KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 54)
Pháp Sư Tịnh Không
“Kiên
cố bất động”, cái “kiên cố” này chính là nói
hạnh cùng nguyện của Ngài kiên định, quyết định không dao động, cho nên Ngài
mới có thành tựu không thể nghĩ bàn. Chúng ta muốn học thì phải ở ngay nơi đây
mà học. Kiên cố chính là không thoái. Tổ sư đại đức thường nói với chúng ta,
vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc liền “viên chứng tam bất thoái”. Trong
đây đặc biệt chú trọng “viên”. Nếu như chỉ riêng nói “chứng tam bất thoái” thì
Bồ Tát sơ trụ liền chứng tam bất thoái, thế nhưng muốn chứng được “viên chứng”
thì Bồ Tát sơ trụ, sơ địa vẫn không được. Nói đến viên chứng thì chí ít cũng là
Bát địa, đó là phương tiện nói. Chắc thật mà nói, thì Bồ Tát Pháp Vân Địa, Bồ
Tát Đẳng Giác mới có thể được gọi là viên chứng tam bất thoái. Cho nên trên
kinh này một mực nói với chúng ta, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là
Bồ Tát A Duy Việt Trí. A Duy Việt Trí Bồ Tát chính là viên chứng tam bất thoái.
Người xưa chú giải cho chúng ta, thất địa trở lên mới là A Duy Việt Trí, cho
nên kinh điển pháp môn này thực tế là không thể nghĩ bàn. Ngày nay chúng ta làm
thế nào làm được thì hạnh nguyện của chúng ta cũng có thể kiên cố bất động.
Quyết định không dao động, một lòng một dạ, vạn duyên buông bỏ, trung thực niệm
Phật, đó là bạn kiên cố bất động. Ngoài một lòng ngưỡng vọng thế giới Tây Phương
Cực Lạc ra, không có một niệm thứ hai thì bạn mới có thể làm đến được kiên cố
bất động. Sanh ở thế gian này, y theo nguyên tắc của Phật dạy đoạn ác tu thiện,
làm ra tấm gương tốt cho thế gian. Không luận họ học Phật hay không, đoạn ác tu
thiện quyết định là một tấm gương tốt.
Tiêu
chuẩn của thiện ác cần phải rõ ràng, phàm hễ lợi ích xã hội, lợi ích đại chúng
là thiện; không lợi ích xã hội, không lợi ích đại chúng, chỉ lợi ích chính
mình, lợi ích đoàn thể nhỏ của chính mình đều là ác. Đó là Phật ở trong kinh
điển nói với chúng ta tiểu chuẩn của thiện ác. Chúng ta hiểu rõ được tiêu chuẩn
này, ghi nhớ tiêu chuẩn này, y theo tiêu chuẩn này để tu học. Chúng ta có thể
tưởng tượng ra được, ở thế gian này, thế gian đa nguyên văn hoá này, tùy theo
các chủng tộc khác nhau, văn hoá khác nhau, thậm chí phương thức đời sống khác
nhau, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, tôi tin tưởng không một người nào không
hoan hỉ. Đối với xã hội, đối với chúng sanh làm việc có lợi ích, đây là việc
nhất định có thể làm được. Quyết định không vì chính mình, mỗi niệm vì xã hội,
vì nhân dân, vì chúng sanh “tu hành tinh tấn”.
“Hành”
chính là chỉ hành vi sai lầm quá khứ. Đem hành vi sai lầm tu sửa lại, gọi là tu
hành. Ngày trước chúng ta chưa tiếp xúc Phật pháp, không có người nói rõ cho chúng
ta đại đạo lý của vũ trụ nhân sanh, chân tướng của vũ trụ nhân sanh, cho nên
cách nghĩ, cách nhìn, cách nói, cách làm chúng ta đều sai lầm, đó là hành vi
sai lầm. Hành vi sai lầm chiêu cảm quả báo của sáu nẻo ba đường, hành vi sai
lầm biến hiện ra cảnh giới này. Hiện tại chúng ta tường tận giác ngộ rồi, đem
những hành vi sai lầm này tu sửa lại. Tiêu chuẩn của chính xác và sai lầm,
chúng ta không thể không y theo Phật pháp, cho nên đối với Phật pháp phải xây
dựng tín tâm kiên định. Phật là người tái sanh, chúng ta không tin tưởng lời
nói của người tái sanh thì tin tưởng lời của ai? Cho nên Phật nói tất cả kinh
chính là tiêu chuẩn tu hành của chúng ta. Tư tưởng, kiến giải, lời nói, hành vi
của chúng ta tương ưng với kinh điển đã nói, vậy là tốt, là chính xác. Nếu như
không tương ưng với kinh điển đã nói thì chúng ta chính mình phải giác ngộ,
chúng ta sai rồi. Sai rồi thì phải mau đem nó tu sửa lại, đó gọi là tu hành.
Cho nên tu hành, các vị đồng tu phải ghi nhớ, không phải mỗi một ngày đọc bao
nhiêu bộ kinh, niệm bao nhiêu danh Phật hiệu, dập đầu bao nhiêu cái, đó không
phải là tu hành. Cái cách làm đó có thể nói là gì? Tín giáo. Phật có bốn loại
kinh là Giáo-Lý-Hành-Quả, bạn chỉ có một cái. Phương pháp mà chính bạn tu hành
thì sao? Tín-Giải-Hành-Chứng, bạn cũng chỉ có một cái, ta tín giáo, lý không
hiểu, hành không tu, tuy là ngày ngày đọc kinh niệm Phật nhưng vẫn là nghĩ
tưởng xằng bậy, vẫn là làm những việc tổn mình hại người, chỉ làm những việc
này. Trong Phật kinh đã nói không những công đức lợi ích bạn không có được, mà
bạn vẫn là đang tạo nghiệp, cho nên tín giáo không đủ, phải hiểu lý. Lý giải
rồi vẫn không đủ, phải tu hành. Tu hành mới hữu dụng. Tu hành cho dù chưa chứng
quả, quyết định bạn không đọa ác đạo, bạn là thật tu, công phu tu tập chưa đến
nơi. Công phu đến nơi thì chứng quả, công phu chưa đến nơi thì tuy không chứng
quả cũng chắc được phước báo trời người, việc này nhất định có thể làm được.
Cho nên tu hành, trong quá trình chúng ta tu tập có bốn giai đoạn. Giai đoạn
thứ nhất là tín giáo, tin tưởng giáo huấn của lão sư, giai đoạn thứ hai là rõ
lý, giai đoạn thứ ba là tu, giai đoạn thứ tư là chứng quả. Phật nói ra
giáo-lý-hành-quả, công phu của chính chúng ta là tín-giải-hành-chứng, đó là
tinh tấn. Tinh tấn ở chỗ này cùng với tinh tấn của ngũ lực phía trước không như
nhau, đó là nói pháp môn thông nhau, đây là nói chuyên môn. Bạn chọn ra một
pháp môn, bạn chọn ra một bộ kinh điển, một môn thâm nhập, tinh tấn ở đây là
nói cái ý này. Ở ngay trong một đời tu học của chúng ta có thể có thành tựu
hay không, bốn chữ này là then chốt: “tu hành tinh tấn. Cho nên, các vị
nhất định phải tường tận.
Nhà
Phật thường nói khai ngộ, thường nói giác ngộ, cái gì gọi là khai ngộ? Biết
được tâm bệnh của chính mình liền giác ngộ, thì gọi là giác ngộ. Đem tâm bệnh
của chính mình sửa đổi lại thì gọi là tu hành, thì gọi là công phu. Những danh
từ thuật ngữ này không thể hiểu sai, không thể nào hiểu sai lệch. Chúng ta thấy
rằng, có không ít người nói đến tu hành liền cho rằng tu hành chính là ăn chay,
niệm Phật, gọi đó là tu hành. Đó là sai lầm rất lớn. Ăn chay niệm Phật là kiểu
dáng tu hành. Có phải họ thật đang tu không? Chân thật tu hành, chân thật có
công phu thì không nhất định chỉ ăn chay niệm Phật. Pháp môn của nhà Phật quá
nhiều, tám vạn bốn ngàn pháp môn, niệm Phật chỉ là một trong đó. Không dùng
phương pháp này, dùng phương pháp khác cũng là đang tu hành, cho nên nhất định
phải lý giải chính xác. Tu sửa tư tưởng hành vi sai lầm của chúng ta, một môn
thâm nhập, đó mới gọi là thật tinh tấn.
Sau
cùng là “vô năng du giả”. Thực tế mà nói, “tu hành tinh tấn, vô
năng du giả”, hai câu này là tổng tán, tán thán Bồ Tát Pháp Tạng. “Vô năng du
giả”, ngay trong đồng tu không có người nào có thể siêu việt Ngài. Bẩm chất của
Ngài tốt, người Trung Quốc thường gọi là thiên chất của Ngài tốt, ở trong Phật
pháp nói thiện căn phước đức của Ngài sâu dày, duyên cũng thù thắng, gặp được
thầy giáo tốt; thiện căn, phước đức, nhân duyên ba thứ đều tốt. “Thiện căn”,
đơn giản mà nói, với đại pháp của Như Lai đã nói có thể tin có thể hiểu, đây là
thuộc về thiện căn. “Phước đức” là có thể hành có thể chứng, đó là phước đức.
Cho nên các vị liền hiểu được, thế xuất thế gian phước báo đệ nhất đẳng là gì?
Tu hành, tu sửa hành vi sai lầm của chính mình, đó là phước báo chân thật. Một
người chân thật tu hành thì chư Phật hộ niệm. Chư Phật Như Lai ngũ nhãn viên
minh, phía trước đã nói qua với các vị, tận hư không, khắp pháp giới thảy đều
thấy được hết, thảy đều nghe được hết. Chân thật phát tâm tu hành thì chư Phật
hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ, ngay đến những yêu ma quỷ quái đều bội
phục bạn, đều tôn kính bạn. Bạn thật cừ khôi, họ không dám quấy nhiễu bạn.
Người chân thật tu hành còn có yêu ma quỷ quái đến nhiễu loạn, thì bạn liền có
thể nghĩ mà biết công phu của bạn ra sao rồi? Ngay đến yêu ma quỷ quái cũng xem
thường bạn, công phu của bạn liền có thể nghĩ mà biết. Người thật có công phu,
yêu ma quỷ quái tôn kính bạn, cho dù oan gia trái chủ cũng không dám nhiễu loạn
bạn. Những sự lý này chúng ta đều không khó hiểu. Cho nên, ngay trong đồng tu không
có người nào có thể siêu vượt Ngài.
Nguyện
hạnh của Tỳ Kheo Pháp Tạng, chúng ta phải nên học tập thì mới chân thật là đệ
tử Phật A Di Đà. Cái đạo tràng này hy hữu khó gặp, giải hành tương ưng, hy vọng
các vị đồng tu phải biết mà trân trọng, ngay trong một đời có thể gặp được
không phải là ngẫu nhiên, cũng giống như trong kệ khai kinh đã nói “trăm ngàn
muôn kiếp khó được gặp”, cư sĩ Bàng Tế Thanh đã nói “vô lượng kiếp đến nay, hy
hữu khó gặp”. Cho nên chúng ta gặp được rồi phải trân trọng, cho dù có chút
chướng ngại nhỏ cũng phải khắc phục, không nên để trong lòng, không nên bởi vì
chút việc nhỏ này liền làm chướng ngại mất đi thắng duyên thù thắng, vậy thì
quá đáng tiếc. Cái điểm này chúng ta phải nhận biết rõ ràng.
Kinh
văn: “Vãng nghệ Phật sở, đảnh lễ trường quỳ, hướng Phật hiệp chưởng, tức dĩ
già tha tán Phật, phát quảng đại nguyện. Tụng viết”.
Đoạn
này là tán Phật phát nguyện. Phía sau có mười kệ tụng, mỗi một câu kệ tụng là
bảy chữ, rất gần giống với thể loại thi ca của Trung Quốc.
Trong
kinh Phật, thể loại đại khái có mười hai loại, nhà Phật gọi là “thập nhị phân
số”, nhưng từ trên hình thức mà nhìn cũng không ngoài ba loại. Một loại là văn
trường hàng, hiện tại chúng ta gọi nó là thể loại tán văn, trong kinh điển phần
nhiều là dùng phương thức này. Loại thứ hai là kệ tụng. Loại thứ ba là mật chú.
Luôn luôn trong một bộ kinh, ba thể loại này đều có. Tại vì sao Phật dùng loại
phương thức này để nói pháp? Chúng ta phải nên biết, văn trường hàng tiện ở
phát huy, không luận nói lý nói sự, có thể nói là lâm ly thống thiết. Thỉnh
thoảng xen vào một số thể loại thi ca là có dụng ý riêng. Ý nghĩa thứ nhất,
phía trước Phật đã nói rất nhiều, nếu như Phật nói ra những lời giáo huấn nhưng
chúng ta không thể ghi nhớ, các vị nghĩ xem làm sao có thể phụng hành? Giáo
huấn của Phật quan trọng nhất là y giáo phụng hành, không ghi nhớ thì bạn quyết
định không làm được, trừ phi số ít người có được sức ghi nhớ tốt, có thể đem
những phương pháp đạo lý Phật đã nói có thể ghi nhớ được, đại đa số không có
được năng lực này. Không có năng lực, nhưng trong đây cũng có một số người
thông minh, nắm lấy mấy câu quan trọng. Thí dụ chúng ta ở nơi đây giảng kinh,
hai giờ đồng hồ này bạn có thể nghe hiểu hai, ba câu, bạn cảm thấy mấy câu nói
này rất có thọ dụng đối với chính mình, cố gắng đem nó ghi nhớ, liền có thể
được lợi ích, liền có thể được chỗ tốt. Thậm chí mỗi một buổi giảng bạn có thể
ghi nhớ một câu, hai câu, mỗi ngày bạn đến nghe kinh, mỗi ngày ghi một câu, hai
câu, mỗi năm bạn liền viết được một quyển. Đó là thật, không phải là giả.
Năm
xưa tôi ở Liên Xã Phụng Sơn, miền nam Đài Loan. Vào lúc đó, pháp sư Chữ Vân mời
tôi giảng kinh một thời gian dài. Tôi ở Đài Bắc cũng có một đạo tràng, đương
nhiên không thể bỏ đi đạo tràng Đài Bắc, cho nên mỗi một tháng chỉ đến Phụng
Sơn giảng năm ngày. Vào lúc đó, có một vị lão cư sĩ Trần Hoàng Kỳ Hoa, con
người này rất có tâm. Bà đã hơn 60 tuổi. Mỗi lần bà đều đến nghe tôi giảng
kinh. Sau khi nghe rồi đều viết lại một, hai câu, không nhiều, ít nhất bà cũng
viết một câu, nhiều nhất bà cũng không viết quá năm câu. Sau khi tôi giảng xong
bà mang đến cho tôi xem, muốn tôi sửa lại cho bà. Rất đơn giản, chỉ có mấy câu.
Tích luỹ như vậy ba năm thì bà ra được một quyển sách, hơn nữa quyển sách này
phổ biến rất rộng, nghe nói đã in mấy mươi vạn quyển, ngay đến Trung Quốc đại
lục cũng có lưu hành. Tương đối không dễ dàng. Bà nói cả đời bà có ý nghĩa nhất
chính là làm được cái việc này. Cho nên các vị đều có thể làm theo cách làm như
vậy, mỗi lần nghe kinh mang theo một quyển sách nhỏ ghi chép, ghi lại một, hai
câu. Đương nhiên tôi cũng không hy vọng các vị đưa cho tôi xem, nhiều người như
vậy đưa cho tôi xem thì tôi cũng không làm nổi, thế nhưng rất có thọ dụng, có
lợi ích đối với chính mình. Đây là một biện pháp.
Thế
Tôn rất tường tận đối với chúng ta, biết được căn tánh của chúng ta không nhạy
bén, cho nên sau khi Ngài giảng xong, dùng kệ tụng trùng tuyên lại một lần,
loại kệ tụng này gọi là “trùng tụng”. Trong kinh điển nhiều nhất, đại đa số đều
là trùng tụng. Trùng tụng chính là đem những gì đã nói phía trước dùng kệ tụng
nói lại một lần. Văn tự kệ tụng ít, hơn nữa ngắn gọn, dễ dàng học thuộc. Trên
kinh Hoa Nghiêm các vị sẽ đặc biệt xem thấy, kinh Hoa Nghiêm rất nhiều kệ tụng.
Kệ tụng chính là muốn bạn phải ghi nhớ, văn trường hàng không thể học thuộc thì
bạn đọc kệ tụng. Có thể ghi nhớ thì chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày
mới có thể phụng hành, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm lập tức liền nghĩ
đến. Khởi tâm động niệm của chúng ta có tương ưng với lời giáo huấn của Phật
hay không? Nếu như tương ưng thì rất tốt, chính mình khuyến khích chính mình
phải nên nỗ lực hơn, càng tinh tấn hơn. Nếu như không tương ưng, lập tức liền
phải biết đó là lỗi lầm của chính mình, chính mình sai lầm, phải y theo giáo
huấn của Phật mà cải đổi. Đó là ý nghĩa thứ nhất của kệ tụng, trùng tụng.
Ý
nghĩa thứ hai, Phật giảng kinh không giống như lên lớp ở trường. Dạy học ở
trường học trò là cố định, đến giờ học thì nhất định phải đến, cho nên giáo
trình họ đều có thể tiếp nhận được. Phật giảng kinh cùng pháp hội ngày nay như
nhau, không có gò ép, không có ép buộc nào đối với thính chúng, do đó có người
đến trước, có người đến sau, thậm chí đến chúng ta giảng kinh ở nơi đây nhiều
năm đến như vậy còn có mấy vị đồng tu hôm nay lần đầu tiên mới đến nghe. Thế Tôn
năm xưa giảng kinh nói pháp, loại tình huống này rất nhiều. Thế Tôn Ngài rất từ
bi, người mới đến phía trước chưa được nghe thì phải làm sao? Cho nên Phật dùng
thể loại kệ tụng để lặp lại một lần, cũng chính là đem chỗ quan trọng đã nói
phía trước, đề cương yếu lĩnh giản lược nói lại một lần. Đối với người đến nghe
trước họ sẽ không cảm thấy nhàm chán, người đến sau cũng có thể bổ túc những
giáo huấn mà họ chưa được nghe, cho nên kệ tụng ở chỗ này thì rất cần thiết. Đó
là Thế Tôn nói pháp phương tiện khéo léo.
Ngoài
ra còn có một thể loại đặc thù chính là Mật chú. Mật chú không phải là phạn ngữ
Ấn Độ, người Ấn độ cũng nghe không hiểu, không phải là ngôn ngữ của họ. Người
xưa nói với chúng ta, chú ngữ là ngôn ngữ của quỷ thần sáu cõi, cho nên không
phải là ngôn ngữ của nhân gian. Phật giảng kinh, thậm chí pháp sư giảng kinh
đều có quỷ thần đến đạo tràng để nghe kinh. Mắt thịt chúng ta không nhìn thấy,
Phật Bồ Tát, các Ngài xem thấy được rất rõ ràng. Đương nhiên những quỷ thần này
cũng đều có thần thông, Phật giảng kinh họ có thể nghe hiểu được. Thông thường
hay nói: “Phật dĩ nhất âm, nhi thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải”,
làm gì có chuyện không nghe hiểu chứ? Sau khi Phật giảng xong, dùng ngôn ngữ
của họ, đem ý nghĩa quan trọng đã nói nêu ra vài câu. Đây là việc thường tình
của con người, đặc biệt thân thiết, dùng ngôn ngữ của quỷ thần nói với quỷ
thần, cho nên Mật chú là ý nghĩa này. Do vì thính chúng rất phức tạp, số lượng
cũng rất nhiều, Thế Tôn ở trong bất cứ pháp hội nào đều là có loại tình hình
này, tuyệt nhiên không nhất định đại kinh mới có loại tình hình này. Phật giảng
bộ kinh nhỏ, thiên long quỷ thần đến nghe cũng là rất nhiều, nên trong kinh
luôn luôn có ba thể loại này.
Vì
vậy ở ngay đoạn này là kệ tụng, kệ tụng này gọi là “Cô Khởi Tụng”. Cô khởi,
phía trước trường hàng tuyệt nhiên không có nói qua, đó là Bồ Tát Pháp Tạng
nói, là đối với lão sư của Ngài nêu ra tâm đắc của chính mình. Loại báo cáo này
là dùng thể loại tán tụng. Kinh văn vừa mở đầu là “vãng nghệ Phật sở”, đó là
Pháp Tạng đến chỗ lão sư giảng kinh nói pháp. Chữ “Phật” chỗ này chính là Thế
Gian Tự Tại Vương Như Lai, là lão sư của Pháp Tạng. Nhìn thấy lão sư thì “đảnh
lễ trường quỳ, hướng Phật hiệp chưởng”, đó là lễ tiết. Nhà Nho thường nói:
“Nhân vô lễ tất bất lập”, cho nên lễ rất là quan trọng. Con người không hiểu
lễ, ở vào xã hội thời xưa thì không có chỗ để đứng, cũng chính là nói bạn ở
trong xã hội mọi người không tôn trọng bạn, bạn không có địa vị trong xã hội.
Giáo học của nhà Nho, lễ chính là Nho hành, trong nhà Phật chính là luật nghi,
giới luật nghi qui. Đệ tử Phật nếu như xả bỏ luật nghi thì bạn đã xả bỏ đi
Phật hạnh. Ngày nay chúng ta học Phật là học cái gì? Học những gì Phật làm,
hay nói cách khác, chúng ta học đời sống của Phật, học hành vi của Phật. Hành
vi đời sống của Phật ghi chép lại thì gọi là luật nghi. Giới luật nghi quy vô
cùng là quan trọng, quyết định không thể xem thường. Xã hội hiện tại này tuy là
mọi người không nói lễ, thế nhưng bạn lấy lễ đối với người thì mọi người đều
hoan hỉ, không có ai chán ghét. Trái lại nếu như bạn không hiểu lễ mạo, mọi
người xem thấy đều rất không hoan hỉ, dường như là thấy không vừa mắt, hay nói
cách khác, dần dần sẽ xa lánh đối với bạn. Có thể thấy được lễ vô cùng quan
trọng. Tinh thần của lễ là biểu đạt thành kính của chính mình, cái điểm này rất
then chốt. Nếu trong tâm không có lòng thành kính, nghi thức ở bên ngoài đó là
hư nguỵ, cau mày nhíu mặt cũng rất dễ bị người xem thấy. Cho nên chúng ta đối
với người có lễ mạo chí kính, nhất định từ trong tâm chân thành mà sanh ra.
Thế
nhưng ở trên hình thức xưa nay không như nhau, như thời xưa vào thời đại của Đế
Vương, bá tánh xem thấy Đế Vương thì hành lễ chí kính. Lễ chí kính vào thời
trước là tam quỳ, cửu khấu, đó là lễ xưa. Còn ở trong nhà Phật chúng ta là đảnh
lễ ba lạy, đi nhiễu phía hữu ba vòng, chúng ta thường xem thấy ở trên kinh. Thế
nhưng sau khi đến Trung Quốc, đi nhiễu phía hữu ba vòng miễn rồi, đã bỏ bớt
rồi, chỉ là đảnh lễ ba lạy, đây là lễ kính nhất của nhà Phật chúng ta. Thực tế
mà nói, đảnh lễ ba lạy so với thấy quốc vương ba lần quỳ, chín lần cúi đầu đơn
giản hơn nhiều. Vào thời xưa, người nhỏ xem thấy người lớn, vào những ngày lễ
lớn trong năm, như ngày tết thăm viếng ông bà thì ba lần quỳ, chín lần cúi đầu.
Người lớn mừng sinh nhật, bạn đến chúc thọ cũng là ba lần quỳ, chín lần cúi
đầu. Đây là lễ xưa. Nghi quy hiện tại đã không còn quỳ lạy. Nguyên thủ của quốc
gia, người lãnh đạo quốc gia, đó là người chúng ta tôn kính nhất. Chúng ta nhìn
thấy họ, lễ tiết ngày nay là xá cúi đầu ba cái. Xá cúi đầu ba lần chính là lễ
kính nhất. Cho nên ở trên nghi thức tuy là xưa nay không như nhau, nhưng cái
tâm thành kính thì không hề khác nhau, chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này.
Nếu
ngày này chúng ta muốn đem Phật pháp mở rộng đến toàn thế giới, nghi qui của
chúng ta phải hiện đại hoá. Có rất nhiều người thanh niên không dám đến học
Phật, bạn hỏi họ vì sao vậy? Họ nói, học Phật phải cúi đầu, việc này tôi không
làm được. Bạn thấy, chỉ vì một nghi quy nhỏ như vậy đã chướng ngại rất nhiều
người không dám đến học Phật. Các vị phải nên biết, việc này quyết không phải
là ý của Phật, Phật là một người rất mở rộng, Phật không hề có chút cố chấp.
Bạn thấy, Phật không hề có phân biệt, không có chấp trước, thì làm sao Ngài có
thể cố chấp? Cho nên chúng ta hiểu rõ được ý nghĩa này, Phật pháp nhất định
phải đi đến hiện đại hoá, phải đi đến bổn thổ hoá thì mới có thể được người
hiện đại, người bản địa nhiệt liệt hoan nghênh. Ngày nay chúng ta đề xướng,
trong đạo tràng thấy hình tượng Phật Bồ Tát thì xá ba xá là được rồi, thực chất
là tốt, chắp tay cung cung kính kính, ba lần xá như ba lần cúc cung vậy. Nhưng
khi cử hành pháp hội thì chúng ta đảnh lễ ba lạy đối với Phật, bởi vì đó là một
điển lễ long trọng đặc thù. Bình thường xem thấy ở đạo tràng, ba lần vái chào
thì tốt, thì được rồi. Đề xướng như vậy thì rất nhiều thanh niên trẻ đều rất
bằng lòng tiếp nhận. Phật tiếp dẫn đại chúng, các vị đều biết được có Tứ Nhiếp
Pháp. Tứ Nhiếp Pháp là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bạn thấy Phật rất mở
rộng, Phật chưa từng miễn cưỡng người, chưa từng gây thêm chút phiền phức cho
người, luôn là làm cho người hoan hỉ ưa thích, chúng ta phải hiểu rõ nguyên tắc
này. Cho nên nhất định phải đề xướng nghi qui mới này thì mới có thể đem Phật
pháp phổ cấp đến toàn thế giới.
“Đảnh lễ trường quỳ”, các vị đều biết được ý nghĩa.
“Hướng Phật hiệp chưởng”, hiệp chưởng là biểu thị nhất tâm,
cho nên lòng bàn tay phải khép lại, biểu thị cái gì? Bình thường mười ngón tay
chúng ta đại biểu tán loạn. Tán loạn là không cung kính. Ngày nay nghe Phật nói
pháp, thỉnh giáo với Phật, chuyên tâm nhất chí đem cái tâm tán loạn thâu nhiếp
lại. Chắp tay biểu thị nhất tâm, cho nên bàn tay phải khép kín lại biểu thị
nhất tâm, đó là biểu pháp.
Phía
sau, “tức dĩ già tha tán Phật”. “Già tha” là tiếng Ấn Độ, dịch
thành ý Trung văn là Cô Khởi Tụng, chính là tán tụng phía sau, không phải là
những gì đã nói phía trước. Phía trước tuyệt nhiên chưa nói qua, nó là độc lập.
Cô Khởi Tụng cũng thường thấy trong kinh Phật, thế nhưng không có phổ biến như
trùng tụng. Cô Khởi tụng có lúc tác dụng của nó là bổ sung phần không đủ ở phía
trước. Ý nghĩa phía trước đã nói vẫn còn, vẫn chưa nói hết, dùng Cô Khởi Tụng
để bổ sung, hoặc là phía trước đã nói còn sót lại mà ý nghĩa rất quan trọng,
dùng phương thức này để bổ sung. Thế nhưng chỉ riêng tán thán Phật Bồ Tát thì
Cô Khởi Tụng dùng rất phổ biến, đây là dùng để tán thán.
“Phát quảng đại nguyện”, câu này là nói nội dung Ngài tán
tụng. Việc này rất thù thắng, đây là Pháp Tạng phát nguyện ở trước mặt lão sư,
cũng chính là thưa với lão sư nguyện vọng của chính mình, chính mình đã lập ra
nguyện vọng, người Trung Quốc chúng ta gọi là lập chí. Đối với cả đời của chính
chúng ta có thành tựu hay không, mấu chốt cũng là ở ngay chỗ này. Chí hướng
chính là nguyện vọng của một người ở ngay trong một đời. Ở ngay trong một đời
Ngài muốn thực hiện nguyện vọng của Ngài, cho nên trong đời sống, Ngài nỗ lực
phấn đấu. Ngài có phương hướng, có mục tiêu, Ngài liền có thể đạt được. Nếu như
một người không có chí hướng, bạn hỏi họ tương lai làm cái gì họ cũng không
biết. Các vị nghĩ xem họ sẽ có thành tựu gì? Không thể có được thành tựu. Có
thể thấy được, thành công thất bại đối với một người thì chí hướng là then
chốt, là tinh tuý. Trong Phật pháp gọi là phát nguyện cùng nhà Nho nói lập chí
không hề khác nhau, ý nghĩa hoàn toàn như nhau.
Chúng ta học Phật, nguyện vọng của chúng ta là gì? Nguyện
vọng thù thắng nhất là học làm Phật, đó là thù thắng nhất, hiếm được nhất. Chúng ta nghĩ xem, chính mình đi
vào trong Phật đường có phải là đến đây phát nguyện làm Phật không? Các vị đồng
tu đến nơi đây để nghe kinh, vì sao bạn muốn đến đây nghe kinh? Buổi tối hôm
nay buồn chán không có việc gì làm, đến nơi đây để tiểu khiển một chút. Đích
thực có người có loại tâm trạng này. Việc tiêu khiển này đương nhiên ở trong xã
hội văn minh hiện tại là tiêu khiển cao thượng nhất, so với những nơi tiêu
khiển thông thường thì việc này thực tế là cao minh hơn rất nhiều, thế nhưng
việc này không thể thành tựu. Chúng ta đọc Lục Tổ Đàn Kinh, chúng ta phải nên
học tập với đại sư Huệ Năng. Đại sư Huệ Năng đến Hoàng Mai tham kiến Ngũ Tổ,
cũng chính là lúc lạy Hòa thượng Hoằng Nhẫn, Ngài nói rất rõ ràng với Hoà
thượng Hoằng Nhẫn là “con đến nơi đây là muốn làm Phật”. Bạn xem, khẩu
khí của Ngài bao lớn? Ngài đến là muốn làm Phật, chúng ta rất ít nghe nói qua
có loại khẩu khí này. Ngài lập chí muốn làm Phật, Ngài chân thật đã làm được,
Ngài thật đã thành công, tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành
Phật”, Ngài thật đã làm Phật được rồi. Chúng ta nghĩ xem, chúng ta ở ngay trong
một đời này, trong khoảng mấy mươi năm chúng ta đã làm cái gì, đến thế gian làm
những việc chi? Ngay trong một đời này rốt cuộc có thể thành tựu được gì? Rất
quan trọng. Bạn ngay đến nguyện cũng không có thì ngay trong đời này bạn còn có
thành tựu được gì? Thực tế mà nói, cũng là sợ các vị đồng tu xem thường việc
này.
Đạo
tràng này được cảm ứng của chư Phật Bồ Tát, được chư Phật Bồ Tát hộ niệm. Cư sĩ
Lý Mộc Nguyên lãnh đạo ở nơi đây, xây giảng đường, xây niệm Phật đường, chỉ cần
các vị phát nguyện làm Phật thì nơi chốn này chính là tăng thượng duyên cho
bạn, giúp đỡ bạn ở ngay trong một đời này quyết định làm Phật. Có nguyện ắt
thành. Người xưa thường nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”, ngày nay
chúng ta không cầu thứ gì khác chỉ cầu làm Phật, mọi người nhất định phải phát
ra cái nguyện này.
Pháp
môn Tịnh Độ, tổ sư đại đức từ xưa đến nay nói với chúng ta, có ba điều kiện học
tập gọi là ba Tư Lương, đây là ba điều kiện cơ bản, đó là Tín-Nguyện-Hạnh.
Đương nhiên cái thứ nhất bạn phải tin tưởng, bạn không tin tưởng thì bạn làm
sao phát nguyện? Tín xếp ở thứ nhất. Đại sư Ngẫu Ích ở trong Di Đà Kinh Yếu
Giải, chữ “Tín” này Ngài đã giảng sáu điều.
Điều
thứ nhất tin tưởng chính mình. Con người nếu không có lòng tự tin thì Phật Bồ
Tát tuy là từ bi cũng không thể nào giúp được. Bạn chính mình có thể tin tưởng
thì người khác sẽ giúp đỡ bạn. Tin cái gì? Tin chính mình ngay đời này quyết
định có thể làm Phật. Đây là đại sư Ngẫu Ích giảng cho chúng ta nghe chữ tín
này, điều thứ nhất là tin tưởng chính mình.
Điều
thứ hai là tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, tất cả chư Phật Như
Lai có thể giúp chúng ta. Tin Phật là xếp ở hàng thứ hai, cái thứ nhất phải tin
chính mình, đây là chỗ khác nhau với các tôn giáo nói về chữ tin. Thông thường
các tôn giáo nói tin, cái thứ nhất là tin tha; Phật pháp chúng ta nói tin,
cái thứ nhất là tin chính mình, ta có Phật tánh, ta có thể làm Phật, sau đó lại
tin tưởng chư Phật Bồ Tát quyết định giúp đỡ chúng ta, quyết định thành tựu ta.
Việc này quan trọng. Cho nên có tin mới phát nguyện, nguyện là mục tiêu cả một
đời chúng ta nỗ lực phấn đấu, ở trong Phật pháp gọi là “tinh tấn”.
Mục
tiêu của tinh tấn, phương hướng của tinh tấn, người xưa thường nói cho chúng ta
nghe là “nguyện dĩ đạo hành”, nguyện dẫn dắt bạn tu hành; “hành dĩ tiễn
nguyện”, hành của chúng ta thực hiện nguyện vọng của chúng ta; “nguyện hạnh
tương chất” thì làm gì mà không thành tựu chứ? Nguyện giúp cho hành, hành giúp
cho nguyện, vậy mới có thể thành tựu. Hành của Tịnh Độ, chánh hạnh là chấp trì
danh hiệu. Trong vô lượng hành môn, đại đức xưa đều tán thán đây là pháp môn
rất đơn giản, rất dễ dàng, rất ổn định, hơn nữa rất có hiệu quả. Một pháp môn
tốt như thế này, đáng tiếc rất nhiều người không tin, vậy thì không còn cách
nào. Rất nhiều người không tin tưởng, chúng ta đều không lấy làm lạ, vì sao
vậy? Chư Phật Như Lai đều nói đây là “pháp môn khó tin”. Nếu như pháp môn này
vừa nói ra mọi người đều tin tưởng, vậy thì làm sao gọi là khó tin? Nói rồi mọi
người đều không tin tưởng, đó mới gọi là khó tin. Bạn có thể tin tưởng là không
dễ dàng. Bạn thấy hiện tại thế gian này có bao nhiêu người học Phật? Ngay trong
những người học Phật, có được bao nhiêu người niệm Phật? Số người quá ít. Các
nơi khác chúng ta không cần nói đến, lấy Singapore nơi đây mà nói, tín đồ Phật giáo
của Singapore có bao nhiêu người? Quyết không chỉ những người ngồi đây, lần đại
pháp hội nào tôi đều xem thấy có mấy vạn người. Đương nhiên tham dự pháp hội
tuyệt nhiên không phải tất cả tín đồ Phật giáo Singapore đều đến tham dự. Vậy
thì biết được, tín đồ Phật giáo Singapore rất nhiều, thế nhưng người niệm Phật
thì không nhiều. Bạn xem, ngày ngày đến nghe kinh, ngày ngày đến niệm Phật
đường để niệm Phật, niệm Phật đường chúng ta, hiện tại thứ bảy, chủ nhật đại
khái có bảy, tám trăm người. Bảy, tám trăm người so với tín đồ cả một khu vực
thì là số ít, rất ít, không đáng kể, vậy chẳng phải gọi là pháp khó tin đó sao?
Phật
phải niệm như thế nào? Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta “gom nhiếp sáu căn,
tịnh niệm tương tục”. Ngày trước từng có người hỏi tôi: “Pháp sư! Hai
câu này giảng như thế nào? Cái gì gọi là gom nhiếp sáu căn? Làm thế nào để
nhiếp sáu căn?”. Tôi nói với họ: “Tịnh niệm nối nhau”. Họ lại hỏi
tôi: “Làm thế nào mới có thể làm đến tịnh niệm nối nhau?”. Thì là “gom
nhiếp sáu căn”. Hai câu này hỗ trợ lẫn nhau, nếu bạn không hiểu được thì làm
sao gom nhiếp được sáu căn. Bạn ở trong niệm Phật đường thành thật mà niệm,
trong lòng chỉ có Phật A Di Đà, các niệm khác đều không còn thì là gom nhiếp
sáu căn. Cho nên niệm Phật đường chúng ta, đại khái không giống như các niệm
Phật đường ở nơi khác. Niệm Phật đường này toàn là Phật tượng của Phật A Di Đà,
không luận bạn nhìn từ phía nào đều là xem thấy tôn tượng này, bạn sẽ không có
phân biệt, sẽ không có chấp trước, tự nhiên liền làm đến được gom nhiếp sáu căn.
Nếu như Phật tượng của Phật A Di Đà có rất nhiều hình dáng, chúng ta xem thấy
rồi không biết được vị nào thì tốt, tương lai vãng sanh rốt cuộc không biết
hình dáng Phật A Di Đà nào đến tiếp dẫn ta, phiền phức này sẽ rất to. Cho nên
niệm Phật đường chúng ta Phật tượng rất nhiều, thế nhưng chỉ một tạo dáng,
tuyệt đối chỉ một kiểu dáng, giúp cho bạn gom nhiếp sáu căn, giúp cho bạn tịnh
niệm nối nhau. Tịnh niệm nối nhau chính là thường nói “không hoài nghi, không
xen tạp, không gián đoạn”.
Niệm
Phật đường tuy là niệm Phật, nhưng nghe kinh vẫn là rất quan trọng, sợ là niệm
Phật qua vài ngày mà không nghe kinh thì họ lại nghĩ tưởng xằng bậy. Ở niệm
Phật đường mọi người cùng nhau niệm Phật lại có rất nhiều ý kiến, vậy thì phiền
phức rồi. Cho nên trước khi bước vào niệm Phật đường, “hiểu rồi mới hành”, đó
là chính xác. Bạn hiểu được tường tận, hiểu được thấu suốt rồi, tâm được định
rồi thì sẽ không còn có ý kiến nữa, vậy thì niệm Phật đường đó có được kết quả.
Hiện tại chúng ta hiểu chưa đủ, biện pháp bổ cứu duy nhất chính là giải hành
tương ưng, có giải có hành thì đối với mọi người mới có thể có sự giúp đỡ nhiều
một chút. Mỗi ngày người theo tôi nghe kinh, không đi niệm Phật cũng không
được, tâm là bao chao, cho dù có thể nghe kinh nhưng không thể thâm nhập. Trên
kinh nói “thâm giải nghĩa thú”, họ không làm được. Có thể thấy được giải cùng
hành, người xưa nói giống như đôi cánh của chim, hai cái bánh của xe, thiếu một
cái thì không được. Ngày trước, đạo tràng của đại sư Ấn Quang tuy là không
giảng kinh, thế nhưng ở trong niệm Phật đường, khi mỗi lần chỉ tịnh một cây
hương đều có giảng khai thị, dùng phương pháp giảng khai thị để bù đắp giảng
kinh. Những phương pháp này, nếu dùng lời hiện tại mà nói, mục đích của Ngài
cũng chẳng ngoài xây dựng cùng hiểu mà thôi, dùng thuật ngữ của Phật pháp để
nói là xây dựng “kiến hoà cùng hiểu”, mục đích ở ngay chỗ này. Chỉ cần chúng ta
cùng hiểu, có kiến giải nhất chí, sáu phép hòa liền làm được.
Tăng
đoàn của sáu phép hòa, chúng ta trong khi truyền thụ Tam Quy giảng “quy y Tăng,
chúng trung tôn”. “Chúng trung tôn” giảng thế nào? Chúng chính là đoàn thể,
hiện tại chúng ta gọi là xã đoàn, thế xuất thế gian bao gồm trong tất cả xã
đoàn, cái xã đoàn này đáng được tôn kính nhất, đó gọi là chúng trung tôn. Vì
sao đáng được người tôn kính, đáng được đoàn thể khác tôn kính, đáng được các
đoàn thể khác noi theo? Bởi vì đây là tăng đoàn hòa hợp, đạo lý chính ngay chỗ
này. Nền tảng của hòa hợp là xây dựng ở ngày ngày nghe pháp, xây dựng trên đọc
kinh, nghe pháp. Rời khỏi đọc kinh, nghe pháp thì mỗi người có cách nghĩ của
mỗi người, mỗi người có ý kiến của mỗi người, vô thỉ kiếp đến nay, pháp môn,
tập khí của mỗi người không như nhau, cùng ở chung một nơi thì làm gì không có
ý kiến chứ? Đây là việc không thể nào. Cho nên, những đạo tràng Trung Quốc thời
trước ngày ngày giảng kinh. Nếu như y theo kinh Phật mà nói thì tương đối
nghiêm khắc. Ở trên kinh Phật yêu cầu chúng ta, mỗi ngày giảng kinh hai thời,
hai thời tu hành, đó là tiêu chuẩn Phật nói. Hai thời là hai thời của Ấn Độ
xưa. Ấn Độ đem ngày đêm phân làm sáu thời, bạn nghĩ hai thời là thời gian bao
lâu vậy? Hiện tại người Trung Quốc chúng ta gọi là tiểu thời, 24 giờ đồng hồ.
Tại vì sao gọi là tiểu thời? Có tiểu thì đương nhiên có đại, không sai, Trung
Quốc thời xưa dùng đơn vị thời gian là dùng tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tị, ngọ,
mùi, v.v…, mười hai thời, thời giờ của Trung Quốc dùng là mười hai thời. Hiện
tại chúng ta chọn lấy giờ phương Tây, toàn thế giới đều thông dụng, chúng ta
cũng chọn dùng, gọi nó là tiểu thời. Một thời của nó là nửa thời vào thời xưa
chúng ta, hai tiểu thời mới là một giờ của Trung Quốc. Thời của Ấn Độ lớn gấp
đôi so với chúng ta, cho nên một thời của Ấn Độ xưa là bốn giờ hiện tại. Vậy
thì Phật giảng kinh ngày hai thời chính là một ngày giảng kinh tám giờ đồng hồ.
Nghe kinh như vậy bạn mới có thể khai ngộ, không để bạn có vọng tưởng, không để
bạn có tạp niệm, để bạn ngày ngày đến nghe kinh. Thế nhưng nghe kinh cũng khó,
đến nơi đâu mà tìm pháp sư để giảng kinh cho bạn? Vào thời xưa, chúng ta xem
thấy ghi chép trong sách xưa, Đại sư Thanh Lương năm xưa còn ở đời giảng kinh
Hoa Nghiêm, Ngài đem bộ đại kinh này giảng qua 50 lần. Chúng ta tỉ mỉ quán sát,
Hoa Nghiêm giảng qua một lần chí ít phải một năm, một ngày giảng bao nhiêu giờ?
Tám giờ đồng hồ. Một ngày giảng tám giờ đồng hồ, một năm một bộ viên mãn. Ngài
giảng 50 lần thì 50 năm. Đại sư Ngài trường thọ, Ngài đã sống hơn 100 tuổi.
Chân thật là tám giờ giảng kinh, còn phải có tám giờ tu hành. Phương thức tu
hành không ngoài hai loại lớn, một loại là tham Thiền, một loại là niệm Phật.
Hay nói cách khác, mỗi ngày tám giờ giảng kinh, tám giờ niệm Phật hoặc là tám
giờ tham Thiền thì bạn không có vọng tưởng, không có tạp niệm. Cho nên loại đạo
tràng đó giống như lò luyện gang vậy, như là lò luyện thì đồng bể sắt vụn bỏ
vào cũng biến thành kim cang. Đạo tràng như vậy, vào hai, ba trăm năm gần đây
chúng ta không còn xem thấy, không còn nữa, đều không nghe nói qua.
Ngày
nay chúng ta ở nơi đây, gặp được một số Bồ Tát phát tâm, các vị nhân duyên chín
muồi, được Phật lực gia trì, long thiên ủng hộ, hy vọng đạo tràng như vậy có
thể lại xuất hiện ở Singapore. Cái nhân duyên này quá hi hữu. Chúng ta nghe rồi
vô lượng hoan hỉ, ngay trong tưởng tượng chúng ta chư Phật cũng hoan hỉ, long
thiên quỷ thần thảy đều hoan hỉ, cho nên đây là nhân duyên hi hữu. Tương lai
thôn Di Đà xây xong, có một hình tròn, một niệm Phật đường lớn. Hình tròn cũng
giống như cái lò luyện gang vậy, các vị bước vào rèn luyện, vậy thì chúng ta hy
vọng tương lai niệm Phật 24 giờ không gián đoạn. Đạo tràng như vậy quyết định
có thần hộ pháp chăm sóc, nếu bạn lười biếng thì thần hộ pháp sẽ trừng phạt
bạn, giống như thầy Ngộ Thiện chúng ta đã bị thần hộ pháp trừng phạt một lần.
Cho nên người tuy là nhiều, tôi tin tưởng quản lý sẽ không có chút phiền não
nào, tại sao vậy? Có thần hộ pháp quản lý, chư Phật hộ niệm, long thiên thiện
thần ủng hộ. Hai mươi bốn giờ đồng hồ không gián đoạn, vấn đề là tháng dài năm
rộng chúng ta còn có tinh thần đó hay không? Chúng ta tuân thủ lời giáo huấn
của lão Hòa thượng Đế Nhàn, niệm mệt rồi thì bạn nghỉ ngơi, nghỉ ngơi xong rồi
lập tức trở lại niệm Phật đường niệm Phật. Khi chúng ta giảng kinh, các vị chỉ
tịnh ở niệm Phật đường, ngồi lại nghe kinh, chúng ta dùng truyền hình, dùng
internet truyền qua. Mở màn hình ở niệm Phật đường ra, mọi người ngồi lại nghe
kinh. Sau khi nghe xong, tắt màn hình xếp gọn lại tiếp tục nhiễu Phật. Bạn nói
xem, tốt dường nào! Không hề khác nhau với thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Sáng
sớm hôm nay, tôi đã làm một thí nghiệm. Hôm trước, Dương hội trưởng của Tịnh
Tông Học Hội Hoa Kỳ Gia Châu gọi điện thoại cho tôi. Ông nói, buổi tối họ có
một lần họp mặt, các đồng tu rất nhiều, muốn tôi giảng một chút khai thị với
mọi người. Cách giảng thế nào vậy? Buổi tối của họ cũng chính là sáng sớm của
chúng ta. Tôi nói: “Được! Sáng sớm sau khi tôi ăn sáng xong sẽ giảng cho các
vị nửa giờ đồng hồ”. Cho nên sáng sớm ngày hôm nay dùng nửa giờ giảng cho
các đồng tu Gia Châu bên đó nghe. Họ ở bên Gia Châu dùng internet tiếp sóng
trên màn hình lớn, họ đều nghe được, nghe được rất hoan hỷ. Sau khi nghe xong,
ông viết một lá thư gởi fax cho tôi, hiệu quả rất tốt, hy vọng chúng ta gởi
băng thu âm qua đó. Việc này thuận tiện quá nhiều, chúng ta người không cần
phải đi, bạn thấy hình ảnh âm thanh đều truyền đến Gia Châu, đồng một thời gian
đều có thể tiếp sóng xem được. Cho nên tương lai, không luận chúng ta giảng ở
bất cứ nơi nào, cùng với các đồng tu nói chuyện, đều sẽ đem hình ảnh âm thanh
truyền đến niệm Phật đường.
Học
Phật phải Tín-Giải-Hành-Chứng, bốn điều này chúng ta phải đều quan tâm đến,
đồng thời ứng dụng. Nếu như chúng ta có nguyện vọng này, ngay trong một đời này
quyết định có thành tựu. Tôi có thể giúp được thì tôi toàn tâm, toàn lực giúp
đỡ mọi người. Chúng ta còn có một nhóm pháp sư trẻ, mọi người đều phát đại
nguyện này, “tiếp nối huệ mạng Phật, hoằng pháp lợi sanh”. Hy vọng trong tương
lai, trên toàn thế giới đều có thể xây dựng mô hình đạo tràng này ở rất nhiều
khu vực. Chúng ta nghĩ, chỉ cần có Bồ Tát chân thật phát tâm để làm thì nhất
định nhận được cảm ứng. Chư Phật Bồ Tát quyết không có lòng riêng tư, không có
tâm thiên lệch, không thể nào chuyên môn chăm sóc Singapore mà không chăm sóc ở
nơi khác, vì tâm của Phật Bồ Tát là bình đẳng, là thanh tịnh. Chúng ta làm ra
một mô hình đầu tiên, kiểu dáng đầu tiên, cho nên thành công thất bại của chúng
ta quan hệ sẽ rất lớn, nhất định phải rất cố gắng, rất nỗ lực mà làm. Phải có
nguyện có hành. Có nguyện không có hành, nguyện là trống không, cũng bằng với
vọng tưởng. Có hành không có nguyện, cái hành này của bạn không có phương
hướng, không có mục tiêu, hay nói cách khác, khổ tu như thế nào đến sau cùng
cũng không có kết quả, đây là nói có hành không có nguyện, không có kết quả,
cho nên nhất định phải hành nguyện tương ưng. Nguyện giúp cho hành, hành giúp
cho nguyện, như vậy mới có kết quả.
Nếu
chúng ta muốn làm Phật, chúng ta chân thật tìm ra được phương pháp lý luận làm
Phật rồi, đó là kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta xây thôn Di Đà, lão cư sĩ Triệu
Phốc Sơ rất hiếm có, đã đưa ra cho chúng ta ba chữ “Thôn Di Đà”, lại nêu ra cho
chúng ta tên của niệm Phật đường là niệm Phật đường “Liên Trì Hải Hội”. Triệu
Phốc lão là Bồ Tát tái sanh, năm nay hơn 90 tuổi rồi, nghe được việc của chúng
ta làm rất là hoan hỉ, đây đều là những vị Phật Bồ Tát làm tăng thượng duyên
cho chúng ta.
Chúng
ta dựa vào phương pháp và lý luận trên kinh điển thì nhất định thành công, nhất
là hiện tại chúng ta cùng với mọi người cùng nhau học tập Hoa Nghiêm. Hoa
Nghiêm là đại kinh Vô Lượng Thọ. Tiến độ của việc giảng kinh Hoa Nghiêm về sau
phải nhanh hơn. Hôm qua, tôi lật xem sơ qua, phía sau còn hai đoạn nữa thì
quyển thứ nhất viên mãn. Tôi liền nghĩ, chúng ta đã giảng hơn nửa năm rồi mới
giảng được một quyển. Tám mươi quyển Hoa Nghiêm, nửa năm giảng một quyển thì
phải giảng bốn mươi năm, vậy là không thể được rồi, cho nên về sau tiến độ của
chúng ta nhất định phải nhanh hơn. Nhanh hơn, tôi nghĩ phương pháp của chúng ta
là có thể tỉnh lược thì đọc lướt qua, cần phải nói rõ thì giảng tỉ mỉ, , nếu
không dùng loại phương thức này thì thời gian sẽ rất dài. Nếu như Hoa Nghiêm 80
giảng đến 59 quyển, lại tiếp theo Hoa Nghiêm 40 thì 99 quyển. Chín mươi chín
quyển thì gần bằng 100 rồi, vậy bộ kinh này nếu giảng như tiến độ hiện nay thì
phải giảng 50 năm. Ngài Thanh Lương 50 năm giảng 50 bộ, chúng ta 50 năm giảng
một bộ thì thật không đúng, vì vậy tiến độ này phải nhanh hơn.
Cầu
sanh Tịnh Độ phải có chí hướng lớn, không nên nói tôi vãng sanh hạ phẩm hạ sanh
thì được rồi, chí hướng này quá nhỏ. Chúng ta nhất định phải phát ra cái nguyện
vãng sanh thượng thượng phẩm. Nếu lỡ không sanh được thượng thượng phẩm thì còn
có thượng trung phẩm, thượng hạ phẩm. Vì vậy, nguyện vãng sanh không nên quá
thấp, hạ hạ phẩm vãng sanh, nếu dưới một chút thì không được, cho nên nhất định
phải phát đại tâm, phải tranh thủ thượng thượng phẩm vãng sanh. Thượng thượng
phẩm vãng sanh, tôi đã nói qua với các vị rất nhiều lần, nhất định phải đem
kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Kinh A Di Đà (đây là Tịnh Độ ba
kinh rất quan trọng), đem giáo huấn trong ba kinh biến thành tư tưởng, kiến
giải, hành vi của chính mình, đối nhân xử thế tiếp vật luôn không lìa giáo huấn
của Phật thì chúng ta liền có thể đạt được. Tiêu chuẩn của chín phẩm, tôi có
một cách nhìn đơn giản hơn so với người xưa. Nếu như chúng ta đem giáo huấn
trên kinh Vô Lượng Thọ làm đến được 100% thì bạn nhất định được thượng phẩm
thượng sanh; nếu như bạn chỉ làm đến được 90%, vẫn còn 10% chưa làm được, thì
bạn được thượng phẩm trung sanh; nếu như tiêu chuẩn của bạn hướng xuống thấp
hơn, ta có thể làm đến được 80%, vẫn còn 20% chưa làm được, vậy thì bạn được
thượng phẩm hạ sanh. Y theo thứ tự này mà giảm lần, giảm đến hạ phẩm hạ sanh
thì phải làm đến được 20%, hay nói cách khác, chí ít bạn phải làm đến được 20%,
không làm đến được 20% thì không thể có được vãng sanh, vậy phải nhờ vào vận
may khi bạn lâm chung. Nếu như bạn có thể làm đến 20% – 30% – 40%, thì quyết
định nắm chắc được phần vãng sanh, không có chút hoài nghi nào. Phải thật làm,
có như vậy thì A Di Đà Phật, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, cho đến mười phương
tất cả chư Phật Như Lai và chúng ta đều đồng tâm, đồng chí, đồng nguyện, đồng
hạnh, bạn nói xem cái nhân duyên này thù thắng dường nào. Lấy thượng phẩm vãng
sanh thì có gì khó chứ? Đạo lý này chúng ta phải hiểu, phải nhớ lấy, chăm chỉ
nỗ lực mà làm.
Đoạn
kinh văn sau là Bồ Tát Pháp Tạng “tán Phật”, “phát nguyện”, Ngài là tấm gương
của chúng ta, chúng ta phải nên học tập với Ngài. Hai câu phía trước là “tán
Phật”, tiếp theo sau từ câu thứ ba đến câu thứ chín là “phát nguyện”, câu sau
cùng là thỉnh Phật chứng minh cho Ngài. Trước tiên chúng ta xem Ngài tán Phật.
Kinh
Văn:
“Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm
Nhất thiết thế gian vô hữu đẳng
Quang minh vô lượng chiếu thập phương
Nhật nguyệt hỏa châu giai nặc diệu”.
Đây là bài kệ tụng thứ nhất. Các vị
xem, quyển này là quyển của “Khoa Hội”, khoa phán của chúng ta là “quang tướng
vô đẳng”, bài kệ này khen quang minh tướng hảo của Phật. Chúng ta thường hay
đọc kệ tán Phật là “tướng hảo quang minh vô đẳng luân”, chính là một câu này. Ở
ngay đây là bốn câu thì đương nhiên nói được càng rõ ràng hơn.
“Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm”.
Pháp Tạng ngay chỗ này không có nói Thế Tôn vi diệu sắc đoan nghiêm, cũng không
có nói Phật Đà vi diệu sắc đoan nghiêm, Ngài dùng “Như Lai”, cái ý này rất sâu.
Nếu như nói là Chư Phật, nói là Thế Tôn, chúng ta xem thấy cái chữ này, chúng
ta là phàm phu, chúng ta không có phần, chỉ có Phật mới có phần. Nếu nói Như
Lai thì mọi người chúng ta đều có phần. Như Lai là nói cái gì? Như Lai là nói
tự tánh, chân như bổn tánh, đây là trên đại kinh thường dùng. Người Trung Quốc
đọc kinh Kim Cang rất nhiều. Kinh Kim Cang có lúc nói chư Phật, có lúc thì nói
Như Lai. Phàm hễ gọi chư Phật là từ trên tướng mà nói, phàm hễ gọi Như Lai là
từ trên tánh mà nói. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh gọi Như Lai.
Hay nói cách khác, cái ý này chẳng phải là ngầm bao hàm lấy, Thế Tôn ở trong
phẩm Xuất Hiện của Hoa Nghiêm nói: “tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng
Như Lai”, chẳng phải là cái ý này hay sao? Cho nên không dùng Phật Đà, không
dùng chư Phật mà dùng Như Lai.
“Vi” là tinh vi, “diệu” là diệu thiện,
đó là tán thán sắc tướng. “Sắc” chính là sắc thân. Tướng hảo, vẻ đẹp của thân
tướng tinh vi diệu thiện đến cùng tột, đoan chánh trang nghiêm, không tìm ra
một chút kém khuyết trong tướng hảo, đây là đại viên mãn.
Phía sau là dùng thí dụ để so sánh: “Nhất
thiết thế gian vô hữu đẳng”. “Tất cả thế gian”, hữu tình thế gian thì không
cần phải nói, hữu tình thế gian bao gồm mười pháp giới, Phật Bồ Tát trong mười
pháp giới đều không thể so sánh. “Đẳng” là bình đẳng với Ngài. Trong đây còn có
ý nghĩa rất sâu, sâu đến chỗ nào vậy? Đoạn kinh văn phía sau nói ra, chỗ này là
hàm chứa trong đó không có nói ra, phía sau lại tiết lộ ra. Mỗi một người vãng
sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho dù là hạ hạ phẩm vãng sanh đến thế giới
Tây Phương Cực Lạc thì sắc tướng của bạn không hề khác biệt với Phật A Di Đà.
Chẳng phải câu nói này chính là tán thán người vãng sanh đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc hay sao? Nếu như chúng ta muốn tu đắc “Như Lai vi diệu sắc đoạn
nghiêm” thì không phải là việc dễ dàng. Trong kinh này có vô số so sánh, so
sánh đến phước báo của Đại Phạm Thiên Vương. Đại Phạm Thiên Vương cũng có 32
tướng 80 vẻ đẹp. Tuy là đầy đủ 32 tướng 80 vẻ đẹp, nhưng so với ứng thân của
Thế Tôn vẫn còn kém rất xa. Thế nhưng các vị phải nên biết, thế giới Cực Lạc là
pháp giới nhất chân, không phải ứng thân của thế gian. Cái thế giới đó, trên
kinh thường nói, Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, thể chất của
thân đều là “tử ma chân kim sắc thân”. Chúng ta cần phải nhận biết rõ ràng, sau
đó đối với cái túi da thối này sẽ không ham tiếc, cái thứ này phải sớm ngày xả
bỏ nó để đổi một cái thân “tử ma chân kim sắc thân”, để đổi một khuôn mặt “vi
diệu sắc đoan nghiêm”, không chỉ 32 tướng 80 vẻ đẹp, vừa đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc liền đổi khác. Cho nên mọi người nhất định phải hiểu được, quyết
định không có chết, chỉ là thay đổi hình sắc mà thôi, làm gì mà chết? Không
phải chết, thay đổi hình sắc mà thôi. Người thông minh nhất, người thế gian đệ
nhất đẳng đem diện mạo của mình đổi thành diện mạo của Phật. Đây là mật nghĩa
hàm chứa trong bài kệ, chúng ta phải biết tranh thủ. Hai câu này là nói sắc
tướng.
Hai câu sau là nói quang minh: “Quang
minh vô lượng chiếu mười phương”. Loại quang minh này là ánh sáng của thân,
không phải nói phóng quang. Thân quang của Phật là vô lượng vô biên biến chiếu
mười phương pháp giới, ánh sáng này là trí tuệ Bát Nhã vốn đủ trong tự tánh, là
ánh sáng vốn đủ trong tự tánh, không phải từ bên ngoài đến. Chứng được tâm tánh
viên mãn thì ánh sáng của tánh đức làm gì mà không chiếu đến mười phương chứ?
Phía sau cũng là thí dụ: “Nhật
nguyệt hỏa châu giai nặc diệu”. Hiện tại chúng ta ở thế gian này đã thấy
được ánh sáng thù thắng nhất cũng không thể hơn được mặt trời, đây là mắt thịt
chúng ta có thể thấy được, kế đến là mặt trăng. “Hỏa châu”, “hỏa” là đại biểu
hỏa diệm, đều là tượng trưng cho ánh sáng. “Châu”, bảo châu cũng phát ra ánh
sáng. Đây là nói thế gian này tất cả thể ánh sáng phát ra, ở trong quang minh
tự tánh nó đều không thể hiển thị ra được. “Nặc diệu”, nặc chính là chiếu diệu
của Ngài, quang huy của Ngài không có. Giống như chúng ta vào ngày trời trong
xanh, khi mặt trời không có mây che khuất thì ánh mặt trời rất sáng lạn, chúng
ta ở dưới ánh mặt trời, dù có thắp lên hàng ngàn ánh sáng đèn điện thì ánh đèn
cũng không hiện ra được, cũng không thấy được ánh đèn, đây là ý nghĩa của “nặc
diệu”.
Tướng hảo quang minh đó là đạo lý gì?
Phật nói với chúng ta “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Ở trong cảnh giới
của tự tánh này chỉ có duy tâm sở hiện, cho nên cảnh giới hiện ra gọi là pháp
giới nhất chân. Các vị phải nên biết, kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Viên Giáo Sơ Trụ
đã lìa khỏi tâm ý thức, không còn dùng tâm ý thức, họ đã xả bỏ “duy thức sở
biến”, cho nên pháp giới là nhất chân. Tất cả chúng sanh hữu tình chưa lìa khỏi
tâm ý thức, phàm phu sáu cõi, pháp giới bốn thánh đều chưa lìa khỏi tâm ý thức,
đều là dùng tâm ý thức. Trong pháp giới bốn thánh dùng được chánh, cũng chính
là nói tâm ý thức mà họ dùng tương ưng với tánh đức pháp tánh, chỉ có thiện
không có ác, tương ưng với thiện. Phàm phu sáu cõi dùng tâm ý thức dùng được
bất thiện, hay nói cách khác, không tương ưng với thiện pháp, tương ưng với
tham-sân-si-mạn, tương ưng với pháp ác, như vậy mới đem pháp nhất chân biến
thành mười pháp giới, đạo lý chính ngay chỗ này. Thế nhưng các vị phải nên
biết, thức không lìa khỏi tâm tánh, thức nương tâm mà khởi, lìa khỏi tâm làm gì
có thức? Thức không lìa tâm. Sau đó chúng ta liền biết được, sở biến bất ly
năng biến, đây chính là nói rõ mười pháp giới không lìa pháp giới nhất chân.
Pháp giới nhất chân là tâm hiện, mười pháp giới là thức biến, thức không lìa
tâm, mười pháp giới không ngoài pháp giới nhất chân. Thế nhưng tất cả chúng
sanh mê mất đi tự tánh, mười pháp giới tuy là không rời khỏi pháp giới nhất
chân nhưng thọ dụng của pháp giới nhất chân họ không có được; không chỉ không
có được, họ thấy cũng không thấy được. Thế nhưng Bồ Tát trong pháp giới nhất
chân đối với những chúng sanh trong mười pháp giới thì rõ ràng tường tận, thông
suốt thấu đáo; đối với hoàn cảnh đời sống của chúng ta, tất cả khởi tâm động
niệm tạo tác của chúng ta, các Ngài thảy đều biết hết. Những sự việc này ở
trong bộ kinh này đều có thuyết minh tường tận. Chúng ta thể hội được đạo lý
này thì đối với những sự tướng mà Phật đã nói, chúng ta liền tin tưởng.
Người hiện nay không tin tưởng nhân
duyên quả báo. Vì sao họ không tin tưởng? Không hiểu được đạo lý này, nếu như
bạn chân thật hiểu rõ đạo lý của “tâm hiện thức biến”, bạn liền tin sâu không
hoài nghi đối với nhân quả. Cho nên nói: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất
không”. Vì sao nhân quả bất không? Nhân quả chuyển biến bất không, nhân quả
tiếp nối bất không, hiện tượng của nhân quả chuyển biến từng giây. Loại hiện
tượng này thì ở ngay trước mắt chúng ta, chúng ta không thấy được, hơn nữa tốc
độ chuyển biến rất nhanh, sát na chuyển biến. Nói sát na là đã nói quá dài rồi,
sự việc này chúng ta để lại phần sau quyển một kinh Hoa Nghiêm sẽ nói đến, thực
tế mà nói là không thể nghĩ bàn.
Kinh văn:
“Thế Tôn năng diễn nhất âm thanh
Hữu tình các các tùy loại giải
Hữu năng hiện nhất diệu sắc thân
Phổ sử chúng sanh tùy loại hiện”.
Đây là bài kệ thứ hai.
Trên khoa đề này là “âm thân phổ độ”.
Chư Phật Bồ Tát xuất hiện ở thế gian. Cái thế gian này gọi là hữu tình thế gian
là chỉ sáu cõi, trí chánh giác thế gian là chỉ Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
Phật trong mười pháp giới, trí chánh giác thế gian, còn có thế gian hữu tình,
khí thế gian. Tại vì sao nói khí thế gian? Bạn xem kinh Hoa Nghiêm, trong Thế
Chủ Diệu Nghiêm phẩm có khí thế gian chủ. Sơn thần, thần cây, thần hoa, thần
nước, đó là khí thế gian chủ. Đó là chỉ tất cả thế gian. Phật xuất hiện ở trong
tất cả thế gian là vì việc gì vậy? Vì để giúp cho tất cả chúng sanh giác ngộ,
giúp đỡ tất cả chúng sanh hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh, trên kinh
Bát Nhã đã nói “chư pháp thật tướng”. Giác ngộ tường tận rồi thì gọi bạn là
Phật Bồ Tát; không giác ngộ, không tường tận thì gọi là phàm phu. Phàm phu ở
thế gian này rất khổ cực, bạn ở thế gian này thời gian dài, chân thật là quá
khứ vô cùng vị lai vô tận, vô thỉ vô chung đều đang ở trong luân hồi. Bạn nói
xem, đời sống này khổ cực dường nào! Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, đó là các
vị thường hay đọc thấy trong kinh, thế nhưng cảnh giới này rất không dễ dàng
thể hội, thông thường nói đều là nói cảnh giới rất thô. Chúng ta ngay trong một
đời này mê hoặc điên đảo, tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, đời sau lại chịu
khổ báo ba đường, đây là nói được rất thô. Cách nói cực kỳ tinh vi là, mê là
một niệm bất giác, đó là khởi hoặc. Bất giác thì họ liền khởi lên vọng động, cái
động này chính là tạo nghiệp. Trong Tướng tông đã nói là “một niệm bất giác mà
có vô minh”. Một niệm bất giác là hoặc, mà có vô minh là tạo nghiệp, nên gọi là
“vô minh bất giác sanh tam tế”. Tam tế là quả báo, đó là nói với bạn “hoặc
nghiệp khổ”, nói đến chỗ cực kỳ vi tế. Bạn nói xem, cái thứ này có đáng sợ hay
không? Ngày nay chúng ta ngay đến nghiệp hoặc khổ thô cũng không cách gì đoạn
được, hoặc nghiệp khổ tế thì càng không biết. Hoặc nghiệp khổ vi tế ở trong
khoảng sát na, cho nên mới nói với bạn hiện tượng của luân hồi ở ngay trong
từng sát na. Phật Bồ Tát thấy được rõ ràng tường tận, cho nên mới gọi chúng
sanh của mười pháp giới đều là kẻ đáng thương. Không chỉ là phàm phu sáu cõi,
tội báo của ba đường, mười pháp giới ở trong mắt của Pháp Thân Đại Sĩ, chư Phật
đều là kẻ đáng thương. Những đạo lý này, chân tướng sự thật chỉ có Phật mới có
thể nói ra được, cho nên Phật xuất hiện ở mười pháp giới chính là phải cứu độ
tất cả chúng sanh.
Ngay đời này chúng ta đến thế gian để
làm gì? Thọ báo tạo nghiệp, bạn nghĩ xem có đúng không? Mỗi một ngày trải qua
đời sống khổ cực đến như thế, đó là thọ báo. Thọ báo lại không trung thực thọ,
một ngày từ sớm đến tối khởi tâm động niệm, phải quấy nhân ngã,
tham-sân-si-mạn, đó là tạo nghiệp. Chúng ta đến thế gian này là thọ báo tạo
nghiệp, đó là nói chân tướng với mọi người, nói lời thành thật. Chư Phật Bồ Tát
giác ngộ rồi, các Ngài đến là để giúp đỡ chúng ta lìa khổ được vui, giúp chúng
ta phá mê khai ngộ, các Ngài đến làm việc này. Bạn muốn hỏi tại vì sao đến thế
gian này? Đến thế gian này để làm cái gì? Chư Phật Như Lai cùng tất cả chúng
sanh, chỉ cần hai câu là nói ra hết, cho nên chỗ này tán tụng Phật đến độ chúng
sanh là “Thế Tôn năng diễn nhất âm thanh”. Bạn xem phía trước nói Như Lai, chỗ
này nói Thế Tôn, không như nhau. Phía trước nói tánh đức, chúng ta thảy đều có,
chỗ này thì chúng ta không có, nhất định phải nhờ vào tu đức. Tu đức có công
thì tánh đức mới hiện, chúng ta nhất định phải chăm chỉ nỗ lực mà tu trì.
Câu thứ nhất: “Năng diễn nhất âm
thanh”, trong tam mật tương ưng đó là mật ngữ. Phật dùng âm thanh để làm
Phật sự thì “hữu tình các các tùy loại giải”. Vì sao “hữu tình” họ thảy
đều có thể lý giải? Phật nói pháp một âm thanh. Ngày nay chúng ta nói pháp vì
sao rất nhiều người nghe không hiểu? Lý do này ở đâu vậy? Chúng ta có chướng
ngại, cho nên người khác nghe không hiểu, ngôn ngữ khác nhau thì nghe không
hiểu. Phật không có chướng ngại, cho nên bất cứ tộc loại chúng sanh nào nghe
cũng đều có thể hiểu, đều giống như ngôn ngữ của chính họ vậy. Chướng ngại ở chỗ
nào vậy? Chúng ta có phân biệt, có chấp trước, có vọng tưởng chính là chướng
ngại. Phật không chướng ngại, không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có
chấp trước, cho nên cái âm đó từ trong tự tánh lưu xuất ra. Trong tự tánh lưu
xuất ra, vừa rồi mới giảng tất cả chúng sanh duy thức sở biến, thức không lìa
tâm. Chúng ta hiểu rõ cái đạo lý này thì Phật một âm nói pháp, chúng sanh tùy
loại hiểu là có đạo lý. Tuy không thể vào được cảnh giới này, trên lý nói được
thông thì trên sự có thể.
Ngày nay chúng ta dùng thức, không có
dùng tánh. Thức chính là nơi nơi đều có chướng ngại, cho nên cùng đồng giảng
Hoa Ngữ, còn có tiếng địa phương khác nhau, người ta vẫn nghe không hiểu, thậm
chí trong lúc nghe còn hiểu sai đi ý nghĩa, việc này thường hay gặp phải. Do
đây có thể biết, nếu như muốn phát tâm phổ độ tất cả chúng sanh, muốn thực tiễn
đại nguyện thứ nhất trong tứ hoằng thệ nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, bạn thử nghĩ xem, không kiến tánh thì làm sao được? Mức độ thấp nhất cũng
phải chứng được địa vị Viên Sơ Trụ. Viên Sơ Trụ chính là Biệt Giáo Sơ Địa Bồ
Tát, cách nói của bạn không có chướng ngại.
Làm thế nào đạt đến địa vị này, đến
được cảnh giới này? Phật nói với chúng ta phải đoạn kiến tư phiền não, phải
đoạn trần sa phiền não, 41 phẩm vô minh phải phá một phẩm thì bạn mới có thể
vào được cảnh giới này. Phiền não phải đoạn từ chỗ nào? Phải bắt tay vào từ
đâu? Bắt tay vào từ kiến tư. Kiến là kiến giải sai lầm, Tư là tư tưởng sai lầm.
Đem tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm thay đổi lại. Việc này thì cần phải
luyện, phải thật làm. Vô lượng kiếp đến nay kiến giải của chúng ta sai rồi, sai
ở chỗ nào vậy? Đem cái thân này xem thành ta, vậy thì sai rồi. Nếu như bạn
không chịu buông bỏ chấp trước sai lầm của bạn, thì minh tâm kiến tánh bạn vĩnh
viễn không có phần, tại sao vậy? Tận hư không, khắp pháp giới là tâm tánh của
bạn biến hiện ra, thân thể này của chúng ta đương nhiên cũng không ngoại lệ,
cũng là tâm tánh biến hiện ra, thế nhưng hiện tại bạn chấp trước cái tâm tánh
này là ta, những thứ khác không phải là ta, kiến giải này là sai lầm, làm sao
bạn có thể hồi phục kiến tánh?
Cho nên, một người chúng ta muốn minh
tâm kiến tánh, muốn hồi phục tánh đức, thì niệm thứ nhất, Phật nói rất hay, tất
cả chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai. Phương pháp này của
Phật không những rất tuyệt diệu, mà còn là chân tướng sự thật, khéo léo đến
cùng tột. Bạn có thể đem tất cả chúng sanh đều xem thành cha mẹ chính mình, là
chư Phật vị lai, xem thành cha mẹ chính mình phải hiếu thuận, xem thấy là chư Phật
vị lai phải cung kính. Phật pháp học tập từ chỗ nào? Bắt đầu từ hiếu kính,
hiếu thuận tất cả chúng sanh, lễ kính tất cả chúng sanh, biết được mình cùng
tất cả chúng sanh là một thể, là một không phải hai. Bắt tay vào từ chỗ này thì
bạn mới có tiến bộ, công phu của bạn mới có lực. Không luận bạn tu học một
pháp môn nào, đây là bước đầu tiên. Bước đầu không làm được thì không cần nói
thứ khác, cho nên bước thứ nhất phải mở rộng tâm lượng. Tận hư không, khắp pháp
giới đích thực là chính mình, nhà Phật gọi là “thanh tịnh pháp thân”, đó là
thanh tịnh pháp thân của chính mình. Pháp thân chính là tự tánh, tánh hải, trên
kinh Phật thường dùng cái này để thí dụ, biển lớn pháp tánh, chân thật là chính
mình. Bạn có thể khế nhập rồi, khẳng định rồi, bạn liền chứng được pháp thân
thanh tịnh. Chứng được pháp thân thanh tịnh thì bạn chính là Viên Giáo Sơ Trụ
Bồ Tát, tánh đức, trí tuệ, đức năng của bạn liền hướng ra bên ngoài, bạn liền
được thọ dụng.
Hai câu nói trên là nói pháp, hai câu
sau là nói hiện thân: “Hựu năng hiện nhất diệu sắc thân, phổ sử chúng sanh
tùy loại hiện”. Đây là thân mật trong tam mật, hai câu phía trước âm thanh
làm Phật, giảng kinh nói pháp. Giảng kinh nói pháp, cái ý này là nghĩa rộng,
không thể nói nhất định phải triển khai kinh điển, chiếu theo từng câu từng câu
này mà giảng thì mới gọi là giảng kinh nói pháp. Đối nhân xử thế tiếp vật ngay
trong cuộc sống thường ngày, vừa mở miệng chính là giảng kinh nói pháp. Vì sao
vậy? Dụng ý của từng câu nói đều là giúp người khác giác ngộ, mỗi niệm đều giúp
tất cả chúng sanh lìa khổ được vui, cho nên chỉ cần mở miệng, chỉ cần có âm
thanh đều là nói pháp. Chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày có được ý
niệm này hay không? Có phải dùng loại tâm này hay không? Có phải mỗi giờ mỗi
phút, mỗi nơi mỗi chốn đều dùng trí tuệ của chính mình, dùng phương tiện khéo
léo của chính mình, khuyên nhủ nhắc nhở giúp người khai ngộ hay không? Họ nhất
thời không thể khai ngộ thì từ từ vậy, thường hay nhắc nhở thì sẽ có một ngày
họ giác ngộ, họ quay đầu. Cũng như vừa rồi tôi nghe mấy vị đồng tu nói với tôi,
nhà ăn dưới lầu chúng ta là “vô giá đại hội”, không nhất định phải là người tin
Phật đến ăn, bất cứ người nào đến ăn đều hoan nghênh. Nghe nói có những người
ăn cơm rất tham, họ không tin Phật nhưng đến lúc ăn cơm thì họ liền đến, từ
trước đến giờ không niệm một câu Phật hiệu, thế nhưng thời gian lâu dần, lâu
ngày dài tháng họ cũng biết niệm Phật, họ cũng thường hay đến thường trụ giúp
việc làm công quả, thời gian lâu rồi liền tin. Đây đều là nói pháp. Cho nên các
vị ở bên dưới mỗi ngày dọn thức ăn là giảng kinh nói pháp; nhà bếp nấu cơm là
giảng kinh nói pháp, bạn thấy thời gian lâu rồi đều khiến cho người ta sanh
thiện tâm, đều khiến cho người hồi đầu. Cho nên giảng kinh nói pháp là nghĩa
rộng, không phải nghĩa hẹp.
Phía sau đây hiện thân nói pháp là thân
giáo, bạn thị hiện ra là một thân tướng, rất nhiều chúng sanh xem thấy thân
tướng này có cảm xúc không như nhau, đó chính là “phổ sử chúng sanh tùy loại
kiến”. Chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày cũng là có những việc này,
chính mình không thể giác tri, không thể cố gắng dùng âm thanh của chính mình,
dùng biểu hiện của thân thể chính mình. Âm thanh của chúng ta, biểu hiện của
chúng ta đều làm cho chúng sanh sanh phiền não, đều là giúp chúng sanh tăng
thêm hoặc nghiệp khổ, tăng thêm tham-sân-si, chúng ta làm ra là những thứ này.
Chư Phật Bồ Tát ứng hoá ở thế gian, âm thanh của các Ngài, biểu hiện của các
Ngài là giúp chúng sanh giác ngộ, giúp chúng sanh lìa phiền não, giúp chúng
sanh quay đầu là bờ, chúng ta học Phật phải từ ngay chỗ này mà học, học Phật
hiện thân, học Phật nói pháp. Phật thì thân, ngữ, ý tam mật, chúng ta lại chẳng
phải là tam mật hay sao? Căn tánh chúng sanh không như nhau, tập khí không như
nhau, đáng dùng phương thức gì để độ, chúng ta liền dùng phương pháp đó. Chúng
ta dùng phương pháp thái độ đối với anh A thì không thích hợp với anh B, đối
với A có thể giúp anh ấy sanh tâm hoan hỉ, giúp cho anh ấy giác ngộ, nhưng nếu
như dùng phương pháp này đối với B thì B sanh phiền não, B mê hoặc điên đảo thì
đối với B cần phải chọn một phương pháp khác. Chúng ta thấy chư Phật Như Lai
dùng vô lượng phương pháp đối với tất cả chúng sanh, thế nhưng có một nguyên
tắc lớn, đó là quyết định phải tương ưng với tánh đức, tánh thiện. Đặc biệt là
ở trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta có thể học được rất nhiều. Phật Bồ Tát sống ở
thế gian này, thái độ sinh hoạt của các Ngài, phương pháp sinh hoạt, chúng ta
phải tỉ mỉ mà thể hội, phải nỗ lực học tập. Từ hiện tượng thô thiển, thí dụ có
rất nhiều đồng tu đã từng đến tham quan du lịch Trung Quốc đại lục, rất nhiều
người đến núi Phổ Đà. Núi Phổ Đà có một động Phạm Âm, mọi người đều muốn vào
trong động đó để xem Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân. Ngày trước pháp sư Thánh
Nhất ở Hong Kong nói với tôi, lúc ông 82 tuổi, ba người xuất gia đến bái Phổ
Đà, ở ngoài cửa động Phạm Âm lạy Bồ Tát Quán Âm. Lạy qua nửa giờ thì thấy được,
mọi người đều rất hoan hỉ, cảm khích Bồ Tát Quán Âm hiện thân. Khi quay về đôi
bên hỏi nhau, Ngài thấy được Bồ Tát Quán Âm hình dáng như thế nào? Pháp sư
Thánh Nhất thấy được là kim thân, thân sắc vàng, đội mão Tỳ Lư, giống như mão
Bồ Tát Địa Tạng đội. Một vị pháp sư khác thấy được là Quán Âm bạch y thông
thường chúng ta thấy trên những bức họa. Một vị pháp sư nữa thấy được là tướng
Tỳ Kheo, người xuất gia. Bạn xem, ba người cùng đồng lạy nửa giờ đồng hồ, ba
người đều xem thấy nhưng xem thấy không như nhau. “Phổ sử chúng sanh tùy loại
kiến”, có phải Bồ Tát Quán Âm có ý hiện ra thân tướng này cho bạn xem, hiện ra
cái thân tướng kia cho bạn xem hay không? Không phải vậy, không có ý, cái thấy
của chúng ta là do nghiệp cảm khác nhau, cho nên thấy được thân tướng của Phật
cũng không như nhau. Phật Bồ Tát không có hình tướng nhất định, chúng sanh thấy
được tướng là tùy theo nghiệp lực của chính mình mà cảm ra.
(Còn
tiếp …)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Discussion about this post