Con Đường Từ Khổ
Hạnh Đến Giác Ngộ
Minh Thông
I-
Nguyên
Ủy:
Các
biến cố quan trọng trong những năm tháng cho đến khi Ngài
Sakya Gotama Siddhatta (Thích Ca Cồ Đàm Sĩ đạt đa) thành đạo
tựu viên mãn Phật quả để được gọi là Sakya Buddha được
ghi chép đa dạng bỡi những trường phái khác nhau và vào
những thời điểm hoàn toàn khác sau khi đức Phật nhập diệt
nhiều trăm năm. Bỏ qua tất cảụ các yếu tố thiếu đồng
bộ, đi tìm mẫu số chung trong những sự kiện ngỗn ngang
của dữ liệu để rút ra bài học bổ ích, có tính phổ quát
và khách qua, không chấp trước vào từng tình tiết, câu cú
nhỏ nhặt, đó là chính là phong cách nghiên cứu. Ngay cả
kinh điển Catholic, mặc dù đức Jesus ra đời sau đức Phật
đến 600 năm, nhưng những kinh điển được các Thánh rao truyền
không phải được ghi lại ngay từ thế kỷ thứ nhất, thế
kỷ Chúa Jesus ra đời và bị khổ hình trên thánh giá. Phải
đến trăm năm sau các Thánh mới ghi chép lại thành văn bản
và lưu truyền hậu thế. Điểm trớ trêu là, nội dung ghi
chép của các Thánh kinh ấy cũng có nhiều điểm dị biệt
đến độ mâu thuẫn, đó chính là một trong những nguyên
nhân khiến người ta diễn giải kinh Thánh theo những cách
riêng, dẫn đến việc chia xẻ giáo hội thành những chi phái
như Công giáo La mã (Roman Catholic), Tin lành, Chính thống giáo,…
Cũng như Phật tử chúng ta, những người Công giáo, từ gọi
chung tín đồ tôn thờ Chúa Jesus và đức Mẹ Maria, bằng cặp
mắt nhìn xa hiểu rộng và cởi mở cũng đã tháo gỡ những
dị biệt nhỏ nhoi, không chấp trước vào từng câu cú, từng
ý, từng từ để đi tìm mẫu số chung, ý nghĩa chung và phổ
quát để lấy làm bài học chung. Khi đức Phật phân chia thời
gian tồn tại của giáo pháp thành thời kỳ chánh pháp, tượng
pháp và mạt pháp, một trong những điều Ngài nhìn thấy có
lẽ ở chỗ càng ngày chúng ta càng thủ đắc nhiều phương
tiện, càng thủ đắc nhiều chúng ta càng vướng mắc nhiều,
càng vướng mắc chúng ta càng không thể xả ly để cuối
cùng tự chúng ta ngày càng xa rời chánh pháp và chôn vùi đời
kiếp mình trong hố sâu luân hồi sinh tử.
Hai
mươi sáu thế kỷ về trước, tại một vương quốc của
dòng họ Thích (Sakyas), một vương quốc nhỏ nhưng thịnh vượng,
rải rác các ngọn đồi ở khu vực sông Rapti tây bắc tỉnh
Oudh nam Nepal ngày nay. Vị vua trị vì vương quốc là Tịnh
Phạn (Suddhodana), hoàng hậu là Ma-da (Maya Gotami). Ngày trăng
tròn năm 623 trước Công nguyên, hoàng hậu Ma-da hạ sanh thái
tử tại vườn Lâm tỳ ni (Lumbini) thành Ca tỳ la vệ, đặt
tên là Siddhatta, gọi đầy đủ là Sarvarthasiddha, nguyên chữ
là Sakya Gotama Siddhatta. Bảy ngày sau khi hạ sanh, hoàng hậu
qua đời, Gotama được nhũ mẫu là Ma ha Ba Xà Ba Đề (Mahapajapati)
nuôi dưỡng đến khôn lớn.
Sinh
sống trong hoàng cung, Thái tử được học tập văn võ song
toàn, tinh thông kinh điển Bà la môn. Năm 16 tuổi, theo phong
tục của cha sai người lo hôn sự cho Thái tử. Cuộc tuyển
lựa cuối cùng đã chọn được Công chúa Da Du Đà La (Yasodhara,
còn được gọi là Bhaddakaccana Bimba Rahulamata), người bà con
cô cậu, con của Thiện Giác Vương (Suprabuddha) thành Ca tỳ
la vệ (Kapilavatthu). Tục lệ gia đình Thiện Giác Vương chỉ
gả con cho những ai văn võ song toàn và phải qua kỳ tranh tài
cao hạ. Cuộc so tài được tổ chức trong hàng hoàng thân
quốc thích gồm tổng cộng 64 bộ môn, từ thi ca đến hội
họa, đô vật,… Gotama là người cuối cùng toàn thắng và
được thành hôn với Công chúa. Một trong những hoàng thân
thua cuộc trong đó là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta).
Vào
năm Thái tử 29 tuổi, Da Du Đà Đà La hạ sanh một hoàng nam,
Vua Tịnh Phạn đặt tên là Rahula (nghĩa là trói buộc) nhân
vì khi hay tin Công chúa hạ sanh, Thái tử đã buộc buộc miệng
than “Lại thêm một trở ngại. Lại thêm một dây trói buộc
nữa.” Dù sống trong nhung lụa, Thái tử vẫn luôn cảm thấy
bất an trước những cảnh sinh lão bệnh tử, mạng người
bấp bênh, phiền não khổ đau và cảnh ung dung tự tại của
những đạo sư. Rồi một đêm, sau khi đi qua nhìn vợ con lần
cuối, Thái tử ra lệnh mã phu Xa nặc (Channa) thắng ngựa tên
Kiền trắc (Kanthaka) để Ngài vượt hoàng cung, xuất gia cầu
đạo. Sau khi qua sông Anoma, Thái tử cắt tóc, gữi cả áo
mão, vàng vòng châu báu để Xa nặc mang về. Từ đó Ngài
bước hẳn vào con đường xuất gia cầu đạo.
Sau
khi rời nhà Gotama đi thẳng về hướng đông, qua khỏi các
xứ Sakyas, Koliyas và Mallas hay ít nhất cũng bằng những khoảng
cách địa lý tương đương. Không có tài liệu nào đề cập
đến khu vực nơi Ngài đặt chân đến trước nhất. Văn bản
Pali gọi khu vực đó là sông Anoma, cách thành Kapilavatthu (Ca
tỳ la vệ) ba mươi dặm, và nói rằng Ngài đi đến rừng
xoài Anupiya, một địa danh mà trong kinh điển có đề cập
đến như là một thị trấn nhỏ. Đại sử (Mahavastu) có nói
đến một dòng sông, nhưng lại thuộc thị trấn Animiya, cách
Mallas mười hai dặm. Theo Phương đẳng bản khởi kinh (Lalita-vistara
sutta), đó là một địa danh có tên Anuvaineya hay Anumaineya thuộc
miền Maineyas, khỏi xứ Mallas, địa danh này lại cách Mallas
sáu dặm đường. Những dữ kiện này đều nhằm chỉ đến
một địa điểm có thực tại một chỗ nào đó ở miền
đông Kapilavatthu mà theo truyền thống sử liệu, đó chính
là nơi Gotama đã đến. Anupiya là một địa danh có thực được
đề cập đến trong kinh điển. Địa danh này được công
nhận là nơi đức Phật dừng chân đầu tiên, những tên gọi
còn lại chỉ là những cách gọi khác nhau của Anupiya mà thôi.
Anupiya cũng như những địa danh cùng những biến cố nổi
bật khác không phải được đề cập chỉ một lần trong
bốn tạng kinh A hàm mà được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
trong những văn bản khác với những chi tiết khác nhau, bằng
nhiều hình thức khác nhau, hay được thêm vào kinh tạng theo
trình tự và thứ lớp khác nhau, nhất là trong các văn bản
Sanskrit, văn bản ra đời rất lâu sau những văn bản Pali.
Người ta không thể không đặt ra vấn đề những điểm dị
biệt và thêm thắc này trong văn bản bằng tiếng Sanskrit phải
chăng chỉ là những điểm phụ họa, hoặc vã kinh điển chỉ
nêu lên một số tình tiết chọn lọc trong số hàng loạt
những chi tiết có thực vào thời điểm đó, để rồi những
chi tiết này sẽ được nói đến đầy đủ hơn trong các
luận văn ở đời sau?
Kinh
điển kễ lại rằng trước nhất Gotama tìm đến thụ học
với hai đạo sư, nhưng vì thấy họ không thể thỏa mãn được
những điều mong mnuốn nên Ngài bỏ đi thực hành khổ hạnh
trong sáu năm trường cùng với năm đệ tử. Sau đó Ngài nghĩ
ra phương pháp tu tập mới nên không theo lối khổ hạnh tự
đày đọa bản thân, quả nhiên sau đó Ngài đạt đến giác
ngộ và giải thoát. Trong những ngày đầu sau khi thành đạo
Ngài có lưỡng lự không muốn hoằụng pháp độ chúng, nhưng
rồi Ngài quyết định chuyển pháp luân và lên đường đến
Benares. Tại đây Ngài gặp lại năm đệ tử ấy, những người
này trước đó đã bỏ rơi Ngài khi thấy Ngài không tu theo
lối khổ hạnh, Ngài thuyết pháp và quy y cho họ. Ngoài những
điểm này, người ta còn tìm thấy những chi tiết khác có
ghi trong các trường ca và được xem như là những ‘huyền
thoại cổ’, có lẽ những chi tiết này sau đó được các
luận văn nhắc đến.
Ở
giai đoạn này trước nhất chúng ta cần soi sáng những dữ
kiện về nhân vật và địa danh có tư liệu ngoài phạm vi
tư liệu của Phật giáo. Có nhiều tư liệu liên quan đến
Đức Phật nhưng những nhà viết sử có thiên kiến cũng đã
thêm bớt rất nhiều vào các truyền thuyết xưa cũ. Tuy nhiên
chúng ta cũng đều thấy được rõ ràng phương diện nổi
bật của sáu năm nỗ lực là việc khám phá đạo lộ đúng
đắn để dẫn đến giác ngộ. Việc học tập với hai đạo
sư không phải là thời gian ngấu nghiến mớ triết lý suông
mà chính là việc rèn tập một phương pháp thiền định cần
thiết phải có.
Đại
kinh Saccaka (Mahasaccaka sutta) (Trung A hàm, i 240) viết:
“Như
vậy Như lai nỗ lực tìm kiếm điều tốt đẹp, tìm kiếm
niềm phúc lạc tối thượng, và Như lai đã đến với Alara
Kalama rồi nói:
– ‘Thưa
đạo hữu Kalama, tôi muốn sống đời phạm hạnh bằng giáo
lý và giới luật này.’ Ngài Alara Kalama nói với Như lai:
– ‘Đạo
hữu hãy ở lại đây, còn đấy là giáo lý mà mà một người
thông tuệ chẳng mấy chốc tự mình có thể quán triệt được,
lĩnh hội được và sở đắc được và an trú trong giáo lý
ấy.’
Chẳng
bao lâu sau Như lai nhanh chóng quán triệt được giáo lý ấy.
Như vậy đến mức này chỉ việc mở môi là lặp lại được
những điều đã thuộc lòng, Như lai và những đạo hữu khác
đã trở thành chuyên nghiệp. Như lai nghĩ ‘Ta tuyên bố một
giáo lý của trí huệ, một giáo lý dành cho bậc tôn trưởng
ta hiểu và biết. Chẳng phải do lòng tín thành mà Alara đã
tuyên dạy giáo lý của ông, mà tự chính bản thân ông đã
hiểu được, ngộ được, sở đắc được và an trú trong
đó. Rất là như vậy lắm, Alara đã biết và hiểu được
giáo lý này.’ Do vậy Như lai tìm đến Alara và nói với ông:
– ‘Thưa
đạo hữu Alara, Ngài đã quán triệt được, lĩnh hội được
và sở đắc được giáo lý này đến mức nào và Ngài có
thể tuyên bố được như thế nào?’
Do
nhân duyên như vậy Alara tuyên bố sở đắc tánh không. Rồi
Như lai tự nghĩ, ‘Alara không có lòng tín nhưng ta có. Alara
không có lòng dũng, nhưng ta có. Alara không có sự tỉnh thức
nhưng ta có. Alara không có định, nhưng ta có. Alara không có
huệ nhưng ta có. Sẽ như thế nào nếu ta nỗ lực quán triệt
giáo lý mà Alara đã tuyên bố là chính ông đã quán triệt
được, lĩnh hội được, sở đắc được và an trú được
ở đấy.’ Chẳng bao lâu sau ta nhanh chóng quán triệt được,
lĩnh hội được, sở đắc được và an trú ở đấy.
Rồi
Như lai tìm đến Alara và bạch với Ngài:
– ‘Phải
chăng đó là giới hạn của giáo lý mà chính bản thân Ngài
đã quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc được
và chính Ngài đã tuyên bố như vậy?’
– ‘Thưa
đạo hữu, đó là giới giới hạn của nó’.
– ‘Thưa
đạo hữu, bản thân tôi, tôi cũng đã quán triệt được,
lĩnh hội được, sở đắc được và an trú được ở đấy’.
– ‘Thưa
đạo hữu, thật là thắng lợi cho chúng ta, quả là thắng
lợi vĩ đại cho chúng ta để có được một môn sinh giờ
thành bạn hữu. Chính là như thế đó, giáo lý mà chính bản
thân tôi đã quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc
được và tuyên bố, chính giáo lý ấy đạo hữu cũng đã
quán triệt được, lĩnh hội được, sở đắc được và
an trú được ở đấy… chính là như thế đó, tôi như thế
nào thì đạo hữu cũng như thế ấy, đạo hữu như thế nào
thì tôi cũng như thế ấy. Này đạo hữu, giờ đây cả hai
chúng ta nên cùng nhau hiến dâng cho cộng đồng này.’
Chuyện
là như vậy, Alara người thầy dạy của Như lai đã xem đồ
đệ của mình ngang hàng với ông ta và đã tôn vinh ta bằng
sự tôn vinh nổi bật nhất. Nhưng ta lại nghĩ, ‘giáo lý này
chỉ đạt đến sự lãnh ngộ tánh không chứ không dẫn đến
sự nhàm chán, sự dứt bỏ luyến ái, sự chấm dứt khổ
đau, sự tịch tĩnh, trí huệ siêu việt và Niết bàn.’ Do không
ham mê lý thuyết này nên ta bỏ đi lòng không hối tiếc.”
Rồi
Ngài đến Uddaka Ramaputta và nội dung cũng được diễn tả
bằng những lời tương tự, nhưng ở đây giáo lý được
thực hiện và do Rama, cha của Uddaka, tuyên bố sở đắc. Đấy
là cảnh giới Phi tưởng Phi phi tưởng. Về phần Uddaka, ông
ta không muốn đặt Gotama ngang hàng với mình mà chỉ công
nhận Ngài làm thầy của các môn đệ của ông ta mà thôi.
Ngài nhận thấy lý thuyết này cũng không thỏa mãn được
Ngài nên lại lần nữa bỏ đi.
‘Ngài
đến thọ giáo với một giáo sĩ danh tiếng khác là Uddala
Ramaputta. Không bao lâu sau, vị đệ tử thông minh xuất chúng
Gotama đã thấu triệt giáo lý của thầy và đắc đệ bát
thiền vô sắc tức tầng cao nhất của thiền vô sắc, cảnh
giới Phi tưởng, Phi phi tưởng, không còn tri giác nữa, ấy
là bậc thiền cao nhất trong tam giới. Khi đắc được thiền
này, tâm trở nên vô cùng tinh vi, tế nhị đền nỗi không
thể nói là có tâm hây không. Vào thời bấy giờ không ai
đắc được thiền nào cao hơn nữa.
Vị
đạo sư cao thượng ấy lấy làm hoan hỉ được biết sự
thành công rực rỡ của người đệ tử đặc sắc của mình.
Nhưng không như đạo su trước, đạo sĩ Uddaka Ramaputta mời
Ngài nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm dạy dỗ hàng môn đệ:
“Hỡi
này đạo hữu, tôi lấy làm hoan hỉ. Thật vậy, tôi vô cùng
hoan hỉ được gặp một người đồng tu tài đức đáng tôn
kính như đạo hữu. Giáo lý mà Rama đã hiểu biết đạo hữu
cũng hiểu. Giáo lý mà đạo hữu hiểu tôi cũng đã hiểu
biết. Rama đã như thế nào thì hôm nay đạo hữu cũng nhu
thế ấy. Ngày nay đạo hũu như thế nào thì Rama đã như thế
ấy. Vậy, hỡi này đạo hữu, hãy lại đây, đạo hũu sẽ
dẫn dắt nhóm đạo sĩ ở đây.”
Tuy
nhiên Gotama cảm thấy đó cũng chưa phải là mục tiêu cứu
cánh. Ngài đã hoàn toàn chế ngự tâm, mình, hoàn toàn làm
chủ cái tâm, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn còn mãi ở xa.
Ngài đang tìm con dường Niết bàn, tức là con đường hoàn
toàn siêu thoát ra jkhỏi vòng phiền não trầm luân và tận
diệt mọi hình thức ái dục.
Không
thỏa mãn với phương pháp tu tập của Ramaputta, một lần
nữa Gotama lại ra đi.
Sau
khi học tập với hai đạo sư nổi tiếng nhất thời ấy,
Gotama nhận thấy rằng không còn ai có đủ khả năng để
dẫn dắt mình thành tựu mục tiêu vì tất cả đều chưa
thoát khỏi vòng vô minh. Từ đò Ngài không đi tìm sự giúp
đỡ bên ngoài nữa.
“Như
vậy Như lai nỗ lực tìm kiếm điều tốt đẹp, tìm kiếm
niềm phúc lạc tối thượng, Như lai dò dẫm đến Magadhas,
rồi đi đến Uruvela, một thị trấn nhỏ bé. Ở đó Như lai
thấy một địa điểm xinh xắn có một khu rừng con, một
dòng sông trôi chảy thơ mộng có nước trong vắt và những
cây cầu đẹp, chung quanh là làng mạc có thể trì bình khất
thực. Nơi này chắc chắn là một chỗ rất thích hợp để
người ta nỗ lực đạt đến những điều mong muốn. Rồi
Như lai ngồi xuống đó : nơi chốn thích hợp là đây để
nỗ lực phấn đấu.”
Còn
có ba truyện kễ khác liên quan đến giai đoạn nỗ lực phấn
đấu của Gotama. Một mẫu truyện nói về một người cố
nhóm lửa bằng chà que củi nhóm lủa vào một mảnh gỗ tươi
xanh ướt sủng bị ngâm trong nước. Anh chàng ấy không sao
có thể nhóm lửa lên được, đó là hình ảnh của những
tu sĩ khổ hạnh nhưng lòng còn đầy tham-ái. Trường hợp
ấy cho dù họ có hành trì lâu mau, nghiêm mật, khôn khéo,
khổ hạnh đắng cay hay không, họ đều chẳng thể nào đạt
được trí huệ và giác ngộ. Đó chính là trường hợp thứ
nhì, trường hợp một anh chàng dùng que củi chà vào mảnh
gỗ tươi xanh ướt sủng, cho dù có vớt mảnh gỗ ấy ra khỏi
nước cũng không có gì thay đổi. Trong trường hợp thứù
ba, anh chàng ấy dùng mảnh gỗ khô, thế là anh ta có thể
nhóm được lửa. Như thế là ngươi tu khổ hạnh nếu biết
gạt bỏ và làm lắng dịu tham-dục, anh ta có thể đạt được
trí huệ và giác ngộ. Điểm quan trọng của đoạn trích dẫn
dưới đây ở chỗ một phần đoạn văn này có nguồn gốc
rất xa xưa nhờ tìm được trong các nguồn kinh điển Sanskrit,
phần khác ở chỗ đoạn văn này cho thấy phương pháp thiền
định của Phật giáo là độc nhất hay có vay mượn ở những
nguồn tôn giáo khác. Người ta dễ dàng nhận thấy Gotama là
người đầu tiên thực hành những phương pháp nổi tiếng
này trong đoạn văn dưới đây:
Đại
kinh Saccaka mô tả hạnh tinh tấn của Bồ Tát như sau:
Lúc
ấy tư tưởng sau đây đến với ta:
Hay
là ta cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng, rồi
dùng tâm (thiện) đè nén, chế ngự, và tiêu diệt những tư
tưởng (bất thiện)!
Rồi
Như lai cắn chặt răng lại, ép lưỡi sát vào nắp vọng,
và nỗ lực đè nén, chế ngự, và tiêu diệt những tư tưởng
(bất thiện) bằng tâm (thiện). Lúc ta chiến đấu như vậy
thì mồ hôi từ trong nách chảy tuôn ra.
Như
người mạnh nắm lấy đầu hay hai vai một người yếu rồi
đè xuống, dùng sức cưỡng bách và khắc phục, không cho
ngóc lên, cũng dường thế ấy, ta chiến đấu và khắc phục
(những tư tưởng bất thiện).
Sự
tinh tấn của ta quả thật kiên trì và bất khuất. Tâm niệm
của ta thật là vững chắc và không hề chao động. Tuy nhiên,
thân ta mòn mỏi và không an lạc sau khi cố gắng một cách
đau khổ – thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ
lực kiên trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh
đến thân ta , nó không chế ngự được tâm ta.
Lúc
ấy Như lai nghĩ như sau: hay ta thử trau giồi pháp hành thiền
nín thở!
Rồi
ta kiểm soát chặt chẽ hơi-thở-vô và hơi-thở-ra, từ miệng
và mũi. Khi ta kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra, ở miệng và
ở mũi, thì có luồng hơi thoát ra từ lỗ tai, tạo nên một
thứ âm thanh to lớn khác thường. Hơi gió thoát ra từ hai
ống thụt của anh thợ rèn kêu như thế nào thì lúc ta ngừng
thở, luồng hơi từ lỗ tai thoát ra tạo một âm thanh cũng
to như thế ấy… Rồi Như lai nghĩ: hay ta thử trau giồi pháp
hành thiền nín thở! Thế là ta kiểm soát chặt chẽ hơi-thở-vô
và hơi-thở-ra, từ miệng và mũi. Khi ta kiểm soát hơi-thở-vô,
thở-ra, ở miệng và ở mũi, thì có luồng hơi thoát ra từ
lỗ tai, tạo nên một thứ âm thanh to lớn khác thường. Hơi
gió thoát ra từ hai ống thụt của anh thợ rèn kêu như thế
nào thì lúc ta ngừng thở, luồng hơi từ lỗ tai thoát ra tạo
một âm thanh cũng to như thế ấy…
Dẫu
sao, hạnh tinh tấn của ta vẫn kiên trì và bất khuất. Tâm
niệm của ta vẫn vững chắc và không hề chao động. Tuy nhiên,
thân ta mòn mỏi và không an lạc sau khi cố gắng một cách
đau khổ – thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ
lực kiên trì. Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh
đến thân ta , nó không chế ngự được tâm ta.
Rồi
tư tưởng sau đây đến với ta: Hay là ta thử trau giồi pháp
nín thở!
Rồi
Như lai kiểm soát hơi-thở-vô, thở ra từ miệng, mũi và tai.
Lúc ngừng thở bằng miệng, mũi và tai thì hơi (bị dồn ép)
đập mạnh trong đầu ta . Như có người thật mạnh khoan vào
sọ ta một lưỡi khoan thật bén, khi tôi ngừng thở, hơi đập
vào đầu ta cũng làm đau đớn như vậy. Mặc dầu những cảm
giác đau đớn như vậy phát sanh ở thân ta, nó không ảnh
hưởng đến tâm ta chút nào.
Lúc
ấy Như lai tự nghĩ: Hay ta thử hành pháp thiền nín thở ấy
một lần nữa!
Rồi
Như lai kiểm soát hơi-thở-vô, thở-ra từ miệng, mũi và tai.
Và lúc ta ngừng thở, đầu ta nghe đau bưng lên. Trạng thái
đau đớn kinh khủng lúc bấy giờ giống như có một lực
sĩ dùng dây thừng siết chặt đầu ta lại. Tuy nhiên, hạnh
tinh tấn của ta vẫn một mực kiên trì. Những cảm giác đau
đớn ấy không gây ảnh hởng đến tâm ta.
Lúc
ấy Như lai tự nghĩ: Hay ta thử hành thiền về pháp nín thở
một lần nữa!
Rồi
Như lai ngưng thở bằng miệng, mũi và tai. Khi ta kiểm soát
hơi thở như thế ấy thì một luồng hơi mạnh thọc xuyên
qua bụng ta. Tên đồ tể, thiện nghệ hay mới tập sự, dùng
dao bén rạch một đường trên bụng, làm đau đớn thế nào
thì luồng gió mạnh thọc xuyên qua bụng làm ta đau đớn dường
ấy. Tuy nhiên ta vẫn một mực kiên trì tinh tấn. Những cảm
giác đau đớn ấy không ảnh hưởng đến tâm ta.
Lần
nữa Như lai tự nghĩ: hay ta thử hành thiền thêm về pháp
nín thở!
Rồi
Như lai kiểm soát hơi-thở-ra, thở-vào từ miệng, mũi và
tai. Và khi nín thở như vậy ta cảm giác như có một ngọn
lửa to khủng khiếp bừng lên và bao trùm lấy ta. Như có hai
tay lực sĩ nắm chặt một tên yếu ớt nướng y trên đống
lửa than đang cháy đỏ cho đến lúc hoàn toàn thiêu rụi,
lửa thiêu đốt thân tôi lúc ngừng thở cũng nóng dường
thế ấy. Tuy nhiên, ta vẫn kiên trì tinh tấn. Những cảm giác
đau đớn ấy không chế ngự được tâm ta.
Lúc
ấy có những vị Trời thấy Như lai vậy thì nói với nhau:
Đạo Sĩ Gotama đã chết! Vài vị khác ghi nhận: Đạo Sĩ Gotama
chưa chết hẳn, nhưng đang chết dần! Trong lúc ấy cũng có
vị nói: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn cũng không phải đang
chết dần. Ngài là một vị A La Hán. Đây là lối sống của
một vị A La Hán.”
Rồi
Như lai nghĩ: hay ta thử hành pháp tuyệt thực!
Lúc
ấy có những vị Trời đến gần Như lai và nói: “Bạch Ngài,
xin Ngài chớ nên hành pháp tuyệt thực. Nếu Ngài tuyệt đối
không dùng vật thực nữa thì chúng tôi sẽ rót trên thân
Ngài những chất bổ của cảnh Trời để cho nó thấm vào
lỗ chân lông và nuôi sống Ngài.
Và
Như lai nghĩ: nếu ta hành pháp tuyệt thực mà các vị Trời
lại rót chất bổ của cảnh Trời để nuôi sống thân này
thì quả là một điều gian dối, nên tôi từ chối rằng:
“Điều ấy không cần thiết.”
Lúc
ấy Như lai suy nghĩ như sau: hay ta thử dùng chút ít vật thực,
mỗi lần chỉ một chút thôi, một ít nước đậu xanh hay
rau cỏ, hay đậu đỏ, hay đậu trắng.
Khi
mà Như lai chỉ dùng thật ít vật thực như thế, ở thể
đặc hay thể lỏng, thì thân ta trở nên cực kỳ gầy yếu.
Vì thiếu vật thực, những bộ phận lớn và nhỏ trong thân
ốm gầy không khác nào những cọng cỏ ống hay những cây
đăng tam thảo. Vì thiếu vật thực, bàn tọa của ta chỉ
còn bằng cái móng của con lạc đà. Vì thiếu vật thực,
xương sống ta cũng như một xâu chuỗi dựng đứng lên và
cong vào. Vì thiếu vật thực, xương sườn ta tựa như một
cái sườn nhà bị sụp đổ. Vì thiếu vật thực, mắt ta
không khác nào hình ảnh của những ngôi sao mà ta có thể
thấy dưới một cái giếng sâu. Vì thiếu vật thực, trái
mướp đắng cắt ra lúc còn tươi rồi đem phơi, gió và nắng
làm da mướp teo lại, nhăn nhó và héo tàn thế nào thì da
đầu ta lúc ấy cũng nhăn nhó và héo tàn như thế ấy. Khi
muốn rờ da bụng thì ta đụng nhằm xương sống, còn khi muốn
rờ xương sống thì ta lại đụng nhằm da bụng, vì thiếu
vật thực da bụng tôi ép sát vào xương sống. Lúc muốn đứng
dậy cho thoải mái, thì ta luống cuống té ngã xuống vì thiếu
vật thực. Ta đập nhẹ trên chân, tay để làm cho thân mình
sống lại, lúc đập như thế, lông trên mình ta lả tả rơi
xuống đất do đã chết gốc vì thiếu vật thực.
Thấy
Như lai như vậy, có người nói: ‘Đạo Sĩ Gotama đen’. Vài
người nói: ‘Đạo Sĩ Gotama không đen mà là nâu’. Cũng có
người nói: ‘Đạo Sĩ Gotama không đen mà cũng không nâu, màu
da của ông ta là màu da ca,ù’ màu da sáng sủa và trong trẻo
của ta tàn tệ đến như thế ấy vì thiếu vật thực.
Rồi
tư tưởng sau đây phát sinh đến với Như lai : dầu các đạo
sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong quá khứ đã chịu những
cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót xa như thế
nào, thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn nữa.
Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh trong tương lai sẽ
chịu những cảm giác nhức nhối, đau đớn, dữ dội hay xót
xa thế nào, thì cũng đến mức này là cùng, không thể hơn.
Tuy nhiên, đã trải qua bao nhiêu khắc khổ, khó khăn và đau
đớn mà ta không đạt được điều chi tốt đẹp, xứng đáng
với sự giác ngộ cao thượng và trí tuệ vượt hẳn những
trạng thái cao thượng của loài người. Hay là còn con đường
nào khác dẫn đến giác ngộ chăng?”
(Đoạn
trích dẫn của HT Narada trong quyển The Buddha and His teaching,
trích lược từ bản tiếng Việt của Phạm Kim Khánh được
sửa chữa đôi chỗ)
Rồi
Như lai nghĩ, bây giờ Như lai nhớ lại hồi Như lai còn ở
với phụ vương, lúc ra ngoại thành có lần Như lai đã ngồi
tọa thiền dưới bóng cây trong tâm không còn có tư tưởng
tham dục, không còn có tư tưởng tà vạy, ta đã đạt đến
cảnh thiền thứ nhất đầy hỷ lạc từ trong sự tịch tĩnh
kết hợp với lý luận và suy nghiệm. Có lẽ đây là con đường
dẫn đến giác ngộ. Rồi dùng sự kết hợp tỉnh thức với
ý thức làm con đường đi đến giác ngộ. Như lai lại nghĩ,
tại sao ta lại sợ hãi trạng thái hỷ lạc không vướng bận
tham dục và tư tưởng tà vạy? Và ta lại nghĩ, ta không nên
sợ hãi trạng thái hỷ lạc không vướng bận tham dục và
tư tuởng tà vạy ấy.
Rồi
ta lại nghĩ, bằng với cơ thể suy yếu như thế này ta thật
khó mà có thể đạt trạng thái hỷ lạc ấy được. Nếu
bây giờ ta thử dùng thực phẩm thô, cơm, sữa chua,… thì
sự thể sẽ ra thể nào? Khi ấy năm vị sư theo hầu ta có
ý nghĩ là “khi đạo sĩ Gotama đắc đạo Ngài sẽ nói đạo
ấy cho mình.” Nhưng khi ta dùng thực phẩm thô, gạo và sữa
chua, năm vị sư ấy nhàm chán, nói rằng “đạo sĩ Gotama sống
đời lợi dưỡng, ông ta đã bỏ tu trì, ông ta sẽ quay theo
đời sống lợi dưỡng.”
Bấy
giờ sau khi ăn uống và phục hồi sức khoẻ trở lại, tuyệt
không vướng bận tham dục và tư tưởng tà vạy Như lai đạt
đến và an trú trong cảnh thiền thứ nhất đầy hỷ lạc
từ trong sự tịch tĩnh kết hợp với lý luận và suy nghiệm.
Dù cảm giác hỷ lạc phát sinh nó vẫn không chế ngự được
tâm ta. Rồi ngưng lý luận và suy nghiệm, Như lai đạt được
và an trú trong cảnh thiền thứ nhì đầy hỷ lạc do tâm định,
nội tại tịch tĩnh, trụ tâm vào một chỗ không còn lý luận
và suy nghiệm. Hướng sự xả ly vào hỷ và sân Như lai an
trú bằng tỉnh thức và ý thức rồi kinh nghiệm được diệu
lạc bản thân, đó là điều mà những bậc tôn túc gọi là
“an trú bằng xả ly, tỉnh thức và phúc lạc”, và Như lai đạt
được cũng như an trú được trong thiền cảnh thứ ba. Xả
ly hỷ lạc, xả ly đau khổ, trước khi tư tưởng buồn vui
biến mất, Như lai đạt được và an trú trong cảnh thiền
thứ tư, cảnh thiền không còn đau khổ, không còn hỷ lạc
mà chỉ còn đầy sự thanh tịnh của tâm tỉnh thức và tịch
tĩnh.
Bằng
với tâm đã định, thanh tịnh, tinh khiết, không tỳ vết
(vô nhiễm), phiền não diệt, bất thối chuyển, dễ uốn nắn,
kiên định Như lai hướng tâm về sự nhớ lại những kiếp
quá khứ (Túc mạng minh). Như lai nhớ lại nhiều kiếp như
thế này: đầu tiên một kiếp, hai kiếp, rồi ba kiếp, rồi
bốn, rồi năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi một
trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của nhiều
châu kỷ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều châu kỷ
thế gian rồi cả hai, sự phân tán và sự phát triển của
nhiều châu kỷ thế gian. Ở đây Như lai tên gì, sanh trưởng
trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cử điều gì, vui thích
và đau khổ thế nào và chết chóc cách nào. Từ cảnh ấy
ra đi Ngài tái sanh vào cảnh nào. Rồi tên gì, sanh trưởng
trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cử điều gì, vui thích
và đau khổ thế nào và chết cách nào. Rồi từ đó ra đi,
tái sanh vào cảnh nầy.
Như
thế Như lai hồi nhớ cách thức tái sanh và nhiều chi tiết
về những kiếp sống quá khứ.
Đây,
hẳn vậy, là Tuệ giác đầu tiên mà Như lai chứng ngộ lúc
quán chiếu lần thứ nhất, đêm thành đạo.
(Đoạn
trích dẫn của HT Narada trong quyển The Buddha and His teaching
trích lược từ bản tiếng Việt của Phạm Kim Khánh được
sửa chữa đôi chỗ)
Bằng
với tâm đã định, thanh tịnh, tinh khiết, không tỳ vết
(vô nhiễm), phiền não diệt, bất thối chuyển, dễ uốn nắn,
kiên định Như lai hướng tâm về sự tri giác hiện tượng
chết và tái sinh của chúng sanh (Thiên nhãn minh). Bằng với
nhãn quan phạm thiên, thanh tịnh và siêu phàm ta nhìn thấy
chúng sanh chết đi rồi tái sanh trở lại, dưới cõi thấp
cũng như trên cõi cao, bằng màu da tốt cũng như màu da xấu,
trong cảnh đời hạnh phúc hay khổ đau tuỳ nghiệp căn của
họ. Những chúng sanh sống đời tà mỵ bằng hành, ngữ và
ý, nói điều tà mỵ với những bậc tôn túc, những chúng
sanh với tà kiến, hành nghiệp do tà kiến, sau khi thân xác
tan rã sẽ sanh vào cảnh khổ sở đớn đau trong địa ngục.
Những chúng sanh sống đời tốt lành bằng hành, ngữ và ý,
không nói điều tà vạy với những bậc tôn túc, những chúng
sanh với chánh kiến, hành nghiệp do chánh kiến, sau khi thân
xác tan rã sẽ sanh vào cảnh hạnh phúc trên những cõi trời…
Đây
là Tuệ giác thứ nhì mà Như lai chứùng ngộ khi quán chiếu
lần thứ nhì đêm thành đạo.
Bằng
với tâm đã định, thanh tịnh, tinh khiết, không tỳ vết
(vô nhiễm), phiền não diệt, bất thối chuyển, dễ uốn nắn,
kiên định Như lai hướng tâm tìm hiểu về sự tận diệt
các pháp lậu hoặc (Lậu tận minh). Do vậy Như lai lĩnh ngộ
được chân lý về ‘đây là sự khổ,’ do vậy Như lai lĩnh
ngộ được chân lý về ‘nguyên nhân của khổ’, và do vậy
Như lai lĩnh ngộ được chân lý về ‘đây là sự diệt khổ,’
do vậy Như lai lĩnh ngộ được chân lý về ‘đây là con đường
dẫn đến sự diệt khổ.’ Do vậy Như lai lĩnh ngộ được
‘đây là những lậu hoặĩc’..’đây là nguyên nhân của lậu
hoặc’…’đây là sự diệt tận lậu hoặc’… ‘đây là con
đường dẫn đến sự diệt tận lậu hoặc’. Như lai hiểu
và nhận thức như thế, tâm ta giải thoát các lậu tham dục,
các lậu tham hữu, các lậu vô minh. Và Như lai được giải
thoát, bản thân Như lai hiện rõ ý thức về sự giải thoát
đó. Như lai nhận rõ sự sanh đã diệt, đời phạm hạnh đã
được viên mãn, đã làm xong những việc cần phải làm, không
còn trở lại trạng thái này nữa. Đây là Tuệ giác thứ
ba mà Như lai chứùng ngộ khi quán chiếu lần thứ ba vào đêm
ấy. Vô minh đã tan, tuệ giác đã khai mở. Bóng tối đã cuốn
đi, ánh sáng đã chan hòa. Và Như lai an trú trong tỉnh giác,
dũng khí và cương quyết.”
II-Những
Chi Tiết Quan Trọng Khác:
1-
Phương đảng bản khởi kinh có nhiều chi tiết thú vị khác:
Sau khi khoác áo đạo sĩ khổ hạnh Gotama đến tịnh cốc của
một nữ hành giả Bà la môn tên Saki, rồi tịnh cốc của
nữ hành giả Bà la môn khác tên Padma, sau đó gặp hành giả
Raivata, hành giả Rajaka con trai của Trimandika, cuối cùng Ngài
đến Vaisali rồi gặp đạo sĩ Alara.
Kinh
Xuất gia (Pabbajja-sutta) ghi rằng sau sau khi xuất gia, Gotama ở
trong rừng xoài tại Anupiya một tuần lễ rồi sau đó mới
đến Rajagaha, một thị trấn ở Magadha. Tại đây Ngài trì
bình khất thực từng nhà, oai nghi của Ngài khiến cả thị
trấn ai cũng phải chú ý. Sau đó vua Bình sa vương (Bimbisara)
biết chuyện nên thân hành đến tại chỗ ngồi của Gotama,
vì cảm kích nên tự miệng dâng cả giang san cúng dường cho
Ngài. Gotama từ chối và giải thích cho Bình sa vương hiểu
rằng Ngài đã từ bỏ ngai vàng để đi tìm giác ngộ nên
Ngài không ham muốn gì đến của cải thế gian. Ngài có hứa
nếu viên mãn Phật quả Ngài sẽ trở lại quy y cho Bình sa
vương.
2-
Tập Bổn sanh truyện (Jataka) thêm nhiều chi tiết khác quanh
sáu năm gian khổ của Ngài. Sau thời gian dài tu theo lối khổ
hạnh nhịn ăn Gotama bị ngất xỉu, tin truyền đến tai phụ
vương của Ngài rằng Ngài đã chết. Vua Tịnh Phạn không
tin, Ngài tuyên bố: “Trẩm không tin chuyện ấy. Con trẩm không
bao giờ có thể chết mà chưa viên thành Phật quả.” Nhà vua
còn nhớ lúc Gotama mới được hạ sanh, tám vị tiên ông,
trong đó có cả Kaladeva đã tiên tri rằng Gotama sau này sẽ
thành Phật nếu xuất gia đi tu, nay Gotama đã xuất gia, Gotama
sẽ thành Phật. Mẹ Ngài trên thiên đình hay tin cũng than khóc,
nhưng Ngài tỉnh lại và tuyên bó Ngài sẽ sống và sẽ tu
cho đến lúc thành Phật.
Khi
Ngài nhận vật thực trở lại, Bổn sanh truyện viết, vật
thực ấy do một thôn nữ tên Sujata (Tu xà đa, hay Thi ca la
việt, hay Thiện Sanh) sống trong làng dâng cúng, cô là con gái
của một người tên Senani thôn Senani tại Uruvela (Ưu lâu tần
loa). (Cô thôn nữ này ở làng Nanda, cúng thức ăn bằng sữa,
bột và mật ong cho Gotama. Về sau, lúc gần nhập Niết bàn,
đức Phật có nói cho Ngài A nan rằng trong đời có hai người
cúng dường thức ăn được phước báu nhiều hơn hết là
cô gái Tu xà Đa đâng thức ăn trước khi Phật đắc đạo
và anh thợ rèn Thuần Đà dâng cơm lần cuối trước khi Phật
nhập diệt). Truyện rằng nàng Sujata trước đây vì đã có
đến bên cây này và cất lời ước nguyện cúng dường mỗi
năm nếu về sau nàng sanh hạ con trai. Lời cầu xin ứng nghiệm
nên nàng sai người hầu tên Punna (Phước Thiện) chuẩn bị
việc cúng dường. Đấùy là một ngày trăng tròn tháng Visakha
(tháng tư và năm) đúng ngày Phật thành đạo. Khi đến nơi,
Punna thấy Gotama ngồi dưới cây bồ đề, thoạt đầu Punna
nghĩ vị ấy chính là thần cây bồ đề hiển linh giáng lâm.
Đêm trước ấy nàng đã thấy năm giấc mơ kỳ lạ, khi giật
mình tỉnh giấc nàng còn nghĩ giấc mơ ấy là điềm nàng
sẽ thành Phật (1- Trời đất thành giường ngủ, còn dãy
Tuyết sơn thành gối kê đầu. Tay trái của ông dang ra tới
biển đông, còn tay phải tới biển tây, chân thòng đến biển
nam. 2- Cây Tiriyatừ bàn tay ông mọc ra cao ngất lên đụng
đến trời. 3- Sâu trắng đầu đen bó qua đầu gối. 4- Bốn
loài chim qúy bốn màu từ bốn phương bay lại rơi xuống chân,
đột nhiên lông biến ra màu trắng. 5- Ông bước qua núi phân
mà không hề bị ô uế). Sujata bước tới dâng đến Gotama
vật thực cúng dường đựng trong bát bằng vàng, lúc ấy
cái bát bằng đất Ngài nhận từ lúc xuất gia nay đã biến
đâu mất. Ngài cầm bát đến bờ sông, tắm rửa chỗ có
một cây cầu hoặĩc chỗ để tắm tên gọi là Suppatitthita,
rồi thọ thực. Đây là bữa ăn duy nhất mà Ngài nhận được
trong vòng bốn mươi chín ngày. Thọ thực xong, Ngài thả bát
xuống sông và nói: “nếu hôm nay ta có thể viên thành Phật
quả thì bát này hãy trôi ngược dòng.” Bát trôi ra đến giữa
sông, rồi trôi ngược dòng lên nguồn nhanh như ngựa chạy
trong một khoảng bằng tám chục xải tay rồi chìm xuống nơi
xoáy nước đến tận chỗ Long vương, vua loài rồng. Tại
đó bát thọ thực của Ngài khua vào bát thọ thực của ba
vị Phật đời trước rồi đứng lại theo tôn bậc thấp
nhất. Qua hết ngày ấy trong rừng cây sa-la, chập tối Ngài
theo đường bộ rộng rãi đến cây bồ đề có thiên thần
canh giữ, các thiên thần này ca hát và tôn vinh Ngài bằng
những thứ hoa thơm ngọt. Lúc ấy có một người cắt cỏ
tên Sotthiya (hay Svastika, Kiết Tường) gặp Ngài và cúng dường
Ngài tám bó cỏ. Sau khi ngồi thử hết bốn hướng, Ngài chọn
hướng đông, hướng bất thối chuyển của tất cả chư Phật
để đánh tan phiền não trược; rồi Ngài giủ bó cỏ ra làm
thành bồ đề tọa dài mười bốn tay. Ngài ngồi kiết già
và thốt ra lời thệ nguyện: “Cho dù chỉ còn lại da, gân
bọc xương. Cho dù thịt máu ta có khô cạn, ta sẽ không rời
chỗ này nếu không đạt đến giác ngộ.”
Kinh
Xuất gia (Pabbajja-sutta) kể thêm rằng trong thời gian Gotama
ở trong rừng gần Uruvela, người con gái cũa một trưởng
làng tên là Sujata đã quen việc hàng ngày cúng dường cho tám
trăm tu sĩ Bà la môn, lúc cúng dường lần nào nàng cũng khấn
“Nguyện cầu các vị Bồ tát nhận vật thực của con, đạt
thành giác ngộ, viên thành Phật quả”. Một đêm trăng tròn
tháng năm Sujata nằm mộng thấy thiên thần đến cho hay tin
rằng đạo sĩ Gotama đã lìa bỏ lối tu khổ hạnh nay muốn
thọ dụng thực phẩm bổ dưỡng và nói thêm “bây giờ lời
cầu nguyện của con sẽ thành sự thật.”. Hôm sau nàng vội
vã chạy ra chỗ nuôi bò của cha, từ lâu nàng đã quen việc
chăn bò vắùt sửa, nàng vắt sửa của tám con bò béo bổ
nhất, để sửa vào trong nồi mới rồi chuẩn bị món cơm
sửa. Đoạn nàng sai gia nô Punna đến gốc cây lớn nơi nàng
để vật thực cúng dường hàng ngày. Lúc bấy giờ Bồ tát
đang tham thiền dưới gốc cây, cả vùng trời rực sáng. Punna
nhìn thấy ngỡ rằng đấy chính là thần cây hiện ra muốn
đích thân nhận vật thực cúng dường. Punna chạy trở về
báo tin cho Sujata, Sujata vội vã chuẩn bị mọi thứ sẵõn
sàng, nàng lấy bình bát bằng vàng đựng vật thực, đậy
lên bằng miếng vải trắng mới tinh rồi đi ra gốc cây. Tại
đây nàng gặp Bồ tát Gotama mà ngỡ là thần cây. Sujata đến
gần, đặt bát lên tay Ngài, thấy Ngài nhìn nàng rồi mới
nói: “Thưa Ngài, xin Ngài thọ nhận vật thực con cúng dường
đến Ngài. Con cầu nguyện để nhờ đó Ngài có được niềm
phúc lạc lớn lao như con đã hằng có!” Nói xong nàng trở
về.
3-
Về nhóm năm đệ tử theo hầu ngài trong sáu năm khổ hạnh,
Bổn sanh truyện kễ rằng Kiều Trần Như (Kondanna) là người
trẻ nhất trong nhóm tám đạo sĩ đến xem vận mạng cho thái
tử Gotama lúc mới hạ sanh. Khi Gotama xuất gia thì bảy người
kia đã qua đời, Kiều Trần Như đến gặp con các vị ấy
mời họ cùng theo hầu Gotama, nhưng chỉ có bốn người đồng
ý. Theo Phương đẳng bản khởi kinh, năm vị này chính là
đồ đệ của Uddaka, vì thấy rằng Gotama sớm muộn gì cũng
trở thành bậc thầy của thiên hạ nên theo Ngài đến Rajagaha.
Còn truyện kễ của Tây tạng (Rockhill, p. 28) thì viết rằng
sau khi vua Tịnh Phạn hay tin Gotama theo tu học với Uddaka, Ngài
vội vã gữi 300 người theo hầu, Thiện Giác Vương (nhạc
phụ của Thái tử) gữi theo 200. Trong số này Gotama tuyển
chọn lại và chỉ nhận năm người cho theo tu tập với Ngài.
Kinh
Xuất gia (Pabbajja-sutta) ghi thêm rằng sau khi rời Alara Kalama,
Gotama đến làng Uruvela, bên bờ sông Ni liên thiền (Nairanjana),
tại đây Ngài gặp năm đạo sĩ du phương khất thực, trưởng
nhóm là Kiều Trần Như, người đã có lần đến hoàng cung
tiên tri cho Gotama lúc Ngài mới hạ sanh. Biết Ngài sớm muộn
gì cũng viên thành Phật quả nên Kiều Trần Như cùng cả
nhóm ở lại để cùng tu với Gotama. Về sau, sau khi thấy Gotama
từ bỏ lối sống khổ hạnh sau sáu năm kiên trì để xoay
qua đời sống thọ vật thực, họ nghĩ “Tại sao Thầy ấy
lại làm chuyện đi khất thực trong làng và thọ dụng những
vật thực tầm thường ấy như vậy?” và rồi họ từ bỏ
Gotama để đến ngoại ô của thành phố Benares gọi là khu
Isipatana (Chư thiên đọa xứ). (Buddha and the Gospel of Buddhism,
by Ananda K. Coomaraswamy, p. 30)
III-
Bài Học Giải Thoát:
Qua
những điểm ghi nhận nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy
rõ ràng rằng:
1-
Tiến trình giác ngộ của Đức Phật là một tiến trình tự
tiến triển theo thời gian, từ thấp đến cao. Tiến trình
này không nhảy vọt từ không đến có, từ ngu phu thành hiền
giả, từ phàm phu thành thánh nhân trong một sớm một chiều
hay trong khoảnh khắc vô minh xoá sạch. Đức Phật đã tu tập
từ vô lượng kiếp, những thành quả ấy cuối cùng kết
tinh để viên thành Phật quả. Sự kết tinh ấy trước khi
thành tựu đòi hỏi sự phấn đấu và nỗ lực vượt bực
lần cuối cùng để khẳng định dũng lực cần thiết. Khẳng
định tâm bất thối chuyển trước cảnh đời hữu sắc và
vô sắc. Khẳng định không còn chút rơi rớt vi tế nào của
tham sân si, của phiền não. Khẳng định một cái tâm đã
được thuần thục, nhu nhuyễn, tinh khiết, không tỳ vết.
2-
Chúng ta không nên nhầm lẫn sự giác ngộ viên mãn của đức
Phật với tinh thần đại ngộ, liễu ngộ, giác ngộ, trực
ngộ, kiến tánh và những từ có ý nghĩa tương đương …
được đề cập đến với các đại thành tựu giả, các
đại sư và các tổ. Sự giác ngộ viên mãn của Đức Phật
đạt đến Phật quả. Sự giác ngộ của các đại đệ tử,
của các thánh, tổ, đại thành tựu giả, đại sư, … còn
cần phải được một vị Phật thọ ký để “trong vô lượng
kiếp về sau sẽ thành Phật hiệu là …” vì rằng trong một
kỳ kiếp không có hai Phật cùng ra đời.
3-
Thiền tập là công phu không thể thiếu để đạt đến giác
ngộ. Con đường thiền tập ấy đã được nâng lên từng
bước một. Thoạt đầu ở mức sơ thiền, “trong tâm không
còn có tư tưởng tham dục, không còn có tư tưởng tà vạy,
ta đã đạt đến cảnh thiền thứ nhất đầy hỷ lạc từ
trong sự tịch tĩnh kết hợp với lý luận và suy nghiệm …
Như lai lại nghĩ, tại sao ta lại sợ hãi trạng thái hỷ lạc
không vướng bận tham dục và tư tưởng tà vạy?” Sau đó
đức để đạt đến nhị thiền đức Phật đã: “Rồi ngưng
lý luận và suy nghiệm, Như lai đạt được và an trú trong
cảnh thiền thứ nhì đầy hỷ lạc do tâm định, nội tại
tịch tĩnh, trụ tâm vào một chỗ không còn lý luận và suy
nghiệm.” Tiến thêm một bước nữa, đức Phật hướng tâm
đến tam thiến: “Hướng sự xả ly vào hỷ và sân Như lai
an trú bằng tỉnh thức và ý thức rồi kinh nghiệm được
diệu lạc bản thân, đó là điều mà những bậc tôn túc
gọi là “an trú bằng xả ly, tỉnh thức và phúc lạc”, và
Như lai đạt được cũng như an trú được trong thiền cảnh
thứ ba.” Cuối cùng là cảnh thiền thứ tư, Đức Phật đã:
“Xả ly hỷ lạc, xả ly đau khổ, trước khi tư tưởng buồn
vui biến mất, Như lai đạt được và an trú trong cảnh thiền
thứ tư, cảnh thiền không còn đau khổ, không còn hỷ lạc
mà chỉ còn đầy sự thanh tịnh của tâm tỉnh thức và tịch
tĩnh.”
Sau
khi đã định được tâm, hoàn toàn làm chủ được tâm, đã
đạt được một cái tâm hoàn toàn không có tư tưởng tham
dục, không tư tưởng tà vạy, tịch tĩnh (ngưng suy luận và
suy nghiệm), tâm luôn trụ một chỗ, không còn tâm buồn vui
tham đắm hỷ lạc hay bị chi phối của bất cứ khổ cảnh
nào – dù thô hay vi tế, đó là một cái “tâm đã định, thanh
tịnh, tinh khiết, không tỳ vết, phiền não diệt, bất thối
chuyển, dễ uốn nắn, kiên định” bằng tâm ấy đức Phật
tiến đến ngũ thông và thành Phật.
4-
Ngày nay, với phương tiện truyền thông khổng lồ, mạn Internet
toàn cầu, chúng ta có một cơ hội vô cùng lớn lao để học
tập. Phương tiện khổng lồ ấy mang đến chúng ta quá nhiều
thông tin cần phải gạn lọc lại để chọn lựa những chất
liệu cần thiết và bổ dưỡng. Phật pháp đã được truyền
dạy 26 thế kỷ, đã có hàng trăm hàng ngàn đại thành tựu
giả khắp nơi, từ thành thị đến đỉnh núi cao, những người
tên tuổi vang lừng, cũng có những người âm thầm đạt đến
đỉnh cao trí huệ rồi âm thầm ra đi. Ngoài đức Phật, chúng
ta có Thập Đại đệ tử, 28 thánh tăng, 5 vị tổ ở Trung
quốc, chưa kễ các vị tổ khác ở Nhật, ở Tây tạng, ở
Đài loan, ở Thái lan, Miến điện, Tích Lan … Chánh pháp của
Đức Phật từ một dạng nguyên thủy theo thời gian đã được
chia ra thành Nam tông, Bắc tạng, Thiền, Tịnh, Mật,… Mỗi
tông phái thủ đắc một số kinh điển làm kinh điển chánh,
xây dựng và triển khai toàn bộ lý luận xoay quanh trọng tâm
của số kinh điển nền tảng ấy và quay lưng với số kinh
điển còn lại. Một số tín đồ ngày nay còn đi xa hơn, triệt
để hơn, ít nhiều trong tâm cũng có tư tưởng chê bai, phỉ
báng, rẻ rúng, không để vào mắt số kinh điển còn lại,
cho là “bàng môn tả đạo”, cho là kẽ thù,… Một điều chúng
ta cần nhớ rằng, lúc còn sinh tiền, nhiều lần Đức Phật
đã răn dạy đệ tử, trong số đó có hàng Thập đại đệ
tử. Tổ Ca Diếp là Tổ đời thứ nhất, là một trong những
Thập Đại đệ tử ấy. Đệ tử của Tổ Ca Diếp gần hàng
chục đời sau mới đến Tổ Mã Minh, Vô Trước, Long Thọ,
rồi mấy chục đời sau nữa mới đến Bồ Đề Đạt Ma,
Huệ Năng. Trí huệ các Tổ so với chúng ta thật là một trời
một vực. Trí huệ của Đức Phật nếu đem so với các Tổ
cũng một trời một vực như vậy. Bổn phận hàng đệ tử
chúng ta nên tôn thờ các Tổ, sùng bái Đức Phật. Không phải
riêng chỉ Đức Phật Thích Ca mới là Phật, tất cả chư
Phật đều đồng một tánh. Không thể nào tôn sùng Phật
A Di Đà mà bỏ quên Phật bổn tôn là Thích Ca Mâu Ni. Không
thể nào tôn thờ Phật bổn tôn mà nỡ không để vào mắt
Phật A Di Đà. Nếu không đuợc như vậy thật là bất kính
với Tổ, với Phật, đã bất kính với Tổ với Phật thì
đã gây nghiệp xấu rồi, làm sao có thể thành tựu đạo
quả tối vi diệu!
– Nguyện
cầu tất cả chúng sanh đều được an vui và hạnh phúc
– Nguyện
mọi ma pháp đều không được thành tựu nhưng tất cả những
điều lợi lạc cho chúng sanh đều sớm được viên mãn.
– Nguyện
cầu để mọi nẻo vào ác đạo đều bị khoá chặt nhưng
đường ngay nẻo chánh mang đến lợi lạc cho mọi người,
mọi chư thiên và cửa vào Thiên đàng lúc nào cũng mở rộng
sẵn sàng.
Mùa
Phật Thành đạo năm 2001 Tây lịch
Minh
Thông
Email:
dongttran@yahoo.com
Discussion about this post