu tài bố thí
được quả báo tiền của, cho nên họ có tiền của thì chúng ta biết được đời trước
tu tài bố thí nhiều, ngay đời này họ mới có được tiền của. Nếu như họ không tu
tài bố thí, ngay đời này họ có thông minh hơn, có giỏi hơn, ngày tháng vẫn là
trải qua được rất nghèo khổ. Do đây có thể biết, nếu bạn muốn được tài phú, bạn
nhất định phải tu tài bố thí, bạn thí được càng nhiều thì bạn có được cũng sẽ
càng nhiều, cho và nhận nhất định rất rõ ràng, đó mới là đạo lý chân thật. Thế
gian không có việc nào may mắn mà thành tựu, chân thật là “một ngụm nước một
bữa ăn đều do tiền định”. Ai định cho bạn vậy? Chính mình định, không phải
người khác định.
Phật
nói, thông minh trí tuệ là quả báo của bố thí pháp. Bố thí pháp khai mở trí
tuệ, bố thí vô úy được khỏe mạnh sống lâu. Cái gì gọi là bố thí vô úy? Người
khác có khổ nạn, chúng ta đưa tay ra có thể cứu giúp họ, có thể an ủi họ, khiến
cho thân tâm của họ được an ổn, lìa khỏi tất cả lo buồn sợ hãi, loại sự việc
này đều gọi là bố thí vô úy. Cho nên tu ba loại bố thí này thì mới được ba loại
quả báo thù thắng. Chúng ta phải bình lặng mà quán sát sự thật quả báo của bố
thí để làm tham khảo tu học cho chính mình. Người được đại phước báo, chúng ta
gọi đó là phước huệ đầy đủ, có tiền của, lại có thông minh trí tuệ, lại có sức
khỏe tuổi thọ, phước báo ở thế gian của con người này là tương đối viên mãn.
Thế nhưng sau khi hưởng hết một đời này, họ ở ngay trong một đời hưởng phước
cũng làm được một ít việc tốt, thế nhưng không thể so sánh được với phước báo
của họ, vậy chúng ta liền biết phước đời sau của họ liền bị giáng thấp, cứ như
vậy mỗi lần xuống thấp hơn. Cho nên ở trên kinh, Phật nói lời thành thật với
chúng ta, chúng sanh sáu cõi thì thời gian ở trong ba đường ác dài, thời gian ở
ba đường thiện ngắn, đây đều là sự thật. Trong ba đường thiện, thọ mạng dài
nhất là trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, tám vạn đại kiếp. Ba đường ác, thọ mạng
dài nhất là địa ngục A Tỳ, địa ngục vô gián, thọ mạng vô lượng kiếp, ở trên
kinh chúng ta xem thấy là vô lượng kiếp, vô số kiếp, không phải là tám cái đại
kiếp mà là vô số vô lượng đại kiếp. Phật nói những lời này, chúng ta nghe được
chân thật là nổi hết cả da gà, thật là đáng sợ. Nếu như nghe rồi mà vẫn không
cảm thấy gì, xin nói với các vị, đó chính là gỗ đá vô cảm mà người xưa đã nói,
đó là một người gỗ, không biết được lợi lại. Thứ khác thì không cần nói, lợi
hại thiết thân nói ra cho bạn nghe bạn cũng không hiểu rõ, bạn còn có thể cứu
hay sao? Vừa chớp mắt thì lại trở vào ba đường để chịu báo, ba đường là cố
hương. Phật nói cho chúng ta những lời này, chúng ta phải tinh tấn, phải giác
ngộ, phải cảnh giác, việc này không phải là việc để đùa, không phải là trò đùa
đâu. Người giác ngộ thì không ai mà không tích cực cầu thoát ly ra khỏi sáu cõi
luân hồi.
Có
phương pháp gì thoát khỏi sáu cõi luân hồi hay không? Có! Phật nói ra rất nhiều
pháp môn, thảy đều là pháp môn giải thoát. Phật lại sợ chúng sanh thời kỳ mạt
pháp nghiệp chướng quá nặng, tu học pháp môn thông thường không thể có lực, A
Di Đà Phật vô lượng từ bi, xây dựng đạo tràng ở thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc là “đại Di Đà thôn”, hoan nghênh chúng ta vô điều
kiện đến nơi đó để tu học. Nơi đây của chúng ta có cư sĩ Lý Mộc Nguyên phát tâm
xây dựng thôn Di Đà nhỏ, cũng là vô điều kiện, không nhận các vị một xu tiền,
chỉ cần bạn chịu niệm Phật chịu đi, bạn thật giác ngộ rồi. Người giác ngộ mới
cầu vãng sanh, người giác ngộ hy vọng ngay trong đời này quyết định thoát khỏi
sáu cõi luân hồi. Vào ở trong thôn Di Đà chính là giúp đỡ bạn, thỏa mãn nguyện
vọng này của bạn. Cho nên thế giới Cực Lạc là thôn Di Đà lớn, tiếp nhận tận hư
không, khắp pháp giới, bao gồm tất cả những người mong cầu thoát khỏi sáu cõi
luân hồi, thoát khỏi mười pháp giới, A Di Đà Phật thảy đều thâu nạp. Loại bi
nguyện nhân từ này, tận hư không khắp pháp giới tìm không ra nơi thứ hai. Cho
nên chư Phật Như Lai tán thán A Di Đà Phật, chính là trên kinh này đã nói: “Quang
trung cực tôn, Phật trung chi vương”, đó là chư Phật tán thán đối với A Di
Đà Phật.
Chúng
ta muốn ngay đời này thành tựu thì nhất định phải hành bố thí. Bố thí chính là
buông bỏ, bố thí chính là xả, xả ở trong tứ vô lượng tâm từ-bi-hỷ-xả, phải xả
được sạch sẽ không còn gì, đem buồn phiền vướng bận của trong lòng bạn, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều xả hết. Ở ngay trong sự tướng đời sống thường
ngày chỉ lấy cái cần thiết thì tốt, cho dù chính mình có phước báo lớn, ta cũng
chỉ lấy cái cần thiết, chỉ thọ dụng mức sống có hạn chế vừa đủ thì được rồi,
không nên quá ư hưởng thụ. Bạn có phước báo là bạn có thể hưởng thụ, tại vì
sao không nên hưởng thụ quá đáng? Phật dạy chúng ta “lấy khổ làm thầy”, trải
qua đời sống đơn giản một chút, tâm cảnh giác thường sẽ nâng cao. Nếu như vừa
phóng túng, vừa giải đãi, hưởng thụ quá mức, cái thế gian này rất tốt đẹp, thế
giới Tây Phương Cực Lạc sẽ không muốn đi. Đây là Phật dạy cho chúng ta, thế
gian này chúng ta “giàu sang học đạo khó”. Bạn nói thế giới Tây Phương Cực Lạc
tốt nhưng không hề thấy qua, đời sống hiện tại này của tôi quá tốt rồi, mọi thứ
đều như ý, ở trong xã hội có tiền của, có địa vị, tất cả đều xứng ý vừa lòng,
không muốn cầu vãng sanh. Cho nên, Phật dạy chúng ta phải chân thật có tâm cảnh
giác. Ở ngay trong cuộc sống thường ngày nhất định phải giảm ít, giảm ít đến
mức thấp nhất. Mỗi ngày ba bữa có thể ăn được no, quần áo có thể mặc được ấm,
có một cái phòng nhỏ có thể che được mưa nắng thì đủ rồi, không nên hưởng thụ
quá đáng. Hưởng thụ quá đáng dễ dàng giải đãi, dễ dàng đọa lạc. Đây là chư Phật
Bồ Tát dặn bảo cho chúng ta, chúng ta phải ghi nhớ, tỉ mỉ suy xét, càng nghĩ
càng có đạo lý. Chúng ta có dư phước báo thì bố thí cho tất cả chúng sanh, cùng
hưởng với tất cả chúng sanh, đó chân thật là việc vui. Đây là hành trì của Phật
Bồ Tát, chỉ có Phật Bồ Tát mới có thể cùng đồng cộng hưởng với tất cả chúng
sanh, cho nên có phước mọi người hưởng, chính mình thọ dụng phải bình đẳng với
mọi người, quyết không vượt hơn, như vậy mới tốt. Vĩnh viễn giữ gìn tâm cảnh
giác cao độ, tâm cầu xuất ly thì phiền não của bạn tự nhiên nhẹ, trí tuệ tự
nhiên thêm lớn, đối với xuất ly, vãng sanh bạn mới chân thật có
thể nắm lấy. Cho nên tâm bố thí, hành vi của bố thí, việc làm bố thí vĩnh
viễn không gián đoạn, “thường hành”. Điều này đáng được chúng ta suy ngẫm, đáng
được chúng ta chăm chỉ nỗ lực mà làm theo. Trên bộ kinh này, bạn xem A Di Đà
Phật, chư Phật Như Lai bố thí đối với tất cả chúng sanh, Ngài đã làm ra tấm
gương cho chúng ta xem.
Ngay
trong tất cả bố thí, quan trọng nhất quyết định không thể quên đó là bố thí
pháp. Bố thí pháp là gì? Ngày nay chúng ta đã in rất nhiều kinh điển, đã in rất
nhiều hình tượng của Phật Bồ Tát, chế tác ra rất nhiều băng từ đĩa VCD, khắp
nơi kết duyên bố thí, có phải là pháp bố thí hay không? Không thể nói không
phải là pháp bố thí, chỉ là pháp bố thí nhỏ thôi. Trưa hôm nay chúng ta ở nhà
ăn lầu hai, Lão Hòa thượng Minh Sơn, Hòa thượng Nhân Đức, chúng tôi rất là hiếm
có cơ hội ngồi chung với nhau. Hai vị lão Hòa thượng rất là trăn trở, hiện tại
ở Trung Quốc, ở các nơi trên thế giới, người giảng kinh nói pháp quá ít, muốn
thành lập Phật học viện, muốn thành lập đại học Phật giáo nhưng tìm không ra
thầy giáo, có nghĩ thế nào cũng là không tưởng, cũng không thể nào thực tiễn.
Các vị đồng tu thử nghĩ xem, pháp bố thí phải nên làm thế nào? Ngày nay chúng
ta làm những bố thí pháp này chỉ là phương pháp bổ cứu mà thôi. Chân thật bố
thí pháp thì phải bồi dưỡng nhân tài, kế tục huệ mạng Phật, hoằng pháp lợi sanh
vĩnh viễn không bị gián đoạn, đó là pháp bố thí.
Thế
nên hiện tại chúng ta cũng đang nỗ lực đem lớp bồi dưỡng mở rộng ra, thành lập
Học Viện Giáo Dục Phật Đà, đó là pháp bố thí. Chỉ có thể nói so với trước đây
tiến thêm được một bước, có làm được viên mãn hay không? Không có! Phải làm thế
nào mới có thể làm được viên mãn? Các vị chân thật phát tâm làm Phật, làm Bồ
Tát, pháp bố thí này mới làm được viên mãn. Trên kinh Phật thường nói: “Thọ
trì, đọc tụng, vì người diễn nói”, đó là pháp bố thí chân thật, pháp bố thí
viên mãn. Ta tiếp thọ đối với giáo huấn của Phật, tiếp thọ được đầy đủ
tín-giải-hành-chứng thì gọi là thọ trì, nếu bạn không đầy đủ bốn chữ này thì
không gọi là thọ trì. Cho nên hai chữ thọ trì này cũng thường hay bị người hiểu
lầm, tôi thọ trì kinh Vô Lượng Thọ, cái gì gọi là thọ trì? Mỗi ngày đọc qua một
lần gọi là thọ trì. Đó là hoàn toàn sai lầm. Mỗi ngày đọc qua một biến chỉ là
đọc tụng, đó không phải là thọ trì. Thọ trì phải đầy đủ tín-giải-hành-chứng. Ta
đối với bộ kinh này tin sâu không nghi; ta có thể lý giải những đạo lý trong
kinh này đã nói; có thể thực tiễn ở ngay trong đời sống của chính mình, chân
thật đem nó làm cho được; đạo lý, phương pháp và công đức mà trong Phật kinh đã
nói ta chân thật có được, đó là chứng. Tín-giải-hành-chứng, nếu thiếu đi một
chữ thì thọ trì không viên mãn. Cho nên chính mình chân thật có thể làm được vì
người diễn nói, biểu diễn cho người xem, như sau cùng 53 đồng tham trong kinh
Hoa Nghiêm, bạn xem Thiện Tài Đồng Tử cùng các vị thiện hữu đem Phật pháp làm
ra cho người xem, đây gọi là diễn. Nói là khi người ta đến hỏi, mình tỉ mỉ mà
giảng giải cho họ nghe. Chúng ta xây giảng đường, mỗi ngày ở trong giảng đường
khai giảng đó gọi là nói, làm ra cho người xem đó gọi là diễn. Diễn là thân
giáo, nói là ngôn giáo, thọ trì là ý giáo. Thân-ngữ-ý ba luân giáo hóa, đây mới
là gia nghiệp của nhà Phật, gia nghiệp Như Lai.
Từng
câu từng lời nói ở trên kinh mà Phật đã nói không hề sai, rất nhiều người đọc
kinh hiểu sai đi ý nghĩa, hiểu ý nghĩa chưa sâu, hiểu lệch đi ý nghĩa, cho nên
lợi ích chân thật vĩnh viễn không thể có được. Không có được nhưng họ không
quay đầu lại kiểm điểm chính mình, không phản tỉnh, còn cho rằng kinh Phật là
không đáng tin, còn hoài nghi đối với thánh giáo, tạo tội nghiệp nghiêm trọng,
tạo thành chướng ngại của chính mình, như vậy thì họ làm sao có thể khai ngộ,
làm sao có thể khế nhập? Những đạo lý này nhất định phải hiểu. Không hiểu thì
pháp môn bố thí này bạn không cách gì tu được, bạn không thể tu. Bạn khởi tu
cũng không được như lý, không được như pháp. Đương nhiên cũng có thể được chút
quả báo nhỏ, phước nhỏ trời người, nhưng bạn không có được công đức lợi ích thù
thắng chân thật.
Chỗ
này tóm lại một câu mà nói, vẫn là do nghe kinh quá ít. Cho nên chúng ta thử
nghĩ xem, Thế Tôn năm xưa ở đời 49 năm, ngày ngày giảng kinh nói pháp. Phật là
người tái lai, không phải phàm phu, một ngày nói tám giờ đồng hồ, nếu một ngày
nói luôn 24 giờ thì Ngài cũng không mệt. Không như phàm phu chúng ta, nói nhiều
rồi thì mệt, Ngài là vĩnh viễn không mệt không mỏi, đây là ân đức không gì sánh
bằng của Phật đối với chúng sanh. Cho nên năm xưa có nhiều người như vậy đi
theo Ngài, chúng thường tùy, trên kinh đã ghi chép có 1.255 người, đó là đệ tử
theo Phật xuất gia, tham gia tăng đoàn này, không rời khỏi Thế Tôn một bước.
Đây là con số ghi chép, còn số không ghi chép, các vị phải nên biết là còn
nhiều hơn rất nhiều so với số người này. Đệ tử tại gia không thể nói là suốt
năm đi theo Thế Tôn, khi họ có thời gian rảnh thì sẽ đi theo Thích Ca Mâu Ni
Phật một vài ngày, một vài tháng, ngay trong tưởng tượng của chúng ta là hai,
ba tháng, nửa năm, một năm, ba năm, năm năm, số người này nhất định là rất
nhiều. Số đệ tử này không có ghi chép trên kinh sách, thế nhưng chúng ta thường
hay xem thấy trên kinh sách, ngoài chúng Tỳ Kheo ra, có chúng Bồ Tát, có chúng
thiên nhân, trong số người đó bao gồm cả những số người không có ghi chép kia.
Cũng
như hiện tại ở nơi đây chúng ta xây dựng giảng đường cùng niệm Phật đường vậy,
đồng tu cư ngụ ở Singapore ngày ngày đến tham gia, mỗi một lần giảng tôi đều
xem thấy các vị đến nghe kinh, các vị đến nơi đây niệm Phật. Thế nhưng người
khu vực bên ngoài Singapore đến nơi đây một tuần lễ, hai tuần lễ, một tháng,
hai tháng thì rất nhiều, những người này không thuộc về chúng thường tùy. Tình
hình chúng ta ngày nay là như vậy, Thế Tôn năm xưa ở đời lại chẳng phải như vậy
sao? Do đây có thể thấy, pháp duyên pháp hội thù thắng, nhân duyên hy hữu, chỉ
có chân thật giác ngộ, người chân thật nhận biết giáo dục của Phật thì họ mới
chịu ham học, họ mới có thể học thành công. Sau khi học thành thì làm tấm gương
cho người khác. Đến nơi đây học một thời gian, khí chất cải biến, gọi là thay
đổi khí chất. Khi bạn quay về thì những bạn bè đồng tham của bạn, sau khi xem
thấy bạn cảm thấy bạn hoàn toàn khác, sau khi ra đi thời gian không bao lâu quả
nhiên liền có thay đổi, thế là họ cũng đến nơi đây học, liền chịu ảnh hưởng của
bạn. Bạn ảnh hưởng những người này đến nơi đây để tham học, bạn chính là tiếp
dẫn họ, độ hóa họ. Cho nên, chính chúng ta sau khi học xong chân thật làm đến
được, tự hành thì là hóa tha. Không phải ngoài tự hành ra có một bộ hóa tha. Tự
hành cùng hóa tha là một sự việc, hóa tha chính là tự hành, tự hành chính là
hóa tha, một mà hai, hai mà một, bạn mới có thể dần bước vào cửa của Phật pháp.
Thứ hai là trì giới ba la mật.
Không
chỉ là Thế Tôn vì chúng ta chế định ra những giới điều này, mà trong giới điều
đã quy định có một bộ phận là vĩnh cửu, dùng lời hiện tại của chúng ta mà nói là
siêu việt thời không, không bị hạn chế thời gian, cũng không bị hạn chế bởi
không gian. Thời gian là quá khứ, hiện tại, vị lai. Thế Tôn vào ba ngàn năm
trước, người nước ngoài hiện đại nói là hơn 2.500 năm, trong điển tích chúng ta
ghi chép là hơn 3.000 năm trước; không luận là 2.500 hay là 3.000, tóm lại mà
nói, thời đại này rất lâu xa rồi, thời đại đó cùng thời đại hiện tại của chúng
ta tuyệt đối không như nhau. Phật chế định giới điều vào thời đại đó thì thích
hợp, đến thời đại hiện tại này vẫn thích hợp, đây gọi là siêu việt thời gian.
Trong giới điều có những gì? Hiện tại chúng ta gọi là căn bản giới, đó là quyết
định siêu việt thời gian, thuộc về nghi qui.
Oai
nghi đời sống thì không thể siêu việt thời gian. Phương thức đời sống xưa và
nay không như nhau, rất nhiều hạn chế hoàn toàn khác nhau, ý thức hình thái
không như nhau, do đó thời đại đó trở thành lịch sử, quá khứ rồi. Thế nhưng
chúng ta phải hiểu được tinh thần của nó, không trái với tinh thần của giới
luật, tưởng tượng hiện tại phải nên làm như thế nào. Đây là nói vấn đề trên
thời gian. Không gian thì sao? Thế Tôn năm xưa giáo học du hóa là ở Ấn Độ. Ấn
Độ của thời xưa, vào lúc đó giao thông không thuận tiện, Thế Tôn chưa hề đến
Trung Quốc, các học trò của Ngài cũng không có đến Singapore, hơn nữa mỗi một
quốc gia, mỗi một dân tộc, bối cảnh văn hoá lịch sử không như nhau, phương thức
đời sống không như nhau, tư tưởng tín ngưỡng cũng không như nhau, do đó ngoài
giới cơ bản ra thì không thể siêu việt. Cơ bản giới thì không luận là ở một khu
vực nào, không luận ở một quốc gia nào, không luận tín ngưỡng tôn giáo nào, mọi
người đều công nhận, vậy thì siêu việt không gian. Không sát sanh, không trộm
cắp thì không luận là tôn giáo nào cũng đều có giới điều này, đây là siêu việt.
Không luận ở một quốc gia nào, một dân tộc nào, không có người nào nói sát sanh
là việc nên làm, trộm cắp là việc có thể làm. Trong Phật pháp cơ bản giới có
bốn điều là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ. Không
uống rượu thì đối với thời không thì không được. Cho nên Phật chế định căn bản
giới là bốn điều, xác thực là siêu việt thời không, chúng ta nhất định phải
tuân thủ.
Giới
điều không uống rượu này, Phật nói ra rất rõ ràng gọi là giá giới, bốn giới còn
lại gọi là tánh giới. Hay nói cách khác, không luận bạn thọ giới hay không thọ
giới, không luận bạn hiểu hay không hiểu giới, bạn phạm rồi đều có tội, không
thể nói tôi không có thọ giới thì tôi phạm không có tội, không có đạo lý này.
Bạn không có thọ giới, phạm rồi thì vẫn là phạm tội. Thế nhưng giới điều không
uống rượu này, nếu bạn chưa thọ qua giới thì không phạm tội. Vậy tại vì sao
Phật chế định ra giới điều này? Rượu có thể loạn tánh, sau khi say rượu rồi thì
làm những việc giết người trộm cắp, cho nên bảo bạn không uống rượu là giữ cho
đầu óc của bạn được tỉnh táo, không đến nỗi mê hoặc, không đến nỗi phạm tội.
Giới rượu là thuộc về phòng ngừa bạn phạm tội, bản thân uống rượu không có tội,
cho nên cũng đem nó xếp vào trong trọng giới. Đây được xem là đại giới, tuy
không phải căn bản nhưng nó được xem là đại giới. Đây là thuộc về giới điều.
Ngoài
giới điều ra, trì giới là nghĩa rộng, không phải nghĩa hẹp, đây là nói qui phạm
đời sống của Phật Bồ Tát, điển phạm của đời sống. Đời sống của các Ngài chính
là điển phạm của chúng ta, ở ngay trong đời sống của các Ngài lưu xuất ra rất
tự nhiên. Chúng ta phải học với các Ngài. Theo nghĩa rộng, những lời Phật dạy
trong tất cả kinh giáo chúng ta đều phải tuân thủ, đều phải học tập, đó là trì
giới. Giới điều này chính là lời răn dạy của Phật tổ, Ngài đã nói ra những lời
giáo huấn này để dạy bảo chúng ta, chúng ta nhất định phải y giáo phụng hành.
Cho nên phạm vi của giới luật rất lớn, trong nhà Phật cũng đem nó quy nạp thành
ba loại lớn.
Loại thứ nhất là luật nghi giới. Đây chính là Phật đã chế định, có
điều văn quy định rõ ràng. Luật nghi điều văn quy định bao gồm tất cả pháp luật
thế gian hiện tại chúng ta, bao gồm tất cả những quy ước, nó đều là có văn tự
ghi chép, đây là thuộc về luật nghi. Mỗi một quốc gia khu vực, mỗi một thời đại
khác nhau, đây là chúng ta nói đến Phật pháp phải biết hiện đại hóa, bổn thổ
hóa, thì Phật pháp mới có thể thường trụ ở thế gian. Nếu như Phật pháp không
hiểu được bổn thổ hóa, không hiểu được hiện đại hóa, nó nhất định ở khu vực Ấn
Độ đó thì đã sớm biến thành lịch sử rồi, làm sao có thể truyền tiếp được. Có
thể truyền tiếp là siêu việt thời không. Siêu việt thời không thì nhất định
phải thích hợp hiện đại hóa cùng bổn thổ hóa của các khu vực. Ngoài giới điều
căn bản ra, tất cả giới luật cũng phải hiện đại hóa, cũng phải bổn thổ hóa.
Như
vào thời Đường Trung Quốc, đại sư Bách Trượng thành lập thanh qui, thanh qui đó
chính là Trung Quốc hóa giới luật thời xưa. Vào lúc đó, triều nhà Đường đã
Đường hóa, ngày nay chúng ta gọi là hiện đại hóa, bổn thổ hóa, bổn thổ hóa giới
luật hiện đại. Đời sống của chúng ta hiện đại, tùy theo khoa học kỹ thuật, khoa
học ngày càng tiến bộ, đời sống nhân văn của chúng ta cũng bị ảnh hưởng, cũng
theo đó mà thay đổi. Cho nên các vị phải nên biết, pháp luật cứ cách vài năm
thì phải tu đính một lần. Tại vì sao phải tu đính? Tu đính chính là thời đại
không giống nhau, cách vài năm thì những pháp luật đó hiện tại không còn thích
hợp nữa, cho nên không ngừng tu sửa, không ngừng hiện đại hóa, không ngừng
thích hợp với địa phương hóa thì chúng ta ở nơi đây, mọi người sinh hoạt ở khu
vực này được thuận tiện. Cho nên pháp luật, qui ước thường phải tu sửa. Có
những pháp luật một năm phải tu sửa hai ba lần, thậm chí ngay đến hiến pháp
cách vài năm phải trùng tân kiểm thảo một lần, tu đính điều văn, đều là cái đạo
lý này.
Loại thứ hai là nhiếp thiện pháp giới. Ngoài bộ phận luật nghi này ra, Phật
còn giảng cho chúng ta nghe “nhiếp thiện pháp giới”. Nhiếp thiện pháp thì không
có điều văn qui định, thế nhưng những sự việc này là lợi ích tất cả chúng sanh,
lợi ích xã hội, ngày nay chúng ta gọi là với xã hội an định phồn vinh, có quan
hệ với thế giới hòa bình hạnh phúc. Tuy trong kinh Phật không có nói, điều văn
pháp luật thế gian cũng không có nói, cũng không qui định chúng ta phải làm,
nhưng chúng ta phải nên làm, đó là nhiếp thiện pháp giới. Biết được đây là việc
thiện, tuy không có dạy chúng ta làm, chúng ta cũng làm.
Loại thứ ba gọi là “nhiêu ích hữu tình giới”. Bởi vì trong nhiếp thiện pháp giới
có tự lợi lợi tha, nhiêu ích hữu tình giới có lợi ích đối với tất cả chúng
sanh, có thể không có lợi ích đối với chúng ta, có nên làm hay không? Nên làm,
xả mình vì người. Tóm lại mà nói, chúng ta nhất định phải nên hiểu, lấy lợi ích
của tất cả chúng sanh làm hạnh phúc của chính chúng ta, đây gọi là tâm từ bi,
đây là tâm Bồ Tát. Bồ Tát có thể xả mình vì người, hy sinh chính mình thành tựu
người khác, nhiêu ích hữu tình.
Do
đây có thể biết, phạm vi trì giới rất là rộng. Thông thường chúng ta dùng lời
hiện đại để giải thích trì giới, tôi thường nói “thủ pháp”, vậy thì mọi người
dễ hiểu. Trì giới thì không dễ hiểu, còn cần phải giải thích, dùng thủ pháp thì
khái niệm tương đối rõ ràng hơn, tức là tuân thủ giáo pháp của Phật, tuân thủ
pháp luật của quốc gia, tuân thủ qui ước của địa phương. Chúng ta đến nhà của
người ta cũng có lễ tiết của nhà người, cũng có gia pháp của nhà người. Đến một
đạo tràng, một đạo tràng cũng có qui ước của nó, chúng ta nhất định phải tuân
thủ. Chúng ta có thể thủ pháp thì mới có thể được hoan nghênh của đại chúng,
mới có thể ở chung hòa thuận với đại chúng. Cho nên đến một khu vực, nhất định
phải hiểu rõ pháp luật của địa phương đó, phải hiểu rõ phong tục tập quán, quan
niệm đạo đức của địa phương đó. Chúng ta ở nơi đây, lời nói hành động không nên
có xúc phạm, không hiểu thì phải thường hỏi, nên gọi là nhập cảnh phải tùy tục,
đó là hiện đại hoá và bổn thổ hóa của việc trì giới. Như vậy thì điều này chúng
ta mới có thể làm được đúng pháp, như lý như pháp, người thông thường chúng ta
gọi là “hợp tình, hợp lý, hợp pháp”, như vậy mới làm đến viên mãn.
Thứ ba là nhẫn nhục ba la mật.
Ý
nghĩa chính là phải nhẫn nại. Nhẫn nại phiên dịch trong Phật kinh dịch thành
nhẫn nhục, đây là các pháp sư dịch kinh ngày trước có dụng ý dùng cái chữ này.
Vào thời xưa, tiếp xúc Phật pháp sớm nhất là giai cấp sĩ phu, nếu dùng lời hiện
đại mà nói thì là phần tử tri thức Trung Quốc. Khi Phật giáo truyền đến Trung
Quốc, tiếp xúc sớm nhất là một số phần tử tri thức. Đế vương, đại thần, phần tử
tri thức, họ tiếp xúc Phật pháp sớm nhất. Ở Trung Quốc, trong giai cấp sĩ đại
phu, chúng ta xem thấy trong sách xưa có câu nói là “sĩ khả sát, bất khả nhục”.
Sĩ chính là phần tử tri thức. Phần tử tri thức có khí tiết, có thể chặt đầu,
không thể vũ nhục. Những vị pháp sư dịch kinh nghe được lời nói này nên dịch
thành “nhẫn nhục”, nhục mà còn có thể nhẫn thì còn có thứ gì không thể nhẫn?
Cho nên đặc biệt dùng chữ này. Đây không phải là bổn nghĩa của sáu Ba La Mật.
Bổn nghĩa của sáu Ba La Mật là nhẫn nại. Phiên dịch ở Trung Quốc đặc biệt dùng
chữ này, cũng chính là người Trung Quốc xem sự vũ nhục quá nặng, chấp trước quá
đáng. Các đại sư này có trí tuệ, mong muốn phá đi chấp trước này của bạn. Không
nên quá xem trọng, không nên quá so đo, nhục cũng phải nên nhẫn, lấy cái ý này.
Trong
nhẫn nhục, Phật quy nạp làm ba loại lớn. Thứ nhất là đối với người, chúng ta
gọi là đối nhân sự, cũng chính là tai hại do con người làm, tổn hại do con
người làm, việc nhỏ người khác không lượng thứ đối với chúng ta, vũ nhục đối
với ta, hủy báng đối với ta, chướng ngại đối với ta, thậm chí hãm hại đối với
ta, thảy đều có thể nhẫn, quyết định không có ý niệm báo thù. Tại vì sao không
nên có ý niệm báo thù? Nhất định phải nên hiểu, trong đây quyết định có nhân tố
của nhân quả. Họ hủy báng ta, hãm hại ta, tại vì sao họ không hủy báng người
khác hãm hại người khác? Cho nên chúng ta nhất định phải chính mình phản tỉnh,
chính mình tư duy, quả báo này ắt có nhân phía trước, hoặc giả là ngay trong
đời quá khứ ta đã dùng thái độ này đối với họ, họ ngày nay nhân duyên hội đủ,
họ hồi báo đối với ta. Ta hiểu rõ ta phải nên thừa nhận, không nên so đo, ân
oán của chúng ta liền được hóa giải ở ngay đây, vậy thì tốt. Phật dạy cho chúng
ta: “Oan gia nên giải không nên kết”, đây là khai thị rất là quan trọng,
chúng ta quyết định không nên kết oán với người. Bị oan uổng quyết định không
thể né tránh, vì sao vậy? Trong đời quá khứ vô lượng kiếp đến nay ngu si không
biết, chúng ta đã kết bao nhiêu oán với tất cả chúng sanh. Ngày nay bị những
tai nạn này, nghĩ lại phải nên chịu, không có lời gì để nói. Cho nên ở ngay
trong tất cả nghịch cảnh không như ý, chúng ta liền thản nhiên, tự tại mà trải
qua, cũng hoan hỉ tiếp nhận. Đây chân thật gọi là tiêu tai giải nạn. Nghiệp
chướng của bạn, tai nạn của bạn cứ như vậy mà tiêu trừ, đời sau thì không còn,
đã trả hết nợ rồi. Cái điểm này rất quan trọng. Cho nên người học Phật, nếu
muốn học Bồ Tát, quyết định không kết oán thù với bất cứ chúng sanh nào, chúng
ta chỉ có hóa giải, quyết định không nên tạo oán kết tiếp. Bất cứ tai nạn gì,
bất cứ khổ báo gì cũng đều chấp nhận, đại sư Ấn Quang gọi là cho dù bị người
khác ngũ mã phanh thây, hình phạt tàn khốc mà chết cũng không có chút tâm oán
hận.
Trong
Phật kinh, các vị đã đọc qua kinh Kim Cang. Trong kinh Kim Cang nói qua câu
chuyện này, thế nhưng nói rất đơn giản, Ca Lợi Vương cắt xẻo thân thể. Câu
chuyện này nếu các vị muốn biết nhiều một chút thì trong kinh Đại Niết Bàn, văn
tự ghi chép câu chuyện này rất tường tận. Nhẫn nhục tiên nhân có thể nhẫn nhục,
không những không có ý niệm báo thù, một ý niệm oán hận cũng không có, cho nên
Phật nói đó là hiện tượng nhẫn nhục Ba La Mật viên mãn. Do đó, người khác vô
duyên vô cớ hãm hại chúng ta, đó chẳng phải là thành tựu nhẫn nhục Ba La Mật
cho chúng ta hay sao? Nếu không thì pháp môn này đến nơi đâu để tu? Nếu bạn
muốn hiểu rõ được đạo lý này, không những không có tâm oán hận mà còn cảm tạ,
cảm ơn họ đã tạo cơ hội để cho ta tu nhẫn nhục Ba La Mật. Nếu như không có
những người ác và nghịch cảnh đến dày vò, thì nhẫn nhục Ba La Mật chúng ta
không có chỗ để tu. Hiểu rõ đạo lý này, thấu đáo chân tướng sự thật, thì những
người này là đại thiện tri thức của chúng ta, là đại ân nhân của chúng ta,
chúng ta làm sao có thể dùng tâm ác để đối đãi với ân nhân?
Cùng
đồng một đạo lý như vậy, người khác có cái tốt với ta, thường hay chăm sóc ta,
quan tâm ta, đó là thuận cảnh. Thuận cảnh cũng phải nhẫn nhục Ba La Mật, tại vì
sao vậy? Nếu như không tu nhẫn nhục, bạn sẽ tăng thêm lòng tham, tham luyến thì
cũng phiền rồi. Nghịch cảnh sanh sân hận, thuận cảnh sanh tham luyến, đều đọa
lạc. Mọi người không nên cho rằng người ác đáng ghét, mà người thiện cũng đáng
ghét. Nếu bạn không có trí tuệ thì hai bên đều đọa lạc, không phải đọa lạc bên
đây thì cũng đọa lạc ở bên kia, trong thuận cảnh luôn luôn đọa lạc thê thảm hơn
so với trong nghịch cảnh nhiều, nhiều hơn so với phía người ác này. Cho nên đời
người đích thực là hiểu đạo, trong thuận cảnh nắm lấy chính mình, quyết định
không thể đọa lạc, không thể khởi lên tâm tham.
Buổi
sáng hôm nay, tôi nói với mọi người, thức ăn của Cư Sĩ Lâm hiện tại không tệ,
nhà ăn của lầu hai tôi thấy vượt hơn so với Hoằng Quốc, không thể nào ít hơn.
Sợ là mọi người xem thấy nhiều thức ăn đến như vậy, làm được ngon đến như vậy,
làm được sạch sẽ đến như vậy, bạn cầm lấy cái đĩa, mỗi một món gắp lấy một ít
thì là bạn ăn đã quá nhiều rồi, đối với sức khỏe của bạn có chướng ngại. Đó là
thuận cảnh. Bạn thấy nhiều người như vậy nhiệt tâm cúng dường, là thuận cảnh.
Chính mình nếu có trí tuệ, ở trong đó chỉ lấy thứ cần thiết, ta chỉ cần mấy món
ăn no là được rồi, không nên ăn quá no, ăn bảy phần tám phần thì được rồi, vạn
nhất không nên tham thố, làm hư đi thân tâm của chính mình. Ăn quá no không dễ
tiêu hóa, bạn dễ dàng bị bệnh bao tử. Thân bạn hỏng rồi, tâm làm sao không
hỏng? Khởi lên tâm tham, món này ăn ngon, món kia ăn cũng ngon, bạn đã khởi lên
tâm tham, cho nên thân tâm bạn đều bị chướng ngại. Ta không bảo họ cúng dường
ít đi một chút, tại vì sao vậy? Người ta tu phước mà, cũng là nhiều người như
vậy đến ăn cơm, khẩu vị mọi người không như nhau. Cho nên khi chúng ta đi lấy
thức ăn, chọn lựa thứ mình ưa thích, chọn lựa ba bốn loại thì đủ rồi, không nên
mỗi thứ đều lấy, đây là lòng tham. Chỉ lấy thứ mà mình cần thôi, chọn vài món
thì tốt rồi. Cho nên chính mình phải giữ lấy trí tuệ cao độ. Đây đều là tu nhẫn
nhục Ba La Mật. Ăn cơm cũng là tu nhẫn nhục Ba La Mật, xem bạn có thể nhẫn hay
không? Do đây có thể biết, nhẫn nại là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, từng
li từng tí đều phải biết đủ, đều phải giữ lấy bổn phận của chính mình, biết
được thứ chính mình cần thiết, vừa đủ mà thôi, đó chính là nhẫn nhục Ba La Mật.
Cho nên nhẫn nhục Ba La Mật, thực tế mà nói, chính là tu tri túc thường lạc.
Đây là chúng ta nói đối với hoàn cảnh nhân sự. Trong hoàn cảnh nhân sự cũng có
thuận nghịch.
Loại
thứ hai là hoàn cảnh đời sống của chúng ta, hoàn cảnh vật chất, phạm vi này bao
gồm rất rộng. Chúng ta ở ngay trong cuộc sống, có thuận cảnh cũng có nghịch
cảnh. Nhất là hoàn cảnh tự nhiên, trong một năm có thay đổi xuân, hạ, thu,
đông. Singapore ở gần đường xích đạo, đây là khu vực mùa hạ dài, một năm chỉ có
một quý. Chúng ta suốt năm sống ở khu vực này gần như không có cảm giác gì, thế
nhưng hiện tại do vì đời sống dư giả, giao thông thuận tiện, mùa hạ mọi người
đều đi du lịch trải qua mùa hè. Bạn đi đến khu vực mà hoàn cảnh đời sống khác
với nơi đây. Nếu như bạn muốn đi đến phương Bắc, phương Bắc hiện tại là mùa
đông, bạn phải có thể nhẫn nại, nhận chịu đối với giá lạnh. Phương thức đời
sống khác nhau, ý thức hình thái khác nhau, một số qui củ khác nhau. Thí dụ
chúng ta ở nơi đây, các vị lái xe, tay lái xe là ở bên phải, ở Đài Loan thì tay
lái xe là ở bên trái. Nếu như bạn đến nơi đó tự mình lái xe, thì bạn phải thích
ứng với hoàn cảnh. Đây đều là nói đến thích ứng, chính là nói phải nhẫn nại.
Thời gian bạn cư ngụ ngắn thì bạn có mấy ngày nhẫn nại ngắn ngủi, thời gian bạn
cư ngụ dài thì bạn phải nhẫn nại thời gian dài. Đây là nói chúng ta đối với
thay đổi của hoàn cảnh tự nhiên phải có nhẫn nại thì mới có thể thích ứng.
Loại
thứ ba Phật nói là tu học. Tu học bao gồm thế xuất thế gian pháp, chúng ta muốn
học một thứ nào thì không phải vài ngày, mấy giờ thì liền có thể học xong, nhất
định cũng là thời gian dài. Giáo học của thế gian có tiểu học, có trung học, có
đại học. Trong quá trình cầu học, nếu như không có nghị lực, không có quyết
tâm, không có sức nhẫn chịu thì sự nghiệp học tập của bạn không thể hoàn thành.
Tu hành cũng là như vậy. Không luận tu học một pháp môn nào đều là thời gian
dài, không phải thời gian ngắn. Trong tất cả pháp môn, mọi người đều nói pháp
môn Tịnh Độ là đạo dễ hành. Đạo dễ hành là so với các pháp môn khác thì pháp
môn này dễ làm, bạn không thể xem là quá dễ dàng, mà là so với các pháp môn
khác thì pháp môn này tương đối dễ dàng, nhưng vẫn là phải có tâm nhẫn nại,
phải có nghị lực thì bạn mới có thể tu thành công.
Bộ
kinh Vô Lượng Thọ này, ở trong tất cả kinh điển Đại thừa, đích thực nó không
được xem là phân lượng quá dài, cũng không được xem là quá cao thâm, mà rất là
thích hợp với người hiện tại tu học. Văn tự của kinh cạn sâu vừa vặn, dài ngắn
thích hợp. Hội tập của Hạ Lão cư sĩ công đức vô lượng vô biên, dẫn dắt chúng
sanh có duyên 9.000 năm Mạt Pháp về sau, quyết định là do bộ kinh điển này mà
được độ. Từ trong bộ kinh điển này đã xây dựng nền tảng tín-giải-hành-chứng,
niệm Phật vãng sanh bất thoái thành Phật. Kinh văn tuy là không nhiều, nhưng
cũng phải có tâm nhẫn nại. Đọc qua một lần từ đầu đến cuối, tôi khuyên các vị
không nên đọc quá nhanh, đọc chậm một chút, đọc cho ra ý nghĩa của nó thì bạn
mới chân thật có được thọ dụng. Người xưa thường nói: “Tùy văn nhập quán”,
câu nói này rất quan trọng. Tùy theo văn kinh chúng ta liền khế nhập cảnh giới,
đây gọi là biết đọc. Không biết đọc thì chỉ là đọc văn tự, sau khi đọc xong thì
là cái gì cũng không hề biết, ý nghĩa gì cũng không biết. Cho nên đọc tụng vạn
nhất không nên thời gian quá vội. Ta đọc được rất nhanh, nửa giờ đồng hồ thì
đọc xong, đây là trả bài đối với Phật Bồ Tát, dường như là đọc để các Ngài
nghe, không liên quan gì với chính ta. Sáng sớm đọc một lần, hoặc là đọc hai
lần, có người phát tâm đọc ba lần, đều là đọc rất nhanh. Xong việc rồi, ta là
học trò tốt, ta một ngày đọc ba biến, kỳ thật tín-giải-hành-chứng hoàn toàn
không có. Đọc như vậy cũng như không đọc, đó chính là người xưa đã nói “đau mồm
rát họng chỉ uổng công”. Cho nên các vị phải nên biết, đọc kinh từng câu
từng chữ phải tương ưng với tín-giải-hành-chứng. Đọc một câu A Di Đà Phật cũng
phải tương ưng. A Di Đà Phật, khi bạn niệm bốn chữ này, bên trong cũng phải
đầy đủ tín-giải-hành-chứng thì công phu của bạn làm sao mà không có lực chứ?
Làm sao mà bạn không có thành tựu? Ngày nay chúng ta làm việc chỉ là ở trên bề
nổi, không hề ở trên thực chất mà hạ công phu, cho nên tu tập thế nào cũng đều
cách một tầng. Bạn không có tâm nhẫn nại thì bạn làm sao có thành tựu? Niệm
Phật phải có tâm nhẫn nại, đọc kinh cũng phải có tâm nhẫn nại, học tập cũng phải
có tâm nhẫn nại, trong cách tu phải có nhẫn nhục thì bạn mới có thể thành tựu.
Nhất là một môn thâm nhập, huân tu dài lâu thì càng cần phải có tâm nhẫn nại
rất lớn.
Hiện
tại công tác trù bị của Phật Học Viện chúng ta cùng thôn Di Đà tương đối thuận
lợi. Buổi trưa hôm nay, Cư Sĩ Lý nói với tôi, trường học bên Dương Li Cảng họ
đã quyết định dọn đi, thời gian họ yêu cầu là cho họ hai tháng để họ dọn đi. Cư
Sĩ Lý hy vọng càng nhanh càng tốt. Sau khi họ dọn đi, sau khi chúng ta tiếp
nhận rồi, tôi nghĩ quét dọn, phun sơn, chỉnh lý, trang hoàng lại, đại khái thời
gian hơn một tháng thì chúng ta có thể dọn vào, lớp bồi dưỡng của chúng ta liền
biến thành Phật Học Viện. Khóa trình của Phật Học Viện, dự khóa một năm, chánh
khóa ba năm, lớp nghiên cứu ba năm, toàn bộ học trình là bảy năm. Bạn phải có
lòng nhẫn nại học qua bảy năm thì bạn mới có thể tốt nghiệp được. Nếu bạn không
có lòng nhẫn nại thì bạn không có thành tựu. Bảy năm học cái gì? Một môn. Một
môn thâm nhập thì bạn mới có thể thành tựu. Học một môn nào? Các học trò tự
mình chọn lựa, chúng ta không hạn chế, chính bạn ưa thích một môn nào thì chọn
lấy một môn này, thời gian bảy năm một môn thâm nhập. Chọn lấy một bộ Phật
Thuyết A Di Đà Kinh cũng phải học bảy năm, không thể nói tôi chọn lấy cái nhỏ,
tôi vài tháng thì có thể tốt nghiệp rồi, vẫn là phải học bảy năm thì A Di Đà
Kinh mới học được tốt. Trong dự khóa một năm, tôi có một cách nghĩ, học Di Đà
Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh, trong lớp chánh khóa học Di Đà Kinh Yếu
Giải. Yếu Giải thì có hai người thời cận đại chú giải, pháp sư Viên Anh có Yếu
Giải giảng nghĩa, pháp sư Bảo Tịnh có Yếu Giải Thân Văn Ký, hai thứ này đủ để
cho bạn học ba năm. Lớp nghiên cứu ba năm, học Sớ Sao của Đại Sư Liên Trì. Một
bộ kinh A Di Đà cũng phải học bảy năm. Sau bảy năm, bạn đem kinh Di Đà nghiên
cứu được thấu triệt, bạn ra bên ngoài đi giảng kinh Di Đà, người ta chắp tay
nói A Di Đà Phật đến rồi, A Di Đà Phật đến giảng cho chúng ta nghe kinh A Di
Đà, như vậy mới có thể thành tựu. Cho nên tương lai học viện Phật Giáo chúng
ta, thậm chí tương lai diễn biến thành đại học Phật Giáo, học trò chúng ta đều
là một môn thâm nhập. Khóa trình chúng ta xếp trong Phật học viện so với các
trường học khác, phương pháp giáo học hoàn toàn không như nhau. Phật Học Viện
chúng ta nơi đây chưa đúng với chức danh của nó, chúng ta đến nơi đây là để học
làm Phật, là học làm Bồ Tát, không phải làm thứ khác. Hoàn toàn khác với nơi
khác, quyết định không như nhau. Đây là nói bạn tu học “nhẫn nhục”.
“Thường hành bố thí cập giới nhẫn
Tinh tấn định huệ Lục Ba La
Vị độ hữu tình linh đắc độ
Dĩ độ chi giả sử thành Phật”.
Đoạn
kinh văn này là nói rõ A Di Đà Phật phát tâm ở nhân địa. Trong kinh văn phát
tâm tổng cộng phân làm sáu đoạn nhỏ, đây là đoạn nhỏ thứ tư, “tất linh thành
Phật”. Trong bốn câu kệ văn đầy đủ cả Tứ Hoằng Thệ Nguyện, khi vừa mở đầu liền
đem hành môn của Bồ Tát vì chúng ta nói ra. Cái gì là Bồ Tát hạnh? Chính là
trong kinh luận thường gọi là sáu phép Ba La Mật. Sáu Ba La Mật hàm nghĩa sâu
rộng vô hạn. Thông thường phàm phu chúng ta cũng học theo tu bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, vậy có xem là Bồ Tát hạnh hay không? Không thể xem là Bồ Tát hạnh,
vì sao vậy? Bởi vì bạn không có tâm Bồ Tát, phải có tu tâm Bồ Tát mới là Bồ Tát
hạnh, không có tâm Bồ Tát, học mấy thứ này chỉ là làm bộ làm dáng, học dáng vẻ
của Bồ Tát, vậy thì không thể học được. Cho nên quan trọng nhất là phải hiểu
được phát tâm. Phát tâm, kinh văn trước và sau bổn kinh đều nói đến. Phật là
dùng cái tâm gì? Phật dùng cái nguyện gì? Chúng ta trước tiên phải tường tận
điều này.
Người
tu học Đại thừa không thể nói họ không dụng công, không thể nói họ không nỗ
lực. Ngay trong đồng tu chúng ta, người xuất gia, tại gia dũng mãnh tinh tấn
chúng ta thấy được, ngày đêm không ngủ không nghỉ ở nơi đó học tập, nhưng thành
quả như thế nào? Thực tế mà nói đều là bình bình. Cái nguyên nhân này rốt cuộc
ở nơi đâu? Nguyên nhân là bạn chưa có phát tâm Bồ Đề. Bổn kinh Thế Tôn
dạy bảo chúng ta, vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, trong ba bậc vãng
sanh, trong phẩm thứ nhất nói rất hay, một câu nói quan trọng nhất chính là “phát
tâm Bồ Đề một lòng chuyên niệm”. Một lòng chuyên niệm làm được rồi, phát
tâm Bồ Đề không làm được, cho nên người niệm Phật nhiều, người vãng sanh ít,
bởi vì hai câu nói bạn chỉ làm được phân nửa, phân nửa còn lại bạn chưa làm
được, cho nên không thể vãng sanh. Tại vì sao nhất định phải phát tâm Bồ Đề?
Bởi vì Cực Lạc Tịnh Độ là Đại thừa, mà Đại thừa pháp là xây dựng trên nền tảng
tâm Bồ Đề.
Tam
Phước của Quán Kinh dạy chúng ta nền tảng tu học. Trong tam phước, điều thứ ba,
câu thứ nhất chính là “phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng Đại thừa,
khuyến tấn hành giả”, đây gọi là Bồ Tát. Một điều phía sau tam phước, trong
bốn câu, hai câu sau cùng bao gồm sáu Ba La Mật. “Đọc tụng Đại thừa” là tự tu
tự học, “khuyến tấn hành giả” là hóa tha. Tự hành hóa tha. Dùng được sáu điều
này rồi, sáu Ba La Mật liền thực tiễn. Bạn nghĩ xem, quan trọng dường nào!
Tâm
Bồ Đề là gì? Bồ Đề là ý nghĩa của giác ngộ, tâm Bồ Đề chính là bạn chân thật
giác ngộ. Làm thế nào mới xem là chân thật giác ngộ? Chúng ta thường xem thấy
được ở trong tất cả kinh luận, người nhị thừa chưa phát tâm Bồ Đề. Đâu là nhị
thừa? A La Hán, Bích Chi Phật, cho nên họ không thể thành chánh quả. Cái họ
thành tựu ở trong Phật pháp là quả nhỏ, không phải chân thật. Trong pháp giới
bốn thánh, ngoài Thanh Văn, Duyên Giác ra còn có Bồ Tát, còn có Phật, Thiên
Thai gọi là Phật của Tạng Giáo. Những vị Phật này, thực tế mà nói, không phải
là rất cao, họ ở trong mười pháp giới, chưa đột phá được mười pháp giới. Do
nguyên nhân gì? Chưa phát tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề nếu như vừa phát thì người này
rất cừ khôi, liền siêu việt mười pháp giới. Vì sao nói tâm Bồ Đề vừa phát liền
ra khỏi mười pháp giới? Tâm Bồ Đề quá lớn, cái vòng của mười pháp giới quá nhỏ,
phá được cái vòng của mười pháp giới thì liền ra khỏi, đạo lý chính là như vậy.
Tâm phải lớn. Trên kinh Đại thừa thường nói “tâm bao thái hư, lượng khắp pháp
giới”, cái tâm đó gọi là tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề là trùm khắp hư không pháp giới.
Chúng ta có phát ra cái tâm này hay chưa? Tâm này vừa phát, ở trong Hoa Nghiêm
nói chính là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Sơ Trụ gọi là phát tâm trụ, trụ cái gì?
Trụ Như Lai chi sở trụ, nhất thiết chư Phật Như Lai liền trụ tâm Bồ Đề. Hay nói
cách khác, vĩnh viễn không mất tâm Bồ Đề, vĩnh viễn không thoái tâm Bồ
Đề, đây gọi là phát tâm trụ. Con người này trên hội Hoa Nghiêm gọi là Pháp Thân
Đại Sĩ, trên hội Bát Nhã gọi là chư Phật Như Lai, họ chân thật là chư Phật Như
Lai. Lại như tông môn đã nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, họ đã
kiến tánh hay chưa? Kiến tánh rồi. Thấy được cái tánh gì? Hư không pháp giới
là tâm lượng của chính mình, đó là kiến tánh rồi, đó là minh tâm kiến tánh.
Tâm lượng của chúng ta quá nhỏ, quá đáng thương, khởi tâm động niệm chỉ biết có
chính mình, chỉ biết một gia đình nhỏ, một đoàn thể nhỏ. Tâm của bạn bao lấy
một quốc gia, bao lấy một địa cầu vẫn là vọng tâm tà kiến, ở trong thế pháp nói
như vậy là rất cừ khôi, anh hùng hào kiệt, không phải người thông thường có thể
so sánh, thế nhưng không thể giải quyết vấn đề. Chúng ta yêu thế giới này, quan
tâm thế giới này, các thế giới khác thì sao?
Khoa
học hiện tại phát triển, mọi người đều có một khái niệm, ngoài tinh cầu này của
chúng ta ra còn có tinh cầu khác. Trên tinh cầu này chúng ta có người, sinh
mạng cao đẳng, trên các tinh cầu khác cũng có. Bạn thấy nhiều năm đến nay,
nhiều tin đồn người ngoài hành tinh đến thăm địa cầu này, chúng ta xem thấy có
rất nhiều đĩa bay. Đĩa bay là gì vậy? Là người ngoài hành tinh, họ không phải
thần tiên, họ là người. Nếu như là thiên thần, quỷ thần thì khi đến nhân gian
không cần phải dùng đĩa bay, không cần dùng công cụ giao thông. Nếu dùng công
cụ giao thông, chúng ta muốn bay đến tinh cầu khác, người ta muốn bay đến bên
đây chúng ta, thảy đều là người, cõi người, không phải là cõi trời. Người cõi trời
không cần dùng đến những loại máy móc này. Phàm hễ dùng động lực cơ giới để
giúp bạn du hành trong thái không đều là thuộc về cõi người.
Nếu
như chúng ta chỉ yêu thương người của địa cầu, không thương yêu người của các
tinh cầu khác thì sẽ xảy ra đại chiến tinh cầu, làm sao có thể giải quyết được
vấn đề? Cho nên chân thật có thể giải quyết được vấn đề, triệt để giải quyết
được vấn đề là Phật Bồ Tát. Phật Bồ Tát thì tâm trùm hư không, lượng khắp pháp
giới, không bỏ sót một tinh cầu nào. Không những không bỏ sót một tinh cầu nào,
nhà Phật thường nói: “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”, cái nhất nhân đó
là gì? Là một chúng sanh tận hư không khắp pháp giới đều không xả bỏ. Bạn xem,
tâm lượng này bao lớn! Người phát tâm Bồ Đề giống như mẹ hiền thương yêu con
cái của họ vậy, con cái rất nhiều, thảy đều quan tâm chăm sóc, không hề bỏ sót
đứa nào. Loại động lực này, bất cứ sức mạnh thế gian nào cũng đều không thể so
sánh. Tại vì sao chư Phật Bồ Tát đại từ đại bi, vĩnh viễn là hằng thuận chúng
sanh, tùy hỉ công đức, biến pháp giới tùy loại ứng thân tùy cơ nói pháp? Đó là
tâm Bồ Đề. Chúng ta có cái tâm lượng này hay không? Đó là chân tâm của chính
mình, là bổn tánh của chính mình. Ngày nay chân tâm bổn tánh vì sao không thể
thấy được? Phật nói với chúng ta đó là do mê mất, bạn mê rồi. Chư Phật Bồ Tát
là giác ngộ, giác ngộ là sự việc này. Bản thân của sự việc này không có mê ngộ,
mê ngộ là ở người.
Người
giác ngộ thường hành bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, định huệ sáu Ba La, họ là Bồ
Tát. Chúng ta là người mê. Người mê ở nơi đó học, có học cũng không giống. Bạn
tỉ mỉ mà quán sát, bạn liền có thể thể hội được, học không giống được, đây chỉ
mới gọi là phát tâm tu hành. Phát nguyện là đầu tiên bạn phải phát tâm trước. Thế
nhưng phát tâm, chúng ta tỉ mỉ mà quán sát trong Tam Phước, nó là giai đoạn thứ
ba. Học Phật cần phải từ trên nền tảng mà định đặt nền móng. “Hiếu dưỡng cha
mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười nghiệp thiện”, đây là gốc.
Nếu như các vị chân thật thể hội được tường tận, ngày nay bao gồm hết thảy
người tu hành, tại vì sao không thể thành tựu? Công phu vì sao không thể có
lực? Thì bạn liền tìm ra được nguyên nhân. Cho nên học Phật phải học từ đâu?
Phải học từ hiếu thuận cha mẹ. Bạn có tận hiếu đạo hay chưa? Học từ phụng sự sư
trưởng, người Trung Quốc chúng ta gọi là “hiếu thân tôn sư”. Không làm được bốn
chữ này, bạn ở nơi Phật pháp không luận là tinh tấn thế nào, không luận dụng
công thế nào, thành thật mà nói, công phu của bạn sẽ không có lực, bạn làm sao
có thể có được thành tựu?
Người
sơ học chúng ta đến đâu để tu lục độ? Tu ở ngay trong nhà. Làm thế nào tu bố
thí? Hiếu thuận cha mẹ chính là tu bố thí. Bạn dùng sức lực của bạn phụng sự
cha mẹ, đó là bố thí. Đối với cha mẹ phải nên nói cúng dường, cúng dường cha
mẹ, rất chu đáo mà chăm sóc đời sống của cha mẹ, đó là nội tài bố thí, chăm sóc
họ, vì họ phục vụ, hầu hạ họ. Dùng trí tuệ của chúng ta, ở ngay trong đời sống
của họ, họ có những tập khí thị hiếu, chúng ta đều có thể nghĩ đến, hầu hạ chu
đáo đến cùng, đây là thuộc về pháp bố thí. Cúng dường tài lực, lao lực là thuộc
về tài bố thí. Có thể khiến cho họ yên tâm, khiến cho họ an vui, lìa khỏi tất
cả lo buồn là bố thí vô úy. Ba loại bố thí phải bắt đầu từ nơi đâu? Bắt đầu làm
từ cha mẹ của bạn, làm từ thầy giáo của bạn.
Thầy
giáo dạy bảo chúng ta, chúng ta mới được khai mở, mới có trí tuệ, mới hiểu được
những sự việc, ân đức của thầy làm sao có thể quên được? Thường hay nhớ nghĩ
đến thầy, chỉ cần biết thầy vẫn còn ở đời, ngày lễ ngày tết luôn phải có sự
quan tâm, có sự biểu thị, có thời gian rảnh phải thường đi thăm thầy. Nếu thầy
có bất cứ thiếu kém nào, phải chăm sóc chu đáo giống như cha mẹ. Thầy là người
rất khổ cực, đặc biệt là vào thời trước, không như hiện tại. Thầy giáo hiện tại
của trường nhận tiền lương, vào thời trước không có. Vào thời trước thầy giáo
dạy học, học trò cúng dường đối với thầy là tuỳ ý. Nhà giàu có thì cúng dường
nhiều một chút, nhà nghèo khổ thì không có cúng dường, thậm chí người rất nghèo
khổ, thầy giáo còn hỗ trợ cho học trò, việc này hiện tại không xem thấy. Thời trước
thầy giáo là người đi dạy học, thầy giáo hiểu được đạo đức nhân nghĩa, họ là mô
phạm của xã hội, họ không xem trọng đời sống vật chất mà họ xem trọng đời sống
tinh thần, toàn tâm toàn lực chăm sóc học trò. Bạn nói xem, ân đức này bao lớn!
Không chỉ ân huệ đối với học trò mà đối với toàn thể xã hội, toàn thể quốc gia
dân tộc, họ có đại công đức chân thật.
Vào
thời xưa, xã hội chúng ta cũng có giai cấp, thế nhưng không như Ấn Độ nghiêm
khắc đến như vậy. Giai cấp của Trung Quốc cũng có bốn loại là sĩ, nông, công,
thương. Sĩ là người đi học, giai cấp tri thức, ở trong xã hội thì địa vị này
rất cao cả, thế nhưng người đi học rất là kham khổ. Những người nào có tiền?
Người buôn bán có tiền. Địa vị của người buôn bán trong xã hội được xếp sau
cùng. Hiện tại thì đảo ngược rồi, hiện tại có tiền là đệ nhất, người đi học thì
lại xếp ở sau cùng, đã không còn như trước nữa. Bạn nói xem, bi ai cỡ nào! Xã
hội làm sao mà không đại loạn! Động loạn của xã hội, cội gốc của động loạn
chúng ta biết được tường tận thì chúng ta phải chăm chỉ nỗ lực mà làm, nhắc
thức đại chúng xã hội biết được chủ nghĩa công lợi kém khuyết rất nhiều. Tổng
quy kết lại, những việc này đều thuộc về vấn đề giáo dục.
Giáo
học của thời xưa cùng quan niệm giáo học của hiện tại (hiện tại chúng ta gọi là
giáo dục triết học) hoàn toàn không như nhau. Nhân sĩ có tâm, chí sĩ có lòng
nhân, phải ở ngay chỗ này mà hạ công phu, phải vào sâu mà tham khảo thì mới có
thể chân thật giúp đỡ xã hội giải quyết vấn đề này, đạt đến xã hội thịnh trị
dài lâu, cầu lấy phước lợi chân thật cho tất cả chúng sanh. Con người như vậy
chính là Bồ Tát. Có hay không? Trong cách nhìn của tôi thấy vẫn không phải là
số ít, thật có Bồ Tát. Không có Bồ Tát thì đạo tràng này của chúng ta không thể
xây dựng, không có Bồ Tát thì thôn Di Đà ngay trong lý tưởng của chúng ta cũng
không thể thành tựu.
Bồ Tát từ nơi đâu mà có? Nhất định phải từ chính mình phát
tâm Bồ Tát mới có thể cảm ứng tương thông với chư Phật Bồ Tát. Chúng sanh có
cảm, Phật Bồ Tát liền có ứng. Đạo cảm ứng không hề sót lọt, đây là chân thật,
không phải là giả. Nhất định phải dùng tâm chân thành cầu cảm ứng. Cho nên chân thật là một Bồ Tát
quyết định là “thường hành”. Trong đây phải đặc biệt chú trọng hai chữ này. Bạn
xem, người thế gian muốn học Bồ Tát hạnh, học không được mấy ngày thì thoái
tâm, không giữ được lâu. Tại vì sao không giữ được lâu? Không có loại quan niệm
của Bồ Tát, không có đức hạnh của Bồ Tát, không có tâm lượng của Bồ Tát nên
muốn học hành vi của Bồ Tát học không giống được. Tâm của Bồ Tát nói không hết,
tôi chỉ là nói ra một điều là “tâm lượng lớn”. Cho nên chúng ta phải học tâm
lượng lớn, phải có thể thương yêu tất cả chúng sanh. Trí của Bồ Tát, các Ngài
đối với chân tướng của vũ trụ nhân sanh tường tận, chân thật hiểu rõ.
Vừa
rồi còn có một bạn nhỏ hỏi tôi, vũ trụ từ do đâu mà có? Vấn đề này hỏi được rất
hay, vũ trụ từ do đâu mà có? Sinh mạng từ do đâu mà có? Về sau lại diễn biến
như thế nào? Trong Phật kinh giải thích được rất rõ ràng, rất tường tận, thế
nhưng những lão sư nhiều đời không nói ra. Có thể nói ra hay không? Có thể nói
ra được, một câu nói có thể giải đáp nhưng không nói. Vì sao không nói? Bảo bạn
chính mình ngộ ra, bạn có thể ngộ được là bạn chính mình hiểu, bạn thật đã vào
được cảnh giới. Giảng cho bạn nghe rồi bạn không thể ngộ nhập, là do bạn nghe
được, không phải là cảnh giới của chính mình. Việc này một lão sư tốt sẽ không
nhẫn tâm làm, vì sao vậy? Đóng bít đi cửa ngộ của bạn, bạn sẽ không khai ngộ.
Thế nhưng chúng ta xem thấy những chúng sanh hiện đại này, muốn dạy họ khai ngộ
là việc không thể nào, bạn có ép họ thế nào, ép họ cả một đời, tôi thấy họ cũng
không thể khai ngộ được. Cho nên giáo học của tôi không giống như người xưa,
người xưa thì không nói ra, tôi thì đem nó nói ra hết. Nói ra hết đích thực không
phải là cách dạy tốt, sau khi nói ra hy vọng bạn đi chứng thật. Nếu như bạn
không thể chứng thật, bạn cũng không thể trách tôi đã hại bạn. Tôi tuyệt nhiên
không có tâm hại bạn, tôi vẫn là có tâm giúp bạn. Cho nên ở trong kinh luận,
không luận là Phật nói pháp, chú sớ của tổ sư đại đức, lời nói này đều rất hàm
súc. Tôi nói với các vị thảy đều nói cho các vị nghe được rõ ràng, nói rất
tường tận. Tuy là nói rõ ràng, nói tường tận nhưng vẫn cứ không phải là cảnh
giới của chính bạn. Làm thế nào có thể đem nó biến thành cảnh giới của chính
mình? Đó là công phu, đây mới là thọ dụng chân thật.
Sự
việc này rất là khó khăn, chúng sanh hiện tại thực tế chính là trên kinh Địa
Tạng đã nói “nghiệp chướng sâu nặng, cang cường khó giáo hoá”. Nhất là hiện tại
hoàn cảnh đời sống của chúng ta không tốt, không chỉ là loạn thế, mà là đại
loạn, không chỉ là đời ác năm trược, mà là trược ác đến cùng tột. Hiện tại
chúng ta sống ngay trong hoàn cảnh này. Loại hiện tượng này thông thường người
hiện tại gọi là bùng nổ tri thức. Tri thức chân thật là bùng nổ, còn lợi hại
hơn bom nguyên tử, làm nhiễu loạn hoàn toàn chánh tri chánh kiến của bạn. Bạn
mỗi ngày xem thấy, nghe thấy, tiếp xúc được đều là tà tri tà kiến. Tà tri tà
kiến lâu ngày dài tháng biến thành tri kiến của chính mình, nên gọi là tiên
nhập vi chủ, biến thành một loại thành kiến. Thành kiến không dễ gì thay đổi.
Đây là một việc ở trên giáo học vô cùng khó khăn, vô cùng thống khổ.
Khi
tôi còn trẻ cầu học, gặp được các vị thiện tri thức, mỗi một người họ đều rất
quan tâm đối với tôi, dựa vào cái gì? Chính là đầu óc của tôi đơn giản, thứ mà
tôi tiếp xúc rất ít, họ xem thấy được nên rất trân quý. Ngay lúc đó tôi không
hề biết, tôi cảm thấy mấy lão sư này rất có duyên phận với tôi, họ đặc biệt tốt
với tôi, tốt hơn rất nhiều so với các bạn khác. Hiện tại mới biết được, người
đầu óc đơn giản thì dễ dạy, bạn có quá nhiều thứ trong đầu thì thật là khó dạy.
Dạy bạn việc này thì bạn phản kháng lại, bạn nêu ra một đống vấn đề, họ không
có nhiều thời gian đến như vậy để giải đáp cho bạn, để biện luận cùng với bạn,
họ không tìm lấy phiền phức. Cho nên nói, người đầu óc càng đơn giản thì càng
dễ dạy. Đó là thông thường lão sư ưa thích học trò, chúng có thể tiếp nhận,
chúng có thể hấp thu, chúng không có thành kiến, chúng vọng tưởng ít. Cho nên,
năm xưa khi tôi thân cận tiên sinh Phương Đông Mỹ, tôi nói tôi rất có hứng thú
đối với triết học, rất muốn học, thầy hỏi tôi có đọc qua những sách triết học
nào chưa? Không có! Có nghe qua người nào giảng dạy chưa? Vẫn chưa! Thầy rất
hoan hỉ. Tôi thỉnh cầu muốn đến trường để dự thính giáo trình của thầy, thầy
nói không cần, đến nhà thầy đi, ở trong nhà riêng biệt dạy cho tôi. Về sau một
số học trò của thầy biết được tôi là người được lão sư dạy riêng ở nhà, họ đều
nhìn tôi với ánh mắt ganh tị. Năm xưa, tiên sinh Đường Quân Nghị ở Hong Kong
chính là học trò của tiên sinh Phương Đông Mỹ, những người đó đều là học trò ở
trong lớp học của thầy. Tôi thì được dạy từ trong phòng khách nhỏ của nhà thầy.
Chúng ta mới hiểu rõ, thầy sợ tôi đến đến trường nghe giảng sẽ quen biết rất
nhiều thầy giáo, quen biết rất nhiều học trò, tư tưởng lại loạn lên, mặt tiếp
xúc sẽ rộng. Thầy đem phạm vi của tôi thu nhỏ lại, thu nhỏ phạm vi, không để
tôi tiếp xúc với người bên ngoài, chuyên nghe một mình thầy, vậy thì dễ dạy.
Tiếp
xúc Phật pháp, tôi thân cận đại sư Chương Gia, phương thức của đại sư Chương
Gia giống y như tiên sinh Phương Đông Mỹ, cũng đem phạm vi của tôi thu lại rất
nhỏ. Vào lúc đó mỗi một tuần lễ chỉ có ngày chủ nhật thì có thể đến lớp, mỗi
lần ngày chủ nhật gặp mặt với đại sư một lần, hai giờ đồng hồ, cũng là một thầy
dạy một trò. Nếu như có một lần hai lần không đến thì Ngài lập tức gọi điện
thoại hoặc phái người đến hỏi vì sao, có phải là bị bệnh không? Vì sao mà không
đến học? Quan tâm đến như vậy nên không thể không đi, không đi là có lỗi với
thầy. Về sau chúng ta mới biết được, vì sao quan tâm đến như vậy? Vì không gì
khác hơn là đầu óc tôi đơn giản, ham thích học, rất nỗ lực học, thế nhưng tuyệt
nhiên chưa từng học qua. Đạo lý này hiện tại người hiểu được rất ít.
Chư
Phật Bồ Tát rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, hiểu rõ tận hư không, khắp
pháp giới là một chỉnh thể hoàn mỹ. Cái chỉnh thể này là gì? Chính là chính
mình. Trên kinh Phật nói cho chúng ta nghe là pháp thân. Pháp thân là bản thể,
pháp thân chính là tự tánh, pháp thân chính là chân tâm, pháp thân chính là đệ
nhất nghĩa. Danh từ nhiều đến mấy chục loại nhưng chỉ nói đến một sự việc. Pháp
thân là gì? Pháp thân là hư không pháp giới, pháp thân là tất cả chúng sanh.
Bạn có chịu thừa nhận hay không? Bày ra ngay trước mắt bạn, bạn không thể thừa
nhận. Chư Phật Như Lai, trên hội Hoa Nghiêm 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ, các vị đó
thừa nhận, họ khẳng định đây là sự thật. Ngày nay chúng ta nghe qua cho là hư
vọng, không phải là sự thật. Đây chính là chúng ta điên đảo thác loạn, nhận giả
không nhận thật. Nói lời chân thật với bạn thì bạn nói là hư vọng, nói giả dối
với bạn thì bạn nói là thật, tất cả chúng sanh sáu cõi thích nghe gạt không
nghe khuyên, cho nên chư Phật Như Lai giảng kinh, nói pháp nửa gạt, nửa khuyên.
Vì sao nửa gạt, nửa khuyên? Lời tôi nói đều là thật. Phật dùng nhị đế mà nói
pháp, tùy tục đế là nửa gạt, tùy theo chân đế đó chính là nửa khuyên. Mở đầu
thì gạt bạn nhiều, nói thật thì ít, dần dần thì từ từ thay đổi lại, đến một
giai đoạn thì gạt bạn ít, mà nói nhiều lời thật, đến sau cùng thì hoàn toàn nói
lời thật, không gạt bạn nữa. Cho nên Phật nói pháp là dùng phương pháp này, mở
đầu thì gạt bạn nhiều, nói thật ít. Bạn tỉ mỉ mà xem kinh văn sẽ thấy là như
vậy. Đó là trí tuệ của Phật, đó là phương tiện khéo léo của Phật. Ngài gạt bạn
không phải là ác ý, mà là ý tốt, bởi vì bạn không hiểu, không gạt bạn thì bạn
hoàn toàn không thể tiếp nhận, cho nên dùng phương pháp nửa gạt, nửa khuyên
này. Đây chân thật là hết lòng hết dạ. Chúng ta phải tường tận, phải thông đạt
cái ý này.
Cho
nên nói thật với bạn, tận hư không khắp pháp giới mới là chính mình, đó cũng
giống như một cái thân thể hoàn chỉnh của chúng ta. Hiện tại thân thể này của
chúng ta là cái gì? Thân thể là tổ hợp của tế bào, ngày nay chúng ta nhận cái
tế bào cho là chính mình thì sai rồi, chính là trên kinh thường nói điên đảo
vọng tưởng, không biết được hư không pháp giới, tất cả chúng sanh là chính
mình. Thảy đều tường tận thấu đáo rồi thì bao gồm tất cả xung đột đều không
còn, tất cả hiểu lầm đều không còn, tâm đại từ bi mới sanh khởi. “Vô duyên đại
từ, đồng thể đại bi” phải từ ngay chỗ này mà sanh ra, cho nên họ có thể thường
hành. Ngày nay chúng ta không cách gì thường hành, phát tâm như người xưa nói
là “đạo tâm sương sớm”. Thời gian này rất ngắn, mặt trời vừa lên, hạt sương
liền tan hết, gọi là đạo tâm sương sớm, vậy thì làm sao có thể thành được việc
gì? Cho nên phải “thường hành”.
“Bố
thí”, nếu như y theo kinh Hoa Nghiêm để nói với bạn, chí ít hai chữ này nếu
giảng nửa năm cũng giảng không xong. Như hiện tại chúng ta giảng kinh Hoa
Nghiêm, một tuần lễ giảng tám giờ đồng hồ, e rằng giảng nửa năm cũng giảng chưa
xong. Tôi nói với bạn là lời thật. Năm xưa tôi giảng Hoa Nghiêm ở Đài Bắc, tôi
nhớ là giảng chương thứ sáu “Hồi hướng”, mười hồi hướng giảng đến hồi hướng thứ
sáu, hồi hướng thứ sáu chính là giảng bố thí, nhớ lại chương kinh đó đã giảng
hết nửa năm, dường như là một tuần lễ giảng hai lần hay là ba lần, giảng hết
một năm. Trên kinh nói cho chúng ta nghe hơn một trăm loại bố thí, vậy là viên
mãn rồi phải không? Chưa hề, cũng chỉ là nêu ra ví dụ mà thôi. Nói tỉ mỉ, nói
một cách chi li không hề gián đoạn vẫn nói không hết. Tại sao nói không hết
vậy? Xứng tánh. Phàm là những gì tương ưng với tự tánh thì cái đó đều không
cùng tận. Trong kinh Hoa nghiêm nêu ra ví dụ rất nhiều, nói tường tận hơn so
với những kinh thông thường một chút mà thôi, nhưng vẫn là nói cương lĩnh.
Chúng
ta phát tâm, chúng ta giảng đơn giản nhất, trước mắt chúng ta cần nên thực
hiện, nhất định phải phát cái tâm thương yêu đích thực. Hai mươi chữ mà chúng
ta hôm nay đã đề xướng là Chân Thành, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Chánh Giác,
Từ Bi; Nhìn Thấu, Buông Bỏ, Tự Tại, Tùy Duyên, Niệm Phật. Tâm thanh
tịnh là dứt khoát không có ô nhiễm, dứt khoát không có nhân ngã thị phi, danh
vọng lợi dưỡng, thì tâm bạn mới thanh tịnh. Tâm bình đẳng thì dứt khoát không
có cao thấp. Tâm chánh giác thì dứt khoát không có mê mờ. Sau đó mới có thể
khởi đại từ đại bi. Đại từ đại bi chính là quan tâm tất cả chúng sanh vô điều
kiện, thương yêu tất cả chúng sanh, toàn tâm toàn lực giúp đỡ tất cả chúng
sanh, đó là tâm Bồ Tát. Bạn có tâm Bồ Tát thì bạn mới có thể hành Bồ Tát đạo.
Bồ
Tát đạo chính là “bố thí” mà ngay chỗ này nói. Chúng ta dùng cách nói đơn giản,
ba loại bố thí lớn.
Việc thứ nhất là tài bố thí. Tài có nội tài, có ngoại tài. Cái
gì là ngoại tài? Vật ngoài thân là ngoại tài. Dùng lao lực trí tuệ thân thể của
chính ta thì thuộc về nội tài. Ngoại tài phải bố thí, nội tài cũng phải bố thí.
Ngày nay chúng ta xem thấy đạo tràng này, các vị xem thấy trên dưới có rất
nhiều đồng tu làm công quả ở nơi đây, phục vụ lao dịch, đó là thuộc về nội tài
bố thí. Có một số đồng tu bỏ tiền ra, đó là ngoại tài bố thí. Ở ngay nơi đây,
đạo tràng này vẫn đang không ngừng phát triển. Bố thí nhiều nhất là cư sĩ Lý Mộc
Nguyên, tôi nghe nói mỗi buổi tối ông đều ngủ không được ngon giấc, vì những
việc này mà lo lắng, lo trù bị, đó là nội tài bố thí. Bạn nghĩ xem, không có
một vị Bồ Tát như vậy, không có một người như vậy dẫn đầu, cái đạo tràng này
không thể xây dựng được, không thể thành tựu. Có mấy người biết được, có mấy
người tường tận? Không biết được, không tường tận, vẫn còn đố kỵ, còn muốn
chướng ngại, còn nghĩ cách để phá hoại, tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp, vậy
mà họ còn cảm thấy họ rất là từ ái, chính mình đang tu Bồ Tát đạo. Bồ Tát đó
của họ là đi vào ba đường ác. Cho nên Phật ở trong kinh luận nói rất hay, tất
cả chúng sanh tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, trên kinh Địa Tạng nói
“chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm thảy đều là tội”. Tại vì sao có hiện
tượng này? Ngu si, căn nguyên là ngu si. Ngu si chính là không tường tận đối
với chân tướng sự thật, hoàn toàn tuỳ theo ý của chính mình mà dò xét, đang
nghĩ tưởng xằng bậy, cố ý vô ý tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp. Cho nên,
nếu chúng ta hiểu được, liền biết được tu bố thí là quan trọng.
Trong
thế gian pháp nói, quả báo của bố thí được phước, càng thí càng nhiều. Tôi nghĩ
các đồng tu nơi đây, đó là các vị chính mắt xem thấy, chính tai nghe được, các
vị thấy Cư Sĩ Lâm ngày càng thêm hưng vượng. Làm sao hưng vượng? Là bố thí. Nhà
ăn dưới lầu, một năm 365 ngày không có ngày nào không bố thí, không luận người
nào đến nơi đây ăn cơm đều hoan nghênh. Đó cũng không phải tùy tiện mà cúng
dường, mà là thật có tâm cúng dường. Cơm và thức ăn mỗi ngày đều phải nghiên
cứu làm thế nào cải tiến, làm thế nào nấu ăn được ngon hơn. Không phải tuỳ tiện
mà cúng dường cho bạn, có cho bạn ăn là được rồi còn cần phải đắn đo gì, mà
ngày ngày phải nghiên cứu. Bạn xem, nhà ăn ở lầu hai, tôi thấy quán chay thông
thường hiện tại không thể hơn được chúng ta. Cho nên, có rất nhiều đồng tu muốn
mời tôi ăn cơm, tôi nói bạn đem tiền mời tôi ăn cơm giao cho quầy tiếp tân
quyên cho thôn Di Đà, ở nơi lầu hai có rất nhiều bàn nhỏ, tôi sẽ ăn cơm với
bạn. Bạn thấy như vậy quá tốt, bạn làm công đức chân thật, hà tất tốn tiền ở
bên ngoài, lãng phí tài lực, cũng lãng phí thời gian, lãng phí tinh thần. Chúng
ta ở nơi đây quá tốt, quá thoải mái. Đây đều là bố thí. Cho nên, nó hưng vượng
đến như vậy là từ bố thí. Bạn không nên sợ nhiều người như vậy đến nơi đây dùng
cơm thì tiền ở đâu mà có. Cư sĩ Lý nói từ lúc chúng ta khai trương bố thí ba
bữa ăn đến nay chưa từng mua gạo, cũng chưa từng mua dầu, cũng chưa từng mua
rau, rất nhiều nơi không ngừng tự nhiên có người mang đến. Là Phật Bồ Tát mang
đến. Cho nên lời ông nói rất hay, tôi tin tưởng nhưng các vị không tin tưởng,
ông chủ hỗ trợ phía sau chúng ta là A Di Đà Phật. Chúng ta không có phước báo,
A Di Đà Phật có phước báo, chúng ta làm việc thay cho A Di Đà Phật, thành tâm
thành ý mà làm, không hề có chút tâm tư riêng, liền cảm động A Di Đà Phật, chư
Phật Bồ Tát đều đến hộ trì cái đạo tràng này, do vậy mà hưng vượng. Có chút tâm
tư riêng thì liền không có cảm ứng.
Bạn có lòng riêng tư cũng có nhiều tín đồ đến, dường như rất
hưng vượng, nhưng cảm ứng đó là Ma gia trì. Ma thì không đáng tin, Ma là vô thường, chúng không phải là
thường hành, hôm nào không vui thì bỏ đi, đi rồi thì đạo tràng này của bạn lập
tức liền suy. Chỉ có Phật là chân thường, cho nên bạn dùng chân tâm mà cảm thì
liền có chân cảm ứng, chúng ta phải hiểu được đạo lý này. Đây là nói tài bố
thí. Trong kinh luận cũng thường nói, người thế gian phát tài, được tiền của.
Tiền của là quả báo. Vì sao họ có thể phát được tài? Tại vì sao có được tiền
của? Do bố thí. Không phải đời trước thì là đời này, quyết định là tài bố thí
nhiều, cho nên tiền của họ dùng không thiếu. Nhất là vào năm nay, kinh tế suy
sụp nhiều, Đông Nam Á mỗi một nghề nghiệp đều bị ảnh hưởng, trong nhà Phật
chúng ta cũng không khỏi bị ảnh hưởng, rất nhiều đạo tràng mức thu nhập không
đủ chi, hoá duyên cũng không thể hoá duyên được, chỉ riêng đạo tràng Cư Sĩ Lâm
này rất hưng vượng, không hề bị ảnh hưởng. Đây là do nguyên nhân gì? Bố thí
nhiều, tài bố thí nhiều, cho nên tiền tài nơi đây dùng không thiếu, không có
chút ảnh hưởng nào. Cư sĩ Lý nói với tôi là không những không giảm ít mà thu
nhập mỗi tháng đều tăng hơn. Điều này nói rõ lời Phật nói không hề sai, chúng
ta còn có thể không tin sao? Sự thật đã chứng minh cho chúng ta rồi.
Pháp bố thí thì thông minh trí tuệ. Người đến đạo tràng nghe kinh, đến
niệm Phật, bao gồm người đến nơi đây để làm công quả, bạn có quán sát hay
không? Trí tuệ của mỗi một người mỗi năm thêm lớn. Tôi xem thấy được. Vì sao
trí tuệ thêm lớn? Đạo tràng này pháp bố thí nhiều, mỗi ngày có người ở nơi đây
giảng kinh nói pháp, không thiếu một ngày. Mỗi ngày niệm Phật đường có người
đang niệm Phật, niệm Phật không gián đoạn, đó là pháp bố thí. Cho nên mỗi người
phiền não nhẹ, trí tuệ thêm lớn, đây là chúng ta xem thấy.
Loại thứ ba gọi là bố thí vô uý, được quả báo là khoẻ mạnh
sống lâu.
Tình hình này chúng ta cũng quán sát được, có tài bố thí, có pháp bố thí, tất
cả sự lý dần dần đều tường tận. Thế gian có bất cứ tai nạn gì thì tâm của chúng
ta cũng bình tĩnh an tịnh, không bị ảnh hưởng. Mức độ thấp nhất, ảnh hưởng đối
với chúng ta dần dần đang giảm nhẹ, thân tâm chúng ta an lạc, đó là đạo khỏe
mạnh sống lâu, hiệu quả của bố thí vô uý.
Có
thể hành ba loại bố thí, chịu hành ba loại bố thí, hoan hỉ hành ba loại bố thí,
cho nên bạn có được hiệu quả là tiền của, thông minh trí tuệ, khỏe mạnh sống
lâu, chiêu cảm được là pháp hỉ sung mãn. Rất nhiều đồng tu đều rõ ràng thể hội
được điều này. Đạo tràng Cư Sĩ Lâm này chỉ cần bạn vừa bước vào cửa, không luận
nhìn thấy người nào, miệng đều cười toe toét, người ở nơi đây thường sanh tâm
hoan hỉ. Sự hoan hỉ này chính là hiệu quả của ba loại bố thí, thành tựu của ba
loại bố thí. Chúng ta đã đạt được thành tựu này, đã có thu hoạch này, tín tâm
tăng trưởng, lòng tin thêm lớn, ý niệm của bố thí thêm lớn, quả báo tương lai
nhất định vẫn còn thù thắng, quả báo cũng đang thêm lớn.
Cho
nên, các vị đồng tu nhất định phải biết, trong bố thí nhất định được đại an
vui, được đại tự tại, được trí tuệ chân thật. Có người nói, tôi cũng tu bố thí,
vì sao không có được? Việc này phía trước đã nói qua với các vị, bạn không có
tâm Bồ Đề, cho nên bạn không có được. Bạn ở trước mặt Phật Bồ Tát phát tâm hứa
nguyện tu bố thí, thực tế mà nói là nói điều kiện với Phật Bồ Tát, Phật Bồ Tát
bảo hộ tôi phát tài, tôi được một trăm vạn tôi sẽ cúng dường Ngài một vạn. Phật
Bồ Tát không thể thiệt thòi, bỏ ra một trăm vạn mà chỉ được cúng dường một vạn,
vậy thì không thể nào bảo hộ bạn phát tài. Người thế gian hứa nguyện đều là có
cách làm như vậy, đều là nói điều kiện, đều đem Phật Bồ Tát xem thành kẻ ngốc,
chính mình thông minh. Tâm trạng như vậy mà tu bố thí cũng có phước, nhưng cái
phước được ít, sẽ không có cảm ứng. Đây có phải là mục đích chân thật Bồ Tát tu
bố thí hay không? Không phải mục đích chân thật Bồ Tát tu bố thí, việc này thì
thật là quá nhỏ, việc bố thí này là phước báo, không thể gọi là Ba La Mật Đa,
chỉ gọi là bố thí, không thể gọi là bố thí Ba La Mật Đa. Vậy phải làm thế nào
mới được gọi là bố thí Ba La Mật Đa?
(Còn tiếp
…)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Discussion about this post