ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA ĐÀM LUẬN VỚI
TẠP CHÍ PHÒNG VỆ VÀ CẢNH BÁO AN NINH – ẤN ĐỘ
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và DSA, April 2012
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Một
cuộc phỏng vấn hiếm hoi và cởi mở với Đức Đạt Lai Lạt Ma và Nhà xuất bản và biên tập viên điều hành của tạp chí DSA (phòng
vệ và cảnh báo an ninh), ngài đã nói về chiều dài bao quát đối với tình trạng của
Tây Tạng và nó tiến triển như thế nào qua năm tháng, cũng như những trạng huống
khả dĩ cho những sự phát triển tương
lai. Lòng bi mẫn vô hạn và cảm nhận sâu
xa của ngài đối với quê hương và đồng
bào của ngài hiện hữu thật rõ ràng trong cuộc phỏng vấn rộng rãi này.
DSA: Đang có những báo cáo đáng lo âu về
những tu sĩ Tây Tạng đã tự thiêu phản kháng lại sự tàn bạo của Bắc Kinh. Tình trạng hiện tại ra sao ở Tây Tạng và ngài
nghĩ nó sẽ được hướng theo cách nào?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Những sự kiện mới đây thật rất đáng buồn. Tuy nhiên chúng là triệu chứng của tất cả những
gì mà Bắc Kinh đã làm ở Tây Tạng trong hơn sáu mươi năm qua. Chính sách của Bắc Kinh dao động giữa những
thời điểm khoan dung tiếp theo bằng sự kiểm soát và đàn áp tàn nhẫn. Sự tàn bạo đặc biệt tệ hại ở những vùng Kham
và Amdo. Trung Cộng xâm chiếm năm 1949 –
50. Từ 1956 về sau đã có một sự đàn áp
quân sự và gia tăng cường độ quan trọng. Hàng nghìn người bị bắt giam, nhiều người bị tra tấn và bị giết. Thế hệ ấy gần như đã qua. Trong những năm 1960 có cuộc Cách Mạng Văn
Hóa như đã thấy một làn sóng trấn áp mới mà trong ấy các tu viện bị tàn phá và
bôi nhọ. Sau cuộc Cách Mạng Văn Hóa – mọi
thứ đã trở nên tương đối khá hơn một chút.
Hồ Diệu Bang thực
hiện một chính sách mềm dẽo. Suy nghĩ của
ông ta thực tiển hơn. Ông thực tế đã xin
lỗi những lỗi lầm quá khứ và ngay cả nói rằng họ muốn giảm thiểu dân số người
Hán ở Tây Tạng. Tuy nhiên trong giữa những
năm 1980, ông Hồ Diệu Bang bị thất sủng. Chen Kuiyan một Bí thư Đảng Ủy cứng rắn
đã đến khu tự trị Tây Tạng và một cuộc bán cách mạng văn hóa đã được bắt đầu. Điều này gieo hạt giống cho khủng hoảng năm
2008. Rồi thì đến một bí thư khác Zang
Qingli. Ông này tàn bạo và công khai đề
cập rằng, “những ai cần bị bắt và bỏ tù sẽ bị bỏ tù. Những ai cần giết, sẽ bị giết.” Họ đã giết hại một cách tàn nhẫn những người
tị nạn cố gắng vượt thoát đến Ấn Độ và Nepal. Một nhà leo núi người Romani đã quay cảnh lính biên phòng Trung Cộng bắn
người tị nạn không vũ khí. Việc học tập
những kinh luận cổ truyền của Tây Tạng bị cấm chỉ, chi những sách phiên dịch từ
sách vở Trung Hoa mới được đọc. Việc học
tập chính trị trong những tu viện và ni viện được tăng cường. Người ta được bảo phê phán Đạt Lai Lạt
Ma. Người dân bị thúc ép để đặt hình ảnh
của Mao lên bàn thờ của họ. Người ta bị
yêu cầu yêu mến một đảng phái đã và đang tiêu diệt tôn giáo của họ – Giáo pháp
của họ. Chỉ cán bộ nhà nước có thể áp đặt
những nghị định cấm chỉ học sinh và những thẻ chính thức thăm viếng đền
chùa. Điều này đã phát sinh phẩn nộ dữ dội
và bùng nổ khủng hoảng 2008. Việc đàn
áp đã gia tăng cường độ. Những lãnh đạo
người Hoa địa phương đã đưa các phóng viên đến Tu viện. Những chùa viện Mahakala theo truyền thống
chưng bày những vũ khí và đao kiếm truyền thống. Những thứ này được đưa ra cho phương tiện truyền
thông như vũ khí đã được sử dụng bởi những người Tây Tạng và được dùng để biện minh cho sự đàn áp và khổ
đau ở Tây Tạng. Đã có một cố gắng có hệ
thống để đè nén văn hóa và ngôn ngữ Tây Tạng.
Ba năm trước đây, một tờ báo chính thức của Trung Cộng đã đề cập rằng việc
học vấn bằng tiếng Tây Tạng nên chỉ được hạn chế với một môn ngôn ngữ; tất cả
những môn khác phải được dạy bằng tiếng Hoa. Các học sinh đã nổi giận và nổ ra những cuộc biểu tình phản kháng. Các nhà giáo và trí thức Tây Tạng đã có những
cuộc nói chuyện với nhà cầm quyền Trung Cộng và đề nghị rằng phải cần có thời
gian và chuẩn bị để chuyển đổi sang chính sách này. Trung Cộng đã thẳng thừng và nói nó sẽ
không được..
Họ thường từ bỏ trong
những tuyên bố chính sách của họ bất cứ khi nào thích hợp với họ. Họ tuyên bố một chính sách đặc thù ở Tây Tạng
nhưng thường làm ngược lại. Họ thường
dùng những phương tiện đa dạng để đàn áp tinh thần vá cá tính Tây Tạng nhưng
đã hoàn toàn thất bại.
Bất cứ khi nào người Tây Tạng là đa số, họ thấy
đấy như những người ly khai. Họ đang đưa
nhiều người Hán di cư đến Tây Tạng. Một
số người Tây Tạng thiển cận đang bán đất đai của họ với giá cao. Người Hoa bây giờ đã vượt hơn người Tạng ở
khu đô thị trung tâm, thí dụ ở Lhasa ngày nay có dân số khoảng 3,00,000
(?). Trong đây gần như hai phần ba là
người Hán. Tình trạng như vậy là tương tự
trong những thị trấn khác nhưu Shigaste, v.v… Chỉ ở vùng thôn quê mới có đa số là người Tạng du mục.
Thật bất hạnh, có một chính sách có hệ thống
loại trừ văn hóa và ngôn ngữ Tây Tạng và xóa sổ đặc tính Tây Tạng. Chúng tôi có văn tự riêng của chúng tôi. Mẫu
tự là Ấn Độ. Cố gắng để xóa bỏ tất cả những
thứ ấy là một vấn đề nghiêm trọng. Quốc
gia cổ xưa của chúng tôi với một nền văn hóa đặc thù đang chết. Nếu những chính sách đàn áp của Trung Cộng tiếp
tục, thì nó sẽ thật sự là một vấn đề nghiêm trọng. Người Tạng là môn nhân của những đạo sư Ấn.
Một cách tự nhiên trong quá khứ, mặc dù những
khó khăn về độ cao và khí hậu, hàng nghìn người Tạng từ Tây Tạng đã thường sang
Ấn Độ đề hành hương. Không có ai đã đi đến
Trung Hoa. Một cách tinh thần, tâm linh
và cảm xúc người Tây Tạng gần gũi với Ấn Độ nhiều hơn. Bạn có thể nói rằng dân tộc Tây Tạng, trong
thực tế, là sự phòng vệ hàng đầu của Ấn Độ.
Hoàn toàn hợp lý để thực hiện những
nổ lực để bảo tồn nền văn hóa hòa bình ,
từ bi, và bất bạo động của chúng tôi. Ngay cả Trung Hoa ngày nay cũng cần nền văn hóa hòa bình và bất bạo động
của chúng tôi. Theo một cuộc thăm dò có
khoảng ba trăm triệu người Trung Hoa là Phật tử. Trong số này có khoảng nửa triệu là Phật tử
Tây Tạng. Một số người Phật tử Trung
Hoa đã hỏi tôi về khái niệm Pháp Vương (Dharma
Raja). Phật tử khắp nơi phải nghiên cứu
về những phẩm chất của một vị Pháp Vương và thẩm tra xem những ai tự xưng là
Pháp Vương có đủ điều kiện không. Bất hạnh
thay, Phật tử ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và những quốc gia khác trì tụng
kinh điển mà không biết ý nghĩa. Hình thức
thuần khiết của Đạo Phật Na Lan Đà đã chỉ được bảo tồn ở Tây Tạng. Sự bảo tồn nền văn hóa này không chỉ quan trọng
đối với sáu triệu người Tây Tạng mà cũng cho những người ở Ấn Độ và toàn thể thế
giới.
Ấn
Độ là một quốc gia dân chủ đông dân nhất thế giới. Ấn Độ sau khi độc lập là một quốc gia ổn định
nhất. Hãy xem truyền thống tư tưởng tâm
linh và triết lý phong phú của nó,v.v… Ấn Độ đã thích nghi rất tốt đẹp với dân chủ, pháp trị và tự do ngôn luận. Sự hòa hiệp tôn giáo là một truyền thống cổ
xưa của đất nước này. Điều này quan trọng
rất nhiều với thế giới ngày nay. Hiện
nay có nhiều xung đột nhân danh tôn giáo. Truyền thống hòa hiệp tôn giáo hàng nghìn năm của Ấn Độ là rất cần đến.
DSA: Tây Tạng là tháp nước của Á châu. Từ đây Trung Hoa kiểm soát lưu lượng của tất
cả những con sông quan trọng của Á châu – một cách đặc biệt những con sông chảy
ra phía Nam và Đông Nam Á châu. Ngài có
cảm thấy Trung Cộng đã xâm chiếm Tây Tạng bị thúc đẩy bởi tham vọng này để nắm
chặc vùng đất cao của Á châu và do thế kiểm soát dòng nước của Á châu
không? Ngài có cảm thấy Trung Cộng sẽ
thay đổi dòng chảy của sông Brahmaputra không? Chính phủ lưu vong Tây Tạng có bất cứ tin tức cụ thể nào về chương trình
của Bắc Kinh đối với việc này không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Trong năm 1961, Altakin, thành viên của Phong
Trào Đông Turkistan Độc Lập đã đến Ấn Độ tham dự cuộc gặp gở Á – Phi đã được khởi
đầu bởi Jai Prakash Narain[1]. Ông đã gặp tôi sau đó và nói với tôi về những
chương trình của Bắc Kinh về việc thay đổi dòng chảy của sông Brahmaputra,
trong cái nhìn về sự khan hiếm nước nghiêm trọng ở Bắc Trung Hoa. Vào
lúc ấy tôi nghĩ sự tiên đoán của ông ta là phóng đại. Tuy nhiên, bây giờ trong những năm gần đây, sự
cảnh báo của ông ta dường như đang biến thành sự thật. Bắc Kinh đang khai thác những tài nguyên
phong phú ở Tây Tạng đến tận đáy. Việc
xây dựng đường sắt Gormo-Lhasa phục vụ để nhấn mạnh sự khai thác kinh tế ở Tây
Tạng. Mục tiêu không chỉ kinh tế, nó là
chính trị và quân sự trong bản chất.
Ôn
Gia Bảo đã nói mới đây trên đài BBC và tôi trích, “Không có sự cải tổ
chính trị thì không thể tiếp tục đổi mới kinh tế và đạt được sự gia tăng những
gì chúng ta đã làm được thì chúng ta có thể thất bại. Không có sự cải tổ thảm họa Cách Mạng Văn Hóa
có thể xảy ra trở lại. Cải tổ phải tiến
về phía trước. Dừng lại hay trở lại là
vô ích.” Vì vậy Thủ Tướng Trung Hoa
và một số nhà trí thức đã cảm thấy rằng Trung Hoa cần cởi mở hơn.
tác: Exclusive Interview with His Holiness The Dalai Lama Ẩn
Tâm Lộ ngày 14-4-2012 http://www.dsalert.org/tibet-chinese-bridgehead-or-vulnerability/360-interview-with-his-holiness-the-dalai-lama
[1] Jayaprakash
Narayan (11 October 1902 – 8 October 1979), được biết rộng rãi như JP
Narayan, Jayaprakash, hay Loknayak, là một nhà hoạt động
cho độc lập và lãnh tụ chính trị của Ấn Độ, được nhớ đến như lãnh đạo đối lập với
nữ cố thủ tướng indira Gandhi trong những năm 1970 và cho việc kêu gọi một cuộc
Cách Mạng Toàn Diện hòa bình.
Discussion about this post