TU HỌC ĐỂ HOẰNG PHÁP
Cư Sĩ Nguyên Giác
Sau đây,
là một số góp ý trong cương vị cư sĩ để giúp hoằng pháp ở hải ngoại, trong đó nêu
lên ý chính: trước tiên phải là lo tu và học, nghĩa là học và hành; sau là khuyến
tấn tu học, nghĩa là quảng bá chánh pháp, biện biệt được các nghĩa đúng sai, và
dùng mọi phương tiện có thể có để mời gọi mọi người cùng tu học.
Bản thân
từng người cư sĩ phải lo siêng năng tu học. Bởi vì, không tu, không học sẽ không
làm được gì hết, và sẽ trở thành gương xấu cho các thế hệ sau, làm mất lòng tin
từ tứ chúng, và tự cứu mình cũng không nổi. Thứ nhì, tìm phương pháp tiếp cận với
tứ chúng trong các chùa, để hỗ trợ việc tu học, việc huấn luyện thế hệ kế tiếp.
Và sau cùng, tiếp cận thích nghi với tất cả các thành phần khác trong và ngoài
cộng đồng, và với cư dân địa phương.
Về bản
thân từng người cư sĩ, trước tiên là phải thực tu, thực học. Chuyện học, cả pháp
thế gian và pháp xuất thế gian, cực kỳ quan trọng, vì để giúp tự mưu sinh, tìm
việc, hướng dẫn người khác, và tự phát triển những khả năng tiềm ẩn có thể có để
sau này thêm phương tiện hoằng pháp. Muốn thực tu, thực học cần phải ngàỳ đêm
nuôi dưỡng Bồ Đề Tâm, luôn luôn thấy mình là người gìn giữ giáo pháp Đức Phật.
Về học,
cần học các pháp thế gian cho vững, để ngay trong xã hội tự mình trở thành nơi
nương tựa cho người khác. Các khả năng căn bản nên rèn luyện như viết tin, viết
bài, sáng tác văn học, chụp ảnh, sử dụng
máy vi tính, thuyết trình, tổ chức… Pháp thế gian không nắm vững, tất nhiên
phương tiện hoằng pháp sẽ hạn hẹp.
Hãy tham
dự các đại lễ, các hội nghị, các thiền thất và nhìn cách hoằng pháp của các vị
sư và cư sĩ Hoa Kỳ, Tây Tạng, Thái Lan, Đài Loan, Việt Nam… chúng ta sẽ thấy
việc hoằng pháp là một kết tập rất nhiều công sức của nhiều người, và đòi hỏi
nhiều kỹ năng. Đọc kỹ một cuốn sách về Thiền, hay một tạp chí Phật Giáo, chúng
ta sẽ thấy đó là những công trình có khi là của riêng một người, có khi là của
nhiều người – nhưng thành công hay thất bại sẽ là do những kỹ năng rèn luyện
nhiều năm mà thành, và có khi là do cơ duyên từ nhiều đời trước. Gặp một câu văn
dở, độc giả sẽ không muốn đọc tới đoạn kế
tiếp. Gặp một câu tối nghĩa, độc giả có thể hiểu trật ý tác giả. Nghe một cô ca
sĩ hát hay, buổi văn nghệ Phật Đản năm sau có thể thu hút thêm nhiều người chưa
từng biết Đạo Phật tới tham dự. Kho tàng thơ Thiền còn lưu truyền qua nhiều thế
kỷ, chưa nói chuyện đạo vị, thấy trước tiên là vì thơ hay. Thơ dở là đã biến mất
từ lâu.
Ngoài
ra, người cư sĩ có thể tự học thêm những khả năng khác để có thêm phương tiện hoằng pháp. Bạn có thể vào mạng YouTube (www.youtube.com) và gõ chữ “chinese ink” để tự
học Thư Pháp và tranh thủy mặc, hay gõ chữ “drawing” hay “painting” để học vẽ,
sau này có thể vẽ tranh Thiền trong những cơ duyên nào đó.
Trong các
pháp thế gian cần học hiện nay ưu tiên còn là Anh Văn. Có rất nhiều bản văn về
Phật Giáo chúng ta đọc trong những bản Việt dịch nhiều thập niên qua ở quê nhà
có ngôn ngữ tối tăm, có khi dịch không đúng. Cho nên, nếu đọc đối chiếu bản Anh
ngữ sẽ có cơ duyên nhìn Đạo Phật dưới lăng kính đa diện hơn. Thí dụ, Kinh Pháp
Cú có rất nhiều bản dịch khác nhau. Chuyện thời xưa, chúng ta đành để cho các
nhà sử học đối chiếu, thí dụ 3 bản tiếng Sanskrit và 4 bản tiếng Trung Quốc. Nơi
đây chúng ta chỉ bàn về 24 bản Kinh Pháp Cú tiếng Anh dịch từ tiếng Pali.
Chỉ riêng
phân tích về bài kệ số 372 trong Kinh Pháp Cú, các bản Anh ngữ đã mang nhiều
nghĩa lệch nhau.
Bài kệ này
được Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang Việt ngữ:
“Không trí tuệ, không thiền, Không
thiền, không trí tuệ. Người có
thiền có tuệ, Nhất định
gần Niết-Bàn.”
(http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-8452_5-50_6-1_17-48_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark)
Tác giả Sotapanna
Jhanananda (Jeffrey S. Brooks) đã viết bài
“A comparative analysis of 23 translations of Dhammapada Verse 372 to Reveal
the Variability in Translation” (Phân Tích Đối Chiếu 23 Bản Dịch Bài Kệ 372 của
Kinh Pháp Cú Để Hiển Lộ Các Dị Biệt Trong Dịch Thuật — http://www.greatwesternvehicle.org/translation.htm)
trong đó ông đối chiếu 24 bản Anh ngữ về
bài kệ 372.
Chỉ cần
trình độ tu học trung bình, một người giỏi tiếng Anh có thể thấy rằng nhiều dịch
giả Anh ngữ đã dịch sai (nói lịch sự: không chính xác), cho dù họ đều là các học
giả nổi tiếng hoặc các vị sư nổi tiếng của thế giới. Nếu bạn chỉ đọc một bản dịch,
bạn sẽ không có cơ hội đối chiếu, và đành phải tin vào riêng một người. Cũng y
hệt như khi 24 cô thiếu nữ đứng bên nhau, chúng ta sẽ thấy ngay cô nào trắng hơn,
cao hơn, gầy hơn, cười tươi hơn, vân vân. Không có gì tuyệt vời hơn cho người
tu học khi đọc đối chiếu tới 24 bản Kinh Pháp Cú để dò tìm chính xác ý của Đức
Phật thời xưa. Đây cũng là lý do chúng ta không nên hoàn toàn nương tựa riêng một
vị sư, mà nên tiếp cận nhiều vị, và nên học nhiều pháp môn, trước khi chọn một
pháp thích nghi cho mình.
Do vậy,
nhu cầu học là cần thiết. Nhất là khi các thế hệ trẻ hơn đang nương tựa vào chúng
ta để tìm hiểu Đạo Phật. Nhu cầu tu lại
còn cần thiết hơn. Bởi vì, nếu bạn không nếm trải được pháp hỷ thiền duyệt, bạn
không có gì để trao truyền cho người khác, và lúc đó bạn chỉ là cái máy cassette
lập lại những gì bạn đã nghe. Lúc đó, sẽ rất là tội nghiệp cho mình, và cho người
chung quanh.
Một nhu
cầu để thấy cần phải tu chuyên cần, không chỉ là một khát vọng giảỉ thoát, mà còn
là để đối trị với pháp thế gian. Thí dụ như để ngăn ngừa và chữa bệnh ưu trầm,
thậm chí, theo các cuộc nghiên cứu y học, pháp niệm thân trong Tứ Niệm Xứ còn
giúp giảm hoặc chữa các cơn đau của cơ thể, trong khi tăng trí nhớ và giúp giữ
trí tuệ minh mẫn.
Dưới mắt
khoa học Âu-Mỹ, Thiền là một phương thuốc chữa vô số bệnh, vậy mà nhiều chùa không
sử dụng tới phương tiện này. Bạn chỉ cần vào trang Google.com, gõ nhóm chữ “mindfulness
meditation health benefits” sẽ ra nhiều trang có ghi những cuộc nghiên cứu về lợi
ích Thiền tập đối với sức khỏe, không chỉ ngăn và chữa nhiều bệnh mà còn giữ tuổi
trẻ và chống lão hóa.
Một điểm
có thể thấy rằng, trong khi thế hệ trẻ không đủ khả năng đọc tiếng Việt, hoặc
chỉ có thể đọc lơ mơ, chúng ta lại không tập trung hướng dẫn giáo pháp bằng
song ngữ cho các em. Trong khi chúng ta xây những ngôi chùa xây tốn nhiều triệu
đôla, có khi chúng ta lại quên xây con người. Nếu vừa xây được chùa lớn, vừa đào
tạo được Phật Tử giỏi thì sẽ rất tốt. Còn nếu không, thì nên ưu tiên xây con người
hơn.
Thực sự,
phương tiện để dạy giáó pháp bằng song ngữ không tốn kém bao nhiêu. Chỉ cần các
anh chị huynh trưởng Gia Đình Phật Tử chú tâm vào điểm này: tìm mua một máy in
laser printer, mỗi tuần lên các trang web Phật Giáo, in một trang hay nửa trang giáo lý căn bản Anh
ngữ ra để phát cho các em trong đơn vị. Ít nhất, mỗi tuần, các em cũng có một
trang giáo lý để về đọc, bằng ngôn ngữ mà các em quen thuộc. Khi các em hiểu được,
và khi thấm nhuần được một chút pháp hỷ thiền duyệt, sẽ không có sức mạnh nào
chiêu dụ các em đi lệch đường nổi.
Như thế,
tốn bao nhiêu? Máy Laser Printer HP 1102W chỉ tốn 85 đôla, một ống mực toner chỉ
20 đôla, và một ream giấy 500 tờ chỉ 4 đôla thôi. Xài cả mấy năm, mới cần mua
thêm mực và giấy mới. Quá rẻ, mà thiết thực dạy cho các em biết thực sự Đạo Phật
là gì.
Thêm nữa,
trong khi tiếp cận với xã hội, người không có thực tu, thực học sẽ không ứng phó
nổi trong nhiều tình huống. Thí dụ, thuận theo lời mời từ người hôn phối hay từ
người bạn tình khác tôn giáo, bạn phải tham dự một khóa Tĩnh Tâm của Công Giáo,
hay dự một khóa Bồi Linh của Tin Lành. Sau một khóa như thế, bạn thấy lòng mình
nhẹ nhàng, thanh thản, và bạn nghĩ rằng tôn giáo nào cũng tốt, và không phân biệt
được sự khác nhau giữa Phật Pháp và các
giáo lý đạo khác.
Nếu bạn
có thực tu, thực học, bạn sẽ phân biệt dễ dàng, sẽ không nhầm lẫn như thế. Thí
dụ, các đạo khác đều dùng pháp cầu nguyện để tự kỷ ám thị, nhưng Phật Pháp
trong tận cùng là trở về Tánh Không nơi lòng mình; các đạo khác dùng niệm ám thị
để ngộ nhận có một tự ngã nhỏ bé sẽ hội nhập cùng Nhan Thánh Đại Ngã, trong khi
Phật Giáo nhận rõ bản tánh các niệm là vô niệm để rồi sẽ thấy thực tướng các pháp
là Vô Ngã.
Do vậy,
các đạo khác dùng âm thanh sắc tướng để tìm bình an, như hát những bài thánh ca tuyệt vời, như trang phục nhiều màu sắc
trong các buổi lễ, như đốt hương thơm để người tham dự ngây ngất, thậm chí nam
nữ trong khi cầu nguyện hay đi bộ còn nắm tay nhau để tạo cảm giác chia sẻ của
một xã hội cộng thông hay hiệp thông. Hãy suy nghĩ rằng, nếu dùng sắc tướng để tạo cảm giác an lành khỏe
khoắn, bạn có thể đi bơi liên tục một tuần lễ, bạn sẽ có nhiều lợi ích về cả thân
tâm hơn là tự thôi miên mình trong không khí đầy sắc tướng như thế.
Phật Pháp
không dùng tới sắc tướng âm thanh để thôi miên hay ám thị, sau khi tụng kinh để
nghe giáo nghĩa là lặng lẽ ngồi thiền để tâm mình không có nơi nào an trụ, để
thấy sắc thanh hương vị xúc pháp đều là không, đều không có gì để phải vướng mắc,
và thấy không có gì cần phải nắm tay nhau cầu nguyện để cộng thông hay hiệp thông.
Tương tự,
bạn cần có đủ giáo nghĩa để trả lời khi có ai hỏi về khái niệm Trời, Đấng Sáng
Thế, Thượng Đế trong nhà Phật. Nếu không thực tu, thực học, chúng ta sẽ bị một
số thông tin dỏm qua email, qua Internet lừa gạt. Hiện nay có rất nhiều câu nói
trên Internet được cho là của Đức Đạt Lai Lạt Ma thực ra chỉ là gán ghép, ngụy
tạo.
Chúng ta
có thể thấy một số người tung những thông tin truyền đạo trên Internet bằng cách
vặn vẹo cả lịch sử. Họ nói rằng nhà khoa học Albert Einstein tin vào Thượng Đế
Sáng Tạo, nhưng thực sự Einstein không hề tin như thế, ông chỉ tự nhận là một agnostic
(bất khả tri); họ còn nói rằng một linh mục dòng Jesuit đã đưa ông Einstein từ
lập trường vô thần trở thành người tin Chúa, nhưng đó chỉ là bịa đặt. Xin đọc: Albert
Einstein’s religious views (Quan Điểm Tôn Giáo của Albert Einstein — http://en.wikipedia.org/wiki/Albert_Einstein%27s_religious_views)
Hay như
gần đây, nhiều email trên các diễn đàn
tiếng Việt, có kể chuyện tỉ phú Bill Gates, một nhà từ thiện vĩ đại, “Năm 2002
sau 10 giờ đàm đạo, Bill Gates đã ngẩng đầu lên trời, cảm tạ Thượng Đế đã sinh
Bill lại còn sinh thêm Warren Buffett…” (hết trích)
Có thực
Bill Gates tin vào Thượng Đế? Đó là thông tin dỏm. Bill Gates cũng như
Einstein, là người tin vào thuyết bất khả tri, thậm chí Bill Gates từng được đưa
vào danh sách các nhà atheist (vô thần, xem http://www.celebatheists.com/wiki/Main_Page)
vì ông có lúc nói rõ là không tin vào giáo lý độc thần sáng thế. (Xem cột bên
phải và chú thích 2 và 3: http://en.wikipedia.org/wiki/Bill_Gates)
Tương tự,
Warren Buffett cũng không tin Thượng Đế, và nằm trong danh sách chủ nghĩa bất
khả tri. (Xem cột bên phải và chú thích 3: http://en.wikipedia.org/wiki/Warren_Buffett).
Nếu không
đủ tiếng Anh, nếu không đọc nhiều, chúng ta sẽ nhầm lẫn rằng Albert Einstein,
Bill Gates, Warren Buffett là các con chiên nhiệt thành. Người ta đưa thông tin
dỏm là muốn làm chúng ta tin nhầm như thế.
Như thế,
các pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều cần phải học, phải rèn luyện.
Thực tu,
thực học cũng sẽ giúp chúng ta ứng phó trong các trường hợp cần sự bình tỉnh.
Thí dụ, một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử cần suy nghĩ, nên giúp thế nào cho các
em sắp dự kỳ thi SAT, các kỳ thi final cuối năm? Không cò gì hay hơn là trong các
buổi sinh hoạt hàng tuần, hãy dạy các em ngồi Thiền 10 phút, hay 15 phút. Không
cần yêu cầu các em ngồi kiết già hay bán già, vì 2 tư thế này dễ làm đau chân và
có thể làm nản lòng nhiều em. Hãy ngồi theo thế Miến Điện (Burmese posture),
nghĩa là chỉ xếp chân xuôi vào nhau. Bạn vào Google sẽ dễ dàng thấy thế ngồi này.
Hãy tập hoặc để tâm theo hơi thở, hoặc theo dõi hơi thở phồng xộp nơi bụng, hoặc
theo dõi cảm giác hơi thở ở chóp mũi… là những cách đơn giản nhất, nhưng cực
kỳ hiệu nghiệm. Hoặc là hình dung mình như đã chết rồi, một pháp niệm tử. Hoặc là niệm câu Phật hiệu chậm rãi và lắng
nghe rõ ràng, minh bạch từng chữ. Nếu giữ được đi đứng nằm ngồi trong một pháp
tu, học nhân sẽ cảm nghiệm được pháp hỷ thiền duyệt chỉ trong vài ngày. Có người
chỉ ngồi thở 10 phút đã thấy toàn thân an lạc rồi.
Tu học là
chìa khóa của hoằng pháp. Tất cả mọi chuyện khác đều phải tới sau. Tu học cũng
là bắt đầu đặt chân vào con đường giải thoát. Không bước đi, thì sẽ không bao
giờ đến.
Tu học
chính là hoằng pháp, là mời gọi mọi người cùng bước vào con đường giải thoát vậy.
Discussion about this post