KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 34)
Pháp Sư Tịnh Không
“Quán
đảnh giai” thực tế chính là chỉ bổn kinh. Làm sao biết bổn kinh này là đảnh
pháp. Lão cư sĩ Mai Quang Hy ở phía trước bổn hội tập kinh Vô Lượng Thọ, có một
thiên lời tựa rất hay, viết rất dài. Lời tựa nhắc đến một đoạn, ông vận dụng
ghi chép của đại đức xưa kể rằng, vào thời Tùy Đường, Phật pháp hưng thịnh nhất
trong sử Phật giáo Trung Quốc, đó là thời đại hoàng kim của Phật giáo. Đại tiểu
thừa Phật giáo, mười tông phái gần như đồng thời xuất hiện. Một số người xuất
gia ưu tú từ nước ngoài đến Trung Quốc du học, đạt một số thành tựu đặc biệt
như Nhật Bản, Hàn Quốc. Vào lúc đó Hàn Quốc chưa thống nhất, gọi là Tam Hàn.
Phía nam Việt Nam cũng có rất nhiều cao tăng đại đức đến Trung Quốc du học.
Thời điểm đó họ từng thảo luận tỉ mỉ và nghiên cứu phân tích, Thích Ca Mâu Ni
Phật năm xưa giảng kinh hơn ba trăm hội, nói pháp bốn mươi chín năm, nhưng bộ
kinh nào biểu đạt đầy đủ cả thảy tính chất của Phật pháp?
Những
đại đức này gần như công nhận Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh có thể đại
biểu cả thảy Phật pháp, gọi là pháp luân căn bản. Họ còn dùng thí dụ để nói,
tất cả kinh đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm. Phật pháp giống như một cây to,
Hoa Nghiêm là gốc rễ. Ngoài ra, những điều Thế Tôn nói trong bốn mươi chín năm
không ngoài cành lá trên thân cây đó. Cành lá không rời khỏi cội gốc, nên Hoa
Nghiêm được gọi là pháp luân căn bản. Vậy Hoa Nghiêm chính là đảnh pháp.
Thời
đó người tu Tịnh Độ không ít, triều nhà Đường xuất hiện đại sư Thiện Đạo. Lịch
sử Trung Quốc ghi chép, ngài là hoá thân của Phật A Di Đà. Lịch sử Trung Quốc
cũng từng nói, có ba vị là Phật A Di Đà hoá thân mà chúng ta biết, còn những vị
mà chúng ta không biết thì không thể tính đếm được. Vị thứ nhất là đại sư Thiện
Đạo, vị thứ hai là pháp sư Vĩnh Minh Diên Thọ, vị thứ ba là Hòa Thượng Phong
Can ở chùa Quốc Thanh. Ba vị này đã bộc lộ thân phận. Chúng ta nên biết, chư
Phật Bồ Tát thị hiện ở thế gian rất hiếm khi bộc lộ thân phận, còn người không
bộc lộ thân phận thì rất nhiều. Cho nên tôi khuyên các đồng tu phải sanh tâm
cung kính đối với người. Không chừng bạn xem thường một người nào, thì người đó
lại là Phật A Di Đà hoá thân, vậy coi như bạn đắc tội, còn có thể vãng sanh hay
sao? Nói là nói như vậy, nhưng vãng sanh vẫn chiếu theo vãng sanh. Bạn đắc tội,
Phật A Di Đà nhất định sẽ không trách cứ. Điều kiện vãng sanh là đầy đủ tín nguyện
hạnh, chúng ta đối với tất cả mọi người phải bình đẳng cung kính mới là đúng
pháp.
Rất
nhiều cao tăng đại đức Nhật Bản đều từng thân cận đại sư Thiện Đạo và đem Tịnh
Độ tông truyền đến Nhật Bản, Hàn Quốc. Một ngôi chùa ở Nhật Bản tên gọi chùa
Thiện Đạo ngày hôm nay được rất nhiều người đến. Thấy chùa, người ta liền biết
ở đó tu Tịnh Độ nhờ tên huý của đại sư đặt cho chùa miếu. Họ rất cung kính đối
với ngài. Tượng đắp của đại sư có khắp nơi trên Nhật Bản. Còn đệ tử Phật tịnh
tông Trung Quốc chúng ta lại quên mất đại sư. Khi tham quan du lịch Nhật Bản,
chúng ta gặp quang cảnh này liền sanh tâm hổ thẹn. Người ta tôn kính tổ sư
chúng ta đến như vậy, thế mà chúng ta quên mất.
Lại
tỉ mỉ tìm hiểu Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đến sau cùng làm thế nào
mới có thể viên mãn thành tựu, đạt đến đảnh pháp chân thật? Thì ra là pháp sau
cùng nhất, Bồ Tát Phổ Hiền mười đại nguyện vương cầu sanh Cực Lạc. Những đệ tử
Phật liền khẳng định kinh Vô Lượng Thọ là đảnh pháp, vì kinh Vô Lượng Thọ rút
gọn kinh Hoa Nghiêm. Những cao tăng đại đức lúc đó nói, “Hoa Nghiêm” “Pháp
Hoa” trên thực tế dẫn đạo bạn quay về Tịnh Độ. Cũng giống như chúng ta mở
ra ba phần, “Hoa Nghiêm”, “Pháp Hoa” là phần tựa, kinh vãng sanh
Tịnh Độ là phần chính, cụ thể là kinh Vô Lượng Thọ, và kinh A Di Đà là phần lưu
thông. Cho nên trước nhà Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh mới nói, kinh Vô Lượng Thọ
là quyển trung của Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà là tiểu bổn của Hoa Nghiêm. Ba bộ
kinh này kỳ thật là một bộ. Lời nói của Bành Tế Thanh không đơn giản. Nếu không
vào được cảnh giới này thì ông không thể nói ra như vậy.
Thông
thường nói kinh Hoa Nghiêm, Vô Lượng Thọ, A Di Đà là đảnh pháp. Nguyên bản dịch
của bổn kinh này rất nhiều. Từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc, số lần phiên dịch
nhiều nhất là kinh Vô Lượng Thọ mà hiện tại trong Đại Tạng Kinh còn lưu năm
loại nguyên bản dịch của các tổ sư đại đức ngày trước. Các ngài đã tỉ mỉ nghiên
cứu, phát hiện văn tự bản dịch vào ra rất nhiều. Rõ ràng nhất là nguyện văn.
Bản dịch nhà Hán thì có 24 nguyện. Đến thời đại Nam Bắc triều, bản dịch của
Khang Tăng Khải là 48 nguyện. Lại xem bản dịch của triều Tống là 36 nguyện.
Khác biệt quá lớn. Nếu nguyên bản là 48 nguyện thì không thể nào biến thành 24
nguyện hay 36 nguyện, lại nghĩ ngay đến, Thế Tôn năm xưa tuyên giảng kinh Vô
Lượng Thọ, giới thiệu Di Đà Tịnh Độ không chỉ một lần. Không như các kinh điển
khác, Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời chỉ giảng một lần, không giảng lần thứ hai,
nhưng hiện tại xem qua năm loại nguyên bản dịch, có thể khẳng định Thích Ca Mâu
Ni Phật chí ít đã từng giảng ba lần. Ngoài ra còn có bảy loại nguyên bản dịch
bị thất truyền. Nếu còn những bản đó thì có thể nhiều hơn. Như vậy Thích Ca Mâu
Ni Phật năm xưa ở đời đã dốc hết sức nhằm giới thiệu pháp môn Tịnh Độ. Vì nhiều
lần tuyên giảng, trong mỗi quyển có nhiều ít không đồng nên mới cần thiết phải
hội tập, mang lại sự thuận tiện cho sơ học chúng ta.
Bổn
hội tập sớm nhất là của cư sĩ Vương Long Thư, hội tập lần thứ hai là của cư sĩ
Nguỵ Mặc Thâm, lần thứ ba là của lão Hạ Liên Cư. Càng về sau càng thù thắng
hơn, cho chúng ta nhận biết cái gì là đảnh pháp. Sau khi nhận biết đảnh pháp,
bạn đọc qua một lượt từ đầu đến cuối kinh này thì chẳng phải mười phương ba đời
tất cả chư Phật Như Lai quán đảnh cho bạn hay sao? Đó là thật quán đảnh, thù
thắng hơn nhiều so với thượng sư rẩy nước quán đảnh. Chúng ta phải tường tận,
đọc qua một lần là tiếp nhận một lần quán đảnh của chư Phật Như Lai; đọc hai
lần là quán đảnh hai lần. Một ngày đọc ba lần thì một ngày bạn được chư Phật
Như Lai quán đảnh ba lần, phước báu này còn ai sánh được? Kinh Vô Lượng Thọ quá
dài cũng không ngần ngại. Niệm kinh A Di Đà cũng vậy, mỗi ngày tụng mười biến
thì Phật quán đảnh cho bạn mười lần, bạn còn không thể khai ngộ hay sao?
Cho
nên “thăng quán đảnh giai” thực tế mà nói chính là thọ trì một bộ kinh,
y theo phương pháp lý luận của kinh này mà tu học, bạn liền lên đến quán đảnh
giai, ở vào quả vị Bồ Tát. Quán đảnh pháp vương tử, Bồ Tát Đẳng Giác xả bỏ pháp
môn Tịnh Độ, quán đảnh giai đó là khả vọng bất khả cập. Chúng ta nghe rồi ngưỡng
vọng mà thôi, không thể trong một đời thành tựu. Bạn ở ngay một đời có thể
chứng được biệt giáo sơ địa Bồ Tát là đã không tệ. Biệt Giáo Sơ Địa có nghĩa là
đoạn được kiến tư phiền não, trần sa phiền não, phá một phẩm vô minh, chứng một
phần pháp thân, siêu việt mười pháp giới, chứng phát tâm trụ, ở vào thập trụ,
gọi là viên giáo thập trụ “Phát Tâm Trụ”. Biệt giáo sơ địa “Hoan Hỉ
Địa” chính là phát tâm trụ của viên giáo. Nhưng sau khi chứng được vị thứ
này, nếu bạn đoạn tận 41 phẩm vô minh, đạt đến Quán đảnh giai viên mãn như kinh
đã nói thì còn phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp. Cho nên nói ba A Tăng Kỳ kiếp
thành Phật, không phải nói chúng ta, mà đó là nói viên giáo sơ trụ Bồ Tát và
biệt giáo sơ trụ Bồ Tát.
Ngày
nay thực tế cho thấy, kinh Hoa Nghiêm nói vô lượng kiếp không cách gì tính đếm
mới có cơ duyên gặp được. Nếu chúng ta may mắn, có duyên phận tốt gặp được pháp
môn Tịnh Độ, pháp môn vãng sanh thì một đời liền có thể “thăng quán đảnh
giai”. Chúng ta ở đạo tràng này, có thể nói, là một đạo tràng thù thắng
nhất thế gian hiện đại. Không phải chúng ta đang khoa trương, tán thán. Suốt
năm ở đây giảng đệ nhất kinh Tịnh Độ không gián đoạn. Các đạo tràng khác trên
thế giới không có. Dù có cũng không giảng mỗi ngày. Đạo tràng này giảng không
gián đoạn, không chỉ giải môn mà còn đặc biệt chú trọng hành môn. Đại sư Thanh
Lương nói “tín giải hành chứng”. Bốn chữ này chúng ta đều làm được,
không nghiêng về giải môn mà không xem trọng hành môn, cũng không nghiêng về
hành môn mà xem thường giải môn. Giải hành phải tương ưng, đạo tràng như vậy ở
thế gian này có lẽ cũng có, nhưng tôi chưa thấy cũng chưa nghe nói qua. Hiện
nay chính mắt thấy được chỉ có đạo tràng này. Từ đó mới biết, phước báu của
chúng sanh khu vực này lớn không thể nghĩ bàn. Đạo tràng xây dựng liền được chư
Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ. Chúng ta ở kinh Hoa Nghiêm đang đọc
đến đạo tràng thần, túc hành thần, kim cang thân, họ không hộ trì nơi đây thì
đến nơi nào để hộ trì? Chúng ta chính là đối tượng hộ trì của họ.
Ngày
nay chúng ta khởi tâm động niệm, tất cả hành trì tương ưng với đại kinh, cho
nên phải nhận biết rõ ràng, đảnh pháp của chư Phật Như Lai không chỉ là pháp
môn Tịnh Độ. Đảnh pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật đã truyền là pháp môn chí cao
vô thượng, mà mười phương tất cả chư Phật Như Lai cũng đều đồng truyền thọ. Làm
sao biết được? Trong bổn kinh Thế Tôn tán thán A Di Đà Phật là “quang trung
cực tôn, Phật trung chi vương”. Các vị phải biết, tán thán của Thích Ca Mâu
Ni Phật đại biểu tán thán của mười phương tất cả chư Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật
khẳng định A Di Đà Phật là “vua trong các Phật” cũng là nói rõ, tất cả
chư Như Lai đều khẳng định A Di Đà Phật là vua trong các Phật. Ngày nay chúng
ta phát tâm làm đệ tử Phật A Di Đà, quang vinh vô thượng. Chư Phật xem thấy bạn
đều phải tôn kính bạn ba phần. Họ kính thầy thì cũng tôn kính học trò của thầy,
đây là đạo lý nhất định.
Chúng
ta phải làm một đệ tử Di Đà chân chính, không nên làm đệ tử giả hiệu, vấn đề đó
liền nghiêm trọng. Nếu bạn mạo nhận đệ tử Di Đà, thần hộ pháp sẽ không tha thứ
cho bạn. Nhưng nếu bạn chân thật là đệ tử của Di Đà, thì chư Phật đều cung
kính. Đệ tử thật của Di Đà mỗi ngày phải nhận quán đảnh của Phật A Di Đà, mỗi
ngày phải đọc kinh. Đọc kinh chính là quán đảnh. Ngày ngày phải đọc câu Phật
hiệu.
Tôi
khuyên đồng tu có thời gian nên đến niệm Phật đường để niệm Phật. Vì sao, chẳng
phải ở nhà niệm Phật cũng như nhau sao? Xin nói với các vị, ở nhà niệm Phật
hoàn toàn không như nhau, vì niệm Phật đường trong nhà bạn không có chư Phật
đang ở đó niệm Phật, còn ở niệm Phật đường này có Phật đang niệm. Bạn đến nơi
đây, được nhờ vào không khí của Phật Bồ Tát thì làm sao như nhau được. Dùng
cách nói hiện tại thì từ trường trong nhà bạn cùng từ trường nơi đây không như
nhau. Từ trường ở nơi đây là thế gian đệ nhất thù thắng không gì bằng. Nơi đây
đích thực là không khí chánh pháp Như Lai. Các vị ở đây niệm Phật, đích thân
mình cảm nhận. Hiện tại niệm Phật đường đã lót lại thảm mới, hiển lộ trang
nghiêm không gì bằng. Buổi chiều hôm qua tôi có đi xem, rất hoan hỉ. Khi bước
vào niệm Phật đường này chính là “thăng quán đảnh giai”. Giảng đường này
là Quán Đảnh Giai. Đã thăng quán đảnh giai thì “thọ bồ đề ký”.
Thọ
bồ đề ký là thọ ký thành Phật. Các vị đến giảng đường và niệm Phật đường này,
nhất định vãng sanh bất thoái thành Phật. Đạo tràng này là đạo tràng thành tựu
chư Phật Như Lai, ắt được chư Phật Như Lai gia trì.
“Vi
giáo Bồ Tát, tác A Xà Lê”
Giáo
là giáo hoá. Mô hình và kiểu dáng thị hiện giáo hoá chúng sanh là “làm A Xà
Lê”. Đó là tổng đề mục mà hiện tại chúng ta giảng kinh. Chúng ta đã làm
tổng đề mục nhưng vẫn chưa treo lên, tương lai sẽ treo hai bên đối liễn “học
vi nhân sư, hành vi thế phạm”. A Xà Lê là bậc thầy mô phạm với tư tưởng,
lời nói có thể làm mô phạm mẫu mực cho đại chúng xã hội. A Xà Lê có nguồn gốc
từ tiếng Ấn Độ, dịch thành “quỹ phạm sư”. Quỹ là quỹ đạo. Ý nghĩa câu
nói này rất sâu mà tất cả kinh luận Phật thường hay nói. Phật dạy chúng ta “thọ
trì, đọc tụng, vì người diễn nói”, biểu đạt ý nghĩa này. Chúng ta học Phật
đạt công đức lợi ích thù thắng của Phật pháp, quyết không thể nói mình được lợi
ích là đủ, không hề nghĩ đến quần chúng xã hội, tất cả chúng sanh sáu cõi ba
đường. Tư tưởng này cùng nguyện vọng của Phật, giáo huấn của Phật không hề
tương ưng. Phật dạy chúng ta thọ trì, đó là việc của chính chúng ta. Phật dạy bảo
chúng ta tất cả đạo lý, phương pháp lý luận, chúng ta phải tường tận tiếp nhận.
Những cảnh giới mà Phật giảng, chúng ta phải khế nhập. Như vậy mới có thể được
thọ dụng chân thật, đó là thọ trì.
Sau
khi thọ trì thì đọc tụng. Vừa rồi tôi mới nói bạn đọc tụng một biến chính là
nhận được chư Phật Như Lai quán đảnh một lần, đó là tự lợi. Đọc tụng tốt nhất
phải ra tiếng. Công đức đọc ra tiếng lớn hơn nhiều so với đọc không ra tiếng,
vì đọc để người khác nghe, nhất là người chưa tiếp xúc Phật pháp. Đọc kinh phải
đọc từng chữ rõ ràng, cường điệu âm thanh vui tai, phải làm cho người nghe sanh
tâm hoan hỉ, nghe rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Sau khi nghe họ sẽ
giác ngộ.
Có
một số đồng tu tâm tính nóng vội, đọc kinh rất nhanh, chỉ cần nửa giờ có thể
đọc xong một bộ kinh Vô Lượng Thọ. Khi tỉ mỉ lắng nghe, chỉ thấy loắng nhoắng,
một chữ cũng không thể nghe được. Đọc kinh từ đầu đến cuối hết nửa giờ đồng hồ,
một chữ không nghe được rõ ràng, thì loại đọc tụng này chỉ là tự lợi, không thể
lợi tha. Nên biết đọc kinh là lợi tha, còn tự lợi là nhắc nhở chính mình không
quên giáo huấn của Phật, phải y giáo phụng hành. Đọc rõ ràng tường tận để người
khác nghe. Nếu bạn nói “chung quanh tôi không có người nào nên không cần đọc
to”, tuy không có người nhưng có quỷ thần, có chúng sanh mà mắt thịt chúng
ta không thể nhìn thấy, ngày nay chúng ta gọi là chúng sanh vô hình, đông hơn
rất nhiều lần so với chúng sanh mà mắt thường chúng ta nhìn thấy. Bạn đọc kinh,
họ nghe xong có được thọ dụng. Quỷ thần học Phật, quỷ thần hộ pháp, thiên hạ
liền thái bình. Động loạn xã hội chúng ta xảy ra cũng sau khi quỷ thần loạn
trước. Khi quỷ thần loạn rồi, chúng ta muốn xã hội an định cũng là việc vô cùng
khó. Nếu muốn xã hội an định, trước tiên phải làm cho quỷ thần an định. Muốn
quỷ thần an định thì phương pháp tốt nhất chính là đọc kinh.
Cho
nên trong đọc tụng, ý nghĩa quan trọng là phải độ những chúng sanh vô hình này,
làm tăng thượng duyên nghe pháp cho họ. “Vì người diễn nói”, đối tượng
này đã rõ ràng, đây là đối với người, những chúng sanh hữu tình. Còn đọc tụng
là đối với chúng sanh vô tình.
Đối
với người thì phải biểu diễn, tức là y giáo phụng hành. Phải đem tất cả lời
giáo huấn trong kinh Phật thực tiễn ngay cuộc sống, công việc, trong đối nhân
xử thế tiếp vật của chúng ta. Những gì Phật dạy, chúng ta nhất định phải làm,
nỗ lực chăm chỉ mà làm. Những việc nào không được làm thì chúng ta nhất quyết
không làm. Như phía sau kinh văn đã nói, trong hành môn, những thứ khác đã nói
đều là mục nhỏ, việc vụn vặt, còn cương lĩnh quan trọng nhất chỉ gói gọn ba ý “Thanh
tịnh Bình đẳng Giác”.
Điều
thứ nhất Phật nói “khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”, phải làm
cho được. Ba nghiệp thân khẩu ý, Phật không dùng thứ tự này, mà yếu tố thứ nhất
là khẩu. Khẩu tạo nghiệp rất dễ dàng và đáng sợ nhất. Các vị đọc qua kinh Địa
Tạng, khẩu nghiệp tương lai đọa địa ngục cắt lưỡi, cày lưỡi,… Rất nhiều địa
ngục là quả báo do nghiệp nhân của khẩu mà ra. Vọng ngữ, hai chiều, ác khẩu,
thêu dệt, rất dễ dàng phạm phải. Cho nên người chân thật tu hành bước vào niệm Phật
đường thì thân tâm thế giới thảy đều buông bỏ, bao gồm cả ý niệm, chỉ duy trì
một niệm “A Di Đà Phật”, bạn nhất định sẽ thành công, thế mới gọi là
chân thật “khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”. Chúng ta cũng
không cần phải hỏi cách tu như thế nào mà chỉ một lòng một dạ chuyên niệm A Di
Đà Phật, không nên khởi vọng tưởng tiếp nữa.
Hiện
tại có một loại người không chỉ chính mình khởi vọng tưởng mà còn phái người đi
nghe ngóng người khác. Cái vọng tưởng này sẽ càng lớn càng sai lầm. Bạn học
Phật như vậy, đến sau cùng cũng đọa vào A Tỳ địa ngục. A Tỳ địa ngục có nhiều
địa ngục lớn nhỏ, đều do bạn nhận quả báo.
Đề
kinh của bổn kinh hiển thị ba cương lĩnh lớn để chúng ta tu hành: “Thanh
tịnh, Bình đẳng, Giác”. Mỗi ngày bạn biết nhiều sự việc đến như vậy thì tâm
của bạn làm sao thanh tịnh. Người xưa dạy, “biết nhiều việc thì phiền não
nhiều”. Bạn muốn biết nhiều việc để làm gì? còn phái người đi nghe ngóng,
bạn nói xem có đáng lo không? Thử nghĩ, sau khi nghe ngóng thì phải nghiên cứu
làm thế nào đối phó, phiền não sẽ càng lớn. Đó là giữ tâm luân hồi tạo nghiệp
luân hồi, hơn nữa tạo ra địa ngục ba đường, rất đáng sợ. Chúng ta giác ngộ phải
từ chỗ này mà tỉnh ngộ. Việc của người khác không liên quan gì với chúng ta, ta
nghe ngóng họ làm gì, ta quản họ làm gì.
Thiền
tông Lục Tổ đại sư Huệ Năng nói rất hay, “nếu là người chân chính tu hành
thì không thấy lỗi thế gian”. Không phải thế gian không có lỗi lầm, nhưng
vì họ quan tâm chính mình còn không kịp thì làm gì có thời gian đi quản người
khác. Vậy phải dùng cách nhìn thế nào để xem người khác? Vừa rồi tôi đã nói
qua, dùng cách nhìn của Phật để xem người khác. Chúng ta xem người khác thảy
đều là chư Phật Như Lai thị hiện. Họ hành thiện, thị hiện ra dáng vẻ thiện cho
ta xem; họ làm ác, thị hiện dáng vẻ ác để ta xem, đều là chư Phật Như Lai. Họ
thảy đều không có lỗi. Lỗi lầm ở đâu? tôi đã thấy, khởi tâm động niệm tạo tội
nghiệp. Ta thấy cảnh giới tốt thì khởi tâm tham, cảnh giới ác thì khởi tâm sân
hận, vậy là ta tạo nghiệp. Họ không tạo nghiệp vì họ là chư Phật Như Lai. Chúng
ta hoàn toàn dùng loại tâm trạng chân thành để tu tập thì ngay một đời này nhất
định thành Phật.
Trong
cái nhìn của Phật xem tất cả chúng sanh đều là chư Phật Như Lai, chúng ta phải
học theo chiêu này, đó là cao chiêu. Trong cái nhìn của Bồ Tát xem thấy tất cả
chúng sanh đều là Bồ Tát. Người thiện xem thấy tất cả chúng sanh đều là người
thiện. Người ác xem thấy Phật Bồ Tát cũng là người ác. Đạo lý này chính là “cảnh
tùy tâm chuyển”. Vậy vì sao chúng ta không dưỡng tâm Phật của chúng ta? Vì
sao không rõ Phật tánh của chính mình?
“Vì
người diễn nói”, cần diễn điểm này. Ngày nay người thế gian xem cái này
không đúng, thấy cái kia cũng không đúng. Còn chúng ta xem thấy tất cả chúng
sanh đều là Phật Bồ Tát, cung kính bình đẳng, đó chính là tu hạnh Phổ Hiền.
Quyển kinh vừa mở ra “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức”, đó là
đệ tử Di Đà chân chính. Cho nên phải vì người diễn nói, chính là nói: ta phải
làm gương cho đại chúng thông thường, đặc biệt phải làm tấm gương cho người tu
hành, phải làm thật, đó mới gọi là A Xà Lê. Làm A Xà Lê là để dạy Bồ Tát, dạy
người tu hành, hoặc dạy tất cả chúng sanh giác ngộ. Bồ Tát chính là chúng sanh
giác ngộ, giúp đỡ tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ. Giúp đỡ thế nào? Chính
mình thật làm tấm gương, làm mô phạm. Cách làm ra sao? Câu phía sau nói: “thường
tập tương ưng vô biên chư hạnh”.
“Thường
tập tương ưng, vô biên chư hạnh”
“Hành”
là hành vi đời sống. Vi tế thì khởi tâm động niệm, thô thì lời nói hành động
tạo tác. Đó là hành vi. Hành vi phải tương ưng với tự tánh, tương ưng với tánh
đức, có như vậy tâm hạnh của bạn mới là hạnh Phật, hạnh Bồ Tát chân chính.
Đối
với các đồng tu sơ học, nếu nói đến tâm hạnh tương ưng với tự tánh thì rất khó
vì chưa kiến tánh. Hạnh tương ưng với tâm tánh, mức độ thâm nhất phải là Bồ tát
Viên giáo sơ trụ. Từ sơ trụ trở lên, bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ mà kinh
Hoa Nghiêm đã nói, có hơn một trăm bảy mươi đoàn thể. Tâm hạnh của mỗi người
đều tương ưng với pháp tánh, cho nên gọi là pháp thân đại sĩ. Ngày nay chúng ta
là phàm phu sanh tử, chưa thể đoạn dù chỉ một phần phiền não thì làm sao học
được hạnh tương ưng. Phật dạy sơ học, định ra cho chúng ta rất nhiều quy củ.
Bạn y theo quy củ này mà làm thì tương ưng. Những quy củ Phật nói ra đều là
tánh đức. “Tập” là học tập, “thường” không gián đoạn. Câu này có
nghĩa, mãi không ngừng học tập hạnh tương ưng. Hạnh tương ưng rải đều rất nhiều
trong tất cả kinh luận.
Vậy
chúng ta phải bắt đầu học từ chỗ nào? Chúng ta phát tâm chuyên tu tịnh độ,
chuyên tu tịnh nghiệp. Như vậy, phạm vi kinh luận của chúng ta đều được thu nhỏ
lại. Chúng ta y cứ theo ba kinh một luận, hoặc giả cận đại nói “năm kinh một
luận”. Trong “năm kinh một luận” vẫn còn rất phức tạp, không dễ nắm
vững.
Khi
mới xây dựng Tịnh tông Học hội, tôi đã viết ra một đoạn duyên khởi, nhắc đến
hành môn năm khóa mục giúp mọi người dễ ghi nhớ. Khóa mục của hành môn phải đơn
giản thì bạn mới ghi nhớ và học tập được, còn quá nhiều và quá phức tạp thì
không thể. Hiện tại xuất gia thọ giới thọ 250 giới, giới điều quá nhiều không
thể nhớ nổi. Giới tỳ kheo ni còn nhiều hơn. Không nhớ hết thì có thể làm được
hay sao?. Đối với Bồ tát tại gia, giới Phạm Võng, 10 giới trọng, 48 giới khinh
cũng quá nhiều không thể ghi nhớ. Không ghi nhớ thì không cách gì làm được.
Nhất định phải đơn giản, mỗi giờ mỗi lúc đều nhớ, có thể đọc thuộc lòng. Có như
vậy trong cuộc sống, khởi tâm động niệm lời nói việc làm mới thức tỉnh chính
mình tương ưng với lời giáo huấn của Phật. Cho nên chân thật tu hành phải nắm
được cương lĩnh.
Năm
khóa mục:
Thứ
nhất là “tam phước”. Kinh
Quán Vô Lượng Thọ nói, tam phước tổng cộng có ba điều. Phước thứ nhất là trời
người. Nói cách khác, trong sáu cõi, bạn có thể làm chân thật đến được thì bạn
không mất thân người, không đọa vào ba đường ác, đời đời kiếp kiếp ở trời người
để hưởng phước.
Câu
một, hiếu dưỡng cha mẹ, bạn làm được chưa?
Câu
hai, phụng sự sư trưởng, bạn làm được chưa?
Câu
ba, từ tâm bất sát
Câu
bốn, tu thập thiện nghiệp.
Bốn
câu này ý nghĩa rất sâu. Chúng ta cũng đã từng trải qua chuyên đề diễn giảng.
Phải ghi nhớ bốn câu này. Khởi tâm động niệm lời nói việc làm có tương ưng với
những điều này không. Nếu không tương ưng thì sai. Phải thường tập tương ưng
chi hạnh.
Phước
thứ hai là phước hàng nhị thừa, thanh văn, duyên giác. Các vị phải biết, phước
thứ nhất là phàm phu. Phước thứ hai mới là học Phật. Phật pháp được xây dựng
trên nền tảng của phước thế gian. Không có phước thế gian thì học Phật làm sao
thành tựu. Nói cách khác, bạn làm người chưa tốt thì làm sao có thể học Phật.
Bốn câu trên dạy bạn làm người. Nếu trái ngược bốn câu thì bạn không phải con
người mà là súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
Trong
“Tả truyện sách xưa” có câu nói: “Nhân khí thường tất yêu hưng”.
“Thường” là ngũ thường, gồm: nhân nghĩa lễ trí tín. Nếu con người bỏ mất
chữ thường, làm những việc bất nhân bất nghĩa thì đó là yêu ma quỷ quái, không
phải người. Cho nên trời người đều có tiêu chuẩn đạo đức. Các vị thử nghĩ xem.
Bốn câu trong phước thứ nhất này đều bao gồm ý nghĩa của ngũ thường. Đây là nền
tảng để bước vào Phật pháp. Cho nên phước trời người được xếp ở trên phước nhị
thừa.
Mở
đầu phước nhị thừa là thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi.
Ngày
nay chúng ta thọ tam quy chỉ trên hình thức, không phải thực chất. Thọ giới
cũng trên hình thức, vì sao. Vì bên dưới không có gốc. Nếu nền móng xây vững
chắc thì tam quy ngũ giới liền phát sinh tác dụng, có thể thành tựu đức hạnh.
Các vị phải biết, Phật pháp là sư đạo xây dựng trên nền tảng hiếu đạo. Phước
thứ nhất là hiếu đạo, phước thứ hai là sư đạo. Hiếu đạo không có thì sư đạo
cũng không còn. Ngày nay chúng ta học Phật đặc biệt đề xướng hiếu đạo. Bạn về
nhà phải hiếu thuận cha mẹ, trở thành tấm gương cho xã hội đại chúng xem, đó là
“vì người diễn nói”. Cho nên “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”,
bạn phải làm được, chứ không thể chỉ nói ngoài miệng.
Phước
nhị thừa tiếp tục nâng cao là Bồ Tát. Bồ Tát có bốn câu đều là cương lĩnh
nguyên tắc:
–
Cương lĩnh thứ nhất: Phát Bồ Đề tâm,
Đại
sư Ngẫu Ích trong kinh A Di Đà Yếu Giải nói rất hay, chân thật phát tâm cầu
sanh tịnh độ, quyết không thay đổi, quyết không nghi hoặc, quyết cầu sanh, thì
bạn nhất định sanh. Tâm này chính là tâm vô thượng Bồ đề. Trong Quán kinh, Thế
tôn giải thích với chúng ta là tâm chí thành, chân tâm phát nguyện. Một lòng hy
vọng cầu sanh tịnh độ, đó là thâm tâm, cũng là hồi hướng phát nguyện tâm. Một
niệm liền đầy đủ, không có niệm thứ hai. Chúng ta phải phát ra tâm này.
–
Cương lĩnh thứ hai: Thâm tín nhân quả
Ngày
trước tôi đã từng kể qua với các vị, câu này khiến hai ba năm tâm tôi không
được an, vì không hiểu ý. Bình thường chúng ta nói nhân quả báo ứng, thiện nhân
thiện quả, ác nhân ác quả, thiện ác nhân quả không lọt mảy trần. Chúng ta biết,
tin tưởng, không hoài nghi thì chúng ta thuộc thân phận trời người, nhưng không
thể so sánh với hàng nhị thừa. Chỗ hoài nghi của tôi là tại sao Bồ tát lại
không biết nhân quả này?
Nhân
quả này tuyệt đối không phải là nhân quả mà chúng ta nói. Nhân duyên quả báo đó
làm gì Bồ Tát không biết. Họ tin sâu nhân quả nhất định phải là nhân quả đặc
biệt. Tôi phải mất nhiều năm, cũng gần như được Tam Bảo gia trì mới hiểu ra
nhân quả gì. Thì ra là “niệm Phật thành Phật”.
Chân
thật rất nhiều Bồ Tát không biết. Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, không
cần ba A Tăng Kỳ kiếp mà chỉ một đời thành tựu. Tận hư không khắp pháp giới
trong các cõi nước chư Phật, có bao nhiêu Bồ Tát không biết nhân quả này. Vậy
chúng ta quay đầu nhìn lại xem trong hoàn cảnh sống hiện tại, ngay trong đồng
tu chúng ta có rất nhiều người học Phật, có tham thiền, có học giáo, trì chú,
trì giới, rất nhiều pháp môn, nhưng bạn bảo họ niệm Phật thì họ không tin. Họ
học pháp môn của họ rất chuyên cần, dõng mãnh tinh tấn nhưng không chịu niệm
Phật.
Cho
nên, người phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả thật cừ khôi. Nếu họ tương ưng với
hai câu trên, thì đúng như pháp môn tịnh độ đã nói, thiện căn phước đức nhân
duyên ngay trong một đời đầy đủ. Kinh gọi là chúng sanh căn tánh chín mùi,
thành thục; Bồ tát vô biên thiện căn. Chín mùi thì ngay một đời làm Phật. Ở đời
này, mang thân này trong sáu cõi là thân sau cùng, về sau không còn luân hồi
nữa. Lần sau trở lại thành Bồ tát hóa thân, không phải phàm phu. Sự ứng hiện
mang tính chất thừa nguyện tái lai, khác nhau hoàn toàn.
–
Cương lĩnh thứ ba: Đọc tụng đại thừa
Đọc
tụng đại thừa chính là đọc kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà. Đọc qua một biến,
chư Phật Bồ tát quán đảnh cho bạn một lần. Sau khi đọc, bạn nhất định phải y
giáo phụng hành.
–
Cương lĩnh thứ tư: Khuyến tấn hành giả
Phải
giới thiệu pháp môn tịnh độ cho quảng đại quần chúng, cho tất cả chúng sanh, đó
là lợi tha. Tự lợi lợi người.
Bạn
làm được bốn câu này mới chân thật là Bồ Tát. Khởi tâm động niệm lời nói việc
làm phải tương ưng với tam phước. Đó là “thường tập tương ưng chi hạnh”,
có nghĩa chân thật tu tịnh độ.
(Còn
tiếp …)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp
sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên
dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Discussion about this post