CÔ THÂN VẠN LÝ DU …
Tâm Dũng
Tâm Tình
Dẩn nhập
Cuộc đời ngày càng phức tạp, học Phật cũng như thế.
Người học Phật ngày nay, trong thời buổi kinh tế thị trường,
trăm hoa đua nở, tài liệu, kinh điển Phật Pháp, phương tiện thông tin đầy đủ và
hữu hiệu, nên việc tìm hiểu, thực hành giáo Pháp,nếu muốn, thì sẽ quá dể dàng.
Nhưng mà, cuộc đời trớ trêu thay, đất màu mở thì nhiều cỏ, lắm hoa thì nhiều sâu,
thế nên,cũng chính vì sự phong phú đó, mà pháp Phật ngày nay, người học không
khéo, không cẩn thận sẽ dể dàng lạc hướng trong rừng ngôn ngữ,đa dạng và phức tạp,trừu
tượng và mơ hồ,nhằm diển tả thực tại mà lại xa rời thực tại và càng ngày càng ô
nhiễm.
Bài viết này chỉ là những dòng“tâm sự”, tâm sự nhưng không
than van, mà“nhẹ nhàng” như tiếng chuông chiều mà thỉnh thoảng ta nghe được văng
vẵng đâu đó trên bước đường học Đạo,để nhắc nhở cho chính mình và chia sẽ với những
người bạn chưa quen, nhưng có cùng chung một “tâm tình”,và nhất là, để thấy rằng,
mình, chúng mình, sẽ không quá “cô đơn” như mình tưởng.
“Nhất bát thiên gia
phạn
Cô thân vạn lý du …”
Hai câu đó mở đầu cho cuộc đời khất
sỉ, từ đó, cuộc sống bình thường, thay đổi, mở ra một ngả rẻ có chọn lựa và quyết
định. Ta thử nhớ lại cảnh tượng người trai trẻ Tất Đạt Đa, một đêm, đã nhẹ nhàng,
vén màn, nhìn vợ, hôn con, lần cuối, rồi lặng lẻ ra đi, một mình, trơ trọi,hành
trang vỏn vẹn chỉ có“khối nghi tình” thôi thúc mạnh mẽ, để từ đó băng mình trên
con đường … “cô thân vạn lý du” để tìm
cầu giải đáp.
Cuộc ra đi dấn thân nào cũng nhiều
đắn đo trăn trở, và “hào hùng” nước mắt, ngày xưa cũng như ngày nay,cùng là sự ra
đi, nhưng mức độ giá trị sẽ tùy thuộc ở sự chọn lựa, tự nguyện hay do hoàn cảnh
bức bách, vì chính điều đó sẽ là nhân tố quyết định cho thành quả sau này.
Người tu học Phật mình nên suy nghĩ
nhiều về nguyên nhân “ra đi” cũa người trai trẻ đó, hãy suy nghĩ thật nhiều và
hãy “hành thâm” về điều đó, nó sẽ giúp cho mình rất nhiều trên con đường … “vạn
lý du” cũa mình. Hãy chính mình suy tư về
điều đó, chính mình, không dựa vào bất cứ ai khác, không căn cứ trên những mẩu
chuyện thần thoại truyền thuyết nào cả, vì nó, phần lớn, đã thần thánh hóa và tô
điểm màu mè làm nhòe đi hình ảnh“ra đi” bi tráng đó, và như thếs ẽ làm cho mình
mù mờ không hiểu được đâu là sự thật,đâu là nguyên do chính yếu, mạnh mẽ đến độ
có thể thúc đẩy một hoàng tử buông bỏ tất cả để dấn thân vào con đường tầm đạo
gian khổ.
Lên non tìm hạt Bồ Đề
Ngày nay, cũng có rất nhiều người,
có già có trẻ, nam hay nữ, một mình hay hai mình, cùng “rủ nhau”đi theo bước chân tầm đạo cũa
người xưa, sự “ra đi” tuy không “âm thầm” và “bi tráng” như thế, nhưng, dù sao
cũng dáng dấp đáng “yêu” và đáng … nghiêng mình kính phục. Những người ngày
nay, như Thiện Bửu, Ngọc hiền, Chơn Minh, Tâm Khiết; những John Doe, Jane Roe;
những Jean Pierre, những Joe, Jannete,… họ ở cùng khắp, đã lần lượt … bỏ
trường bỏ sở bỏ người yêu mà “ra đi”, họ tìm đến những nơi xa xôi, mà địa danh nay
trở thành quen thuộc: Dharamshala, Wat Pah Nanachat, Tassajara, Ukiah, Village
des pruniers, North Folk, Bonsal, Escondido; Dalat, Long Thành, Suối Tiên, Yên
Tử, Tây Thiên… Các “thiện tài đồng tử” ngày này, dò dẩm, tìm tòi để được đến tận
nơi, gặp gở và học hỏi với những vị Thầy, vị Sư, với những Roshi, Rinpoche, Swami,
những Ajahn, Bhante, Sayadaw … Họ không phải là những người hành hương bình
thường theo chân một vài vị Thầy đi đây đi đó, thăm viếng những di tích hoang tàn
còn sót lại, những người này, đi đến và ở lại, và nếu may mắn(…cũng có thể là
không may mắn),họ sẽ được thay tên đổi họ,sẽ có những danh xưng rất “ngoại”, mà
khi tiếp xúc,người ta sẽ không biết … ai là ai,họ là người nước nào, nam hay
nữ, chẳng hạn như có người với cái pháp hiệu rất là Ấn Độ mà khi biết ra thì lại
là chàng Gary cao bồi Texas! hay khi nghe cái tên cũa một người rất là Việt và Nam,
mà thực ra lại là dân “phớt tỉnh ăng lê” và rất là nữ! đại khái là như thế. Về
hình tướng thì chiếc áo màu lam cư sỉ ngày nào nay sẽ đổi thành các áo choàng màu
nâu, màu vàng, màu đen Nhật Bản, hay màu huyết dụ Tây Tạng…tùy theo trường phái
tu tập, mà sau những tháng ngày “thử thách”, họ đã tìm được nơi an ổn, tạm thời
hay dài hạn,với niềm hy vọng nơi đó sẽ có thể đáp ứng được những thao thức tìm
cầu của mình. Nhưng phần lớn, thì không được “may mắn” như vậy,và sau những đêm
dài “trăn trở”, họ lại phải “từ giả và ra đi”, nhiều lần và nhiều lần như thế nữa,
… nhưng chắc chắn là không hơn con số 55 lần cũa Thiện Tài Đồng Tử ngày xưa!
Sự hăm hở ban đầu, nguyên nhân thúc
đẩy “ra đi” đó, dù cao quý hay bình thường thì cũng là điều đáng ca ngợi và khuyến
khích. Nhưng không phải ai cũng có thể thẳng tiến “phăng phăng” trên đường đạo,hoàn
cảnh, nơi chốn, bạn bè “đồng tu”, những khó khăn về “kỷ thuật”, phương pháp tu
tập, cách thức hành đạo, và … mục tiêu “phật sự”… sẽ là những nhân tố đưa đến
cho sự “từ giả và ra đi” đó. Nhưng điều này cũng nên “an ủi”(!)vì đó làmột “diển
biến bình thường” mà chính Đức Phật cũng đã trải qua. Thời nào cũng thế và lúc
nào cũng vậy.
Thử nhìn lại cái “vòng luân hồi” cũa
… ra đi, ở lại, từ giả rồi lại ra đi, thì người ta thấy rằng, thực ra, rất khó
mà biết được ai là người “may mắn” và ai là người “kém may mắn”. Câu chuyện khúc
gổ và dòng sông trong kinh Phật cho biết: khúc gổ mà không bị người vớt, không
tấp bờ bên này bên kia, không mục nát … thì nó sẽ “trôi thẳng băng” ra đại dương.
Nhưng “tình thế” sẽ không đơn giản như vậy, trong thực tế, người ta cũng có thể
hiểu được rằng, sự “ở lại” có thể là “tấp bờ”, dù là bờ bên này (chánh) hay bờ
bên kia (tà), khi đó, khúc gổ đó có khi sẽ trở thành hữu ích, nhưng cũng có thể
nó sẽ mục nát vì sâu bọ, tiền tài, danh
lợi, sự nghiệp, chức vị … Nhưng mà, than ôi, người từ giã “vứt áo ra đi” thì
cơ hội cũng không hay ho gì, họ rất dể dàng bị “vớt gọn”! Thấy thế,người “đồng
tu”mình, cách tốt nhất sẽ là“nín thinh”, lặng mình trong“im lặng sấm sét”! Vì rằng
những cái lắc đầu chán nản hay chê bai, kinh rẻ đều là quá đáng.
“Mở ra tam tạng kinh
Ta ngồi đọc một mình
Trăng sao soi từng chử
Giữa đất trời lặng thinh.” (1)
Từ ngữ“một mình” có nhiều nghĩa, về
mặt hình tướng thì là một thân một mình, cô thân độc mã, trơ trọi, là lang thang,
“homeless”, thân “vô sở trụ”…; nhưng thực ra “tình thế” cũng không đến đổi “cô
đơn” và “tệ” như vậy, dù sao, một mình nhưng chung quanh cũng còn có …trăng
sao và trời đất, và nhất là tự do! Nhưng, “một mình” ở đây, quan trọng hơn, nó
có ý nghĩa nặng về mặt tâm lý, đó là sự buông bỏ, một trạng thái không còn bám víu
vào một thứ gì khác.
Trong kinh có nói: buông! buông!
buông cho đến không còn gì để buông, buông cho đến không còn cả … “người buông”
và “cái để buông”, thì khi đó là“xả” là “không”, là “vô nhất vật”, là …“không
là gì ráo” !“ Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng
tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới …” (2), là người
trong tâm sẽ không còn vương víu những bóng dáng thấm thoát của một thời quá khứ
“hào hùng” ngày nào, và giờ đây, trong lòng cũng không còn “ôm ấp” những “mộng tưởng Niết Bàn”, những “lý tưởng
cao đẹp” nào để theo đuổi, mong cầu đạt đến trong tương lai.
Trong Majjhima Nikaya, khi có người
thỉnh cầu Đức Phật tóm tắt toàn bộ giáo
pháp của Ngài ngắn gọn trong một câu, thì Ngài nói: “Sabbe dhamma nalam abhinivesaya
-Nothing whatsoever should be clung to- không bám víu vào bất cứ điều gì”. Và
Ngài còn nhấn mạnh rằng, bất cứ ai, hể nghe được câu nói đó sẽ là người đã nghe được toàn bộ giáo pháp; bất cứ
ai hể đem câu nói đó ra thực hành thì là đã thực hành toàn bộ giáp pháp; và bất
cứ ai, hể có được thành quả do thực hành câu nói đó, thì là đã đạt được thành
quả của toàn bộ Phật pháp. (3)
“Trụ”, an định trong một trạng thái,
dù an lạc thực sự hay ảo tưởng, cũng có thể là “vùng nước đọng”; tôn sùng, “thần
thánh hóa” một vị Thầy, dù đã giác ngộ hay nghĩ là giác ngộ, sẽ là một bám víu;
cố chấp vào một pháp môn đã là sự vướng
mắc; tinh tấn hành trì một phương pháp tu tập, ngày qua ngày cũng dể trở thành
máy móc và đưa đến nhàm chán … và với
“ý chí cố gắng khắc phục” vượt thắng nhàm chán đó, thì kết quả lại làm cho tâm
tánh dể dàng trở nên không còn linh hoạt nhạy cảm, thờ ơ lãnh đạm trước hạnh phúc
khổ đau của người khác, nhưng quan trọng hơn hết, nó sẽ làm lớn mạnh thêm bản
ngã, vì sẽ rất hãnh diện rằng, “TA” đã thắng được “ta”! Điều này thật là “nguy
hiểm! Phương cách hành trì tu tập nhằm “đối trị”, “diệt trừ”, đã “phân ranh” năng
và sở, là “đối đãi” là không phải “pháp môn bất nhị”, và đối với người trong cuộc,
nó là một trường chiến đấu gian khổ, mà kết quả sẽ là, dù thành công hay thất bại,
thì… “ta vẫn là ta cũa thuở nào”, con đường vạn lý cứ thế quanh quẩn quẩn quanh!
Thế mới hay, sự “ra đi” đã khó, nhưng
buông bỏ còn khó hơn nhiều, vì ra đi, dù sao cũng còn có chổ để quay về, “con đường
sạn đạo” năm xưa còn chưa đứt, dùrằng sự trở về đó có đôi chút ngậm ngùi như người
chiến binh thất bại, và có thơ rằng: “Ta
về một bóng trên đường lớn, thơ chẳng ai đề vạt áo phai…” (4), trong khi đó, buông ra là mất, mất tiêu! Không
còn manh giáp, không bao giờ còn dịp lấy lại, nên rỏ ràng là sợ hải. Người tu mà
“quẳng kinh cởi áo cà sa”, thì có nước là …“hóa làm ngọn gió thổi qua ba đào”
(5). Buông bỏ khiến mình chơi vơi không còn chỗ bám víu, buông bỏ một hình tướng,
một sỡ hữu, tiền tài, danh lợi, sự nghiệp,
buông bỏ một quan điểm, một cơ sở lý luận, một thói quen ngàn đời…là điều mà
ai cũng phải hãi hùng. Trong khi đó bám víu thì an ổn, sự nương tựa nào cũng cho
ta một cảm giác ấm áp và an lòng, sự “kiên trì tinh tấn” với ý chí cố chấp không
hề lay chuyển khiến lòng cảm thấy chắn chắc, vững vàng … và như thế cứ tưởng
là mình đang đi … đúng pháp,nhưng mà than ôi, nào hay…!
Ôi, trớ trêu thay cuộc đời, “có”
không được mà “không” lại càng không được, cái “không được gì” là cái “có được”
cũa người tu. Nhưng có người lại hỏi, làm sao mà “có được” cái “không được gì” đó? thì ra cũng … lại càng “không có được” cái
gì cả! Có như thế mới là “khổ đế” chứ!
Cẩn trọng
Tâm Dũng
Chú thích:
1. “Tụng Kinh”, Thơ Huyền Không, Thích
Mãn Giác.
2. http://langmai.org/tang-kinh-cac/kinh-van/kinh-van/kinh-nguoi-biet-song-mot-minh
3. ‘Heart-wood from the Bo Tree’ by
Buddhadasa, page 8-9.
4. “Ta Về”, Thơ Tô Thùy Yên.
5. xin lổi, không nhớ là thơ cũa Thầy nào.
Discussion about this post