CHUYỆN TÌNH GIỮA HÒA-THƯỢNG LIÊN-HOA
VÀ CÔNG-CHÚA LONG-THÀNH CÓ THẬT CHĂNG ?
Tôi được một anh bạn cho một bài nói về chuyện yêu đương của Công Chúa Long-Thành đối với Thiền Sư Liên-Hoa. Chuyện thực, hư thế nào không biết, có điều là tác giả bài viết, viết không rõ ràng, làm người đọc có thể lầm lẫn giữa Công Chúa Long-Thành Ngọc-Tú và Công Chúa Bảo-Lộc Ngọc-Anh. Tôi có đưa ý kiến đó cho anh bạn tôi, và được anh bạn tôi cho biết là nhiều người bạn khác cũng có ý kiến đó, và anh biết tôi có đôi chút tài liệu nói về hai Công Chúa Long-Thành và Bảo-Lộc, nên đề nghị tôi tra cứu lại các tài liệu, hầu làm rõ sự phân biệt giữa hai vị Công Chúa.
“Chuyện tình đẹp bi thương – Chuyện Công chúa triều Nguyễn yêu đơn phương một nhà sư “.
” Chuyện nàng Công chúa triều Nguyễn là Hoàng nữ đệ tam Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh yêu đơn phương một vị nhà sư – thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt – sau được phong là Quốc sư – đã để lại nhiều huyền tích khiến người đời vừa xúc động cảm thương nàng công chúa, vừa bội phục một vị chân tu đắc đạo…
Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung. Trong số đệ tử này có một vị Hoàng cô Nguyễn Thị Ngọc Anh, đó là Thái trưởng công chúa Long Thành, chị ruột chúa Nguyễn Phúc Ánh, cô ruột của vua Minh Mạng. Hoàng cô cũng quy y và thọ Bồ Tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Trong những ngày theo học đạo, Hoàng Cô đã thầm yêu nhà sư. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng cũng như đức độ của Thiền sư nên Hoàng Cô đã có ý định và tìm mọi cách ràng buộc duyên trần cùng với người con của Phật…
Tưởng rằng khi ôm hôn được bàn tay của Thiền sư thì mọi chuyện sẽ lắng xuống. Nhưng không ngờ, ngay đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của Thiền sư phát hỏa, mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện :
“THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn (dấu hỏi) đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình (dấu huyền) vui đạo mấy lần”.
Thiền sư Liên Hoa biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh nên đã dùng ngọn lửa để thức tỉnh và giáo hóa Hoàng Cô.
Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp, nên ngọn lửa ấy đã không đạt được kết quả như mong muốn. Sau khi làm lễ cúng thất tuần Hòa thượng Liên Hoa xong, Hoàng Cô rất buồn bã và cho biết rằng bà sẽ ở lại chùa Đại giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng ngay ngày hôm sau, Hoàng Cô uống độc dược quyên sinh tại hậu liêu chùa Đại giác nhằm ngày mồng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823).
Để cố gắng làm sáng tỏ, chuyện ” Tình ” trên, tôi xin chia bài nầy theo các mục như sau :
– Phân biệt rõ ràng hai vị Công-Chúa Long-Thành Nguyễn-Phước Ngọc-Tú và Công-Chúa Bảo-Lộc Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
– Chuyện của Hòa-Thượng Liên-Hoa trong cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
– Cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng của Thích Như Điển.
– Chánh sử (Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Chánh Biên – ĐNTLCB, Đại Nam Liệt Truyện – ĐNLT), Khâm Định Đại Nam Điển Lễ Sự Lệ – KĐĐNĐLSL, Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả – NPTTP, cùng những tài liệu lấy ở Bulletin des Amis du Vieux Huế – BAVH.
– Vài sự kiện lịch sử.
I – Công-Chúa Long-Thanh Nguyễn-Phước Ngọc-Tú và Công-Chúa Bảo-Lộc Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
1) Công Chúa Long-Thành, húy Nguyễn-Phước Ngọc-Tú.
Bà là trưởng nữ của Hưng Tổ (Nguyễn-Phước Luân), chị cùng mẹ với Thế Tổ (Nguyễn-Phước Ánh), sinh năm Kỷ-Mão (1759). Chồng là Cai Cơ Lê Phúc Điển. Năm Quý-Mão (1783), khi đánh nhau với quân Tây Sơn ở đảo Diệp Thạch, Phúc Điển bị địch bắt và bị giết.
Khi chồng mất, Bà còn trẻ tuổi, giữ tiết. Bà từng bảo rằng ” Điển làm bầy tôi biết giữ nghĩa mà chết, ta là vợ há đổi tiết sao, khi nào lấy lại Kinh Đô cũ ta sẽ xuất gia thờ Phật “.
Đầu đời Gia-Long, Thế-Tổ làm nhà tại làng Dương Xuân (Thừa-Thiên) cho Bà ở. Bà thường xin cắt tóc đi tu, nhưng Thế-Tổ không vui.
Bà mất vào tháng 11 năm Quý-Mùi (1823), thọ 65 tuổi.
Vì Bà vô tự, nên Thường-Tín Công Nguyễn-Phước Cự, con của Thế-Tổ, trông coi việc thừa tự.
2) Công-Chúa Bảo-Lộc húy Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
Bà là con gái thứ ba của Thế-Tổ. Bà sinh năm Canh-Tuất (1790). Năm Mậu-Thìn (1808), Bà lấy chồng là Vệ-Uý Trương Phúc Đặng, con trai của Cai-Cơ Trương Phúc Tuấn. Năm Đinh-Hợi (1827), Phúc Đặng vì bắt người trái phép, bị cách chức nghị tội, Đặng sợ, tự tử mà chết. Về sau được khai phục lại nguyên hàm.
Bà mất năm Canh-Tuất (1850), thọ 61 tuổi.
II – Cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
1) Tác giả.
2) Cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong – LSPGĐT.
Cuốn nầy gồm 2 tập, tập I có 386 trang, tập II có 490 trang, tổng cọng (cộng) 876 trang, in năm 1995 do nhà Xuất Bản Thành Phố HồChíMinh ấn hành. Là một tài liệu nghiên cứu về Phật Giáo Đàng Trong khá công phu. Sách có cho 31 tài liệu tham khảo và trích dẫn (22 bằng chữ Việt, 9 bằng chữ Hán). Trong những trang viết thì đôi khi có dẫn chứng các tài liệu, đôi khi có ghi chú ở phần cuối trang, như khi bàn về ngày sinh và ngày mất của Tổ Nguyên-Thiều (trang 101, tập I), hay là bàn về chuyện của Tổ Mật-Hoàng làm Tăng-Cang ở chùa Thiên Mụ (trang 260, tập I) …
Tôi không đọc hết cả cuốn nầy, mà chỉ đọc những đoạn nói về Hòa Thượng Liên-Hoa hay Thiền Sư Thiệt-Thành – Liễu-Đạt, cùng các chùa Thiên Mụ, Quốc Ân (Huế), Từ Ân, Khải Tường (Sàigòn), Đại Giác (Biên Hòa).
“ Khoảng những năm 1789, trước khi xây xong thành Gia Định, Nguyễn Vương và triều thần tạm trú tại chùa Từ Ân; Thái Hậu, Vương Phi, Công Chúa tạm trú tại chùa Khải Tường do Hòa Thượng Liên-Hoa làm thủ tọa (2), và Thái Trưởng Công-Chúa Long-Thành đã thọ giới với Hòa Thượng.
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần,
THÀNH không vẩn (dấu hỏi) đục vẫn trong ngần.
LIÊU (thiếu dấu ngã chăng ?) tri mộng huyễn chơn như huyễn,
ĐẠT đạo minh (không dấu) vui đạo mấy lần.
a) Nguyễn Hiền Đức đã khai thác tài liệu thiếu chính xác.
Tôi đã rà cả 4 tập Bulletin des Amis du Vieux Huê, của năm 1915 mà không thấy nói về chuyện đó. Tôi cho rằng tác giả viết lầm năm, hoặc năm bị in sai, tôi mới tìm trong Index analytique et Résumé des matières (Bảng tra phân tích và mục lục) của BAVH, năm 1924, thì không thấy có những tên Ngọc-Anh, Bảo-Lộc, Đại Giác (có chữ Đại Giác nói về điện thờ Phật ở chùa Diệu Đế, chứ không nói đến chùa Đại Giác ở Biên Hòa), nhưng có thấy những tên Bổn Giác ở BAVH, 1915, tập 3 (Juillet-Septembre), trang 315-316; Mật-Hoàng ở BAVH, 1915, tập 2 (Avril-Juin), trang 186 và tập 3, trang 311-314; Liên-Hoa ở BAVH, 1915, tập 3, trang 309, 310; Long-Thành ở BAVH, 1915, tập 3, trang 308, 309, và ở BAVH, 1915, tập 4 (Octobre-Décembre), trang 341-348; Ngọc-Tú cũng ở BAVH, 1915, tập 3, trang 308, và ở BAVH, 1915, tâp 4, trang 341-348.
Sau nầy Hòa Thượng Hải-Tịnh được phục hồi chức Tăng Căng vào năm nào, thì tôi không rõ, nhưng theo Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1993), Tập 8, trang 201, thì ” Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), chuẩu lời tâu : Tăng Cang chùa Giác Hoàng là Nguyễn Tâm Đoan (Hòa Thượng Hải-Tịnh) chuẩn chiếu như lệ Nguyễn Nhất-Định (Hòa Thượng Nhất-Định), tháng cấp 3 quan tiền, 1 phương gạo…”.
– Ngoài ra về chuyện Hiệp Đức Hầu Nguyễn-Phước Thuần trong LSPGĐT (Tập II, trang 128-129) cũng bị Trần Đình Sơn phản bác như sau :
” Điều rất đáng ngạc nhiên là trong sách Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong ( LSPGĐT ), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiền Đức công bố sự việc cuối đời Hiệp Đức Hầu, hoàn toàn khác hẳn với sử sách xưa nay… Phát hiện mới lạ trên , không biết tác giả căn cứ theo truyền thuyết nhân gian, ( Bản thảo : lược sử chùa Sắc tứ Minh Thiện của giáo thọ Huệ Đăng, biên soạn năm Mậu Thìn 1988 ) hay có cứ liệu xác thực chứng minh ? Nên nhớ, Hiệp Đức Hầu đối với Hoàng tô?c Nguyễn là một vị thân vương danh tiếng. Võ công của ông được xếp vào thượng đẳng thời các chúa, khi ông mất, Hiền Vương ( cha ) đã làm quốc tang theo tước Công. Dòng dõi của ông hiển đạt cho đến cận đại. Nếu sự kiện cuối đời của ông ” xuất gia – viên tịch ” như trong LSPGĐT viết, có lẽ nào quốc sử lẫn tộc phổ chẳng ghi lại một dòng để cho đời sau hay biết. [Nguồn : giaodiemonline] “. [LSPGĐT nói Ông đã lập chùa Minh Thiện ở Khánh Hòa, và sau đó an nhiên viên tịch… và được nhập tháp trong khuôn viên chùa nầy…].
b) Một số tài liệu quan trọng mà Nguyễn Hiền Đức dùng.
c) Bài kệ (xem hàng gạch dưới ở (3), phần trên).
d) Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó cũng trên 60 tuổi (xem hàng gạch dưới ở (4) phần trên).
e) An táng Hoàng Cô (xem hàng gạch dưới ở (5), phần trên).
Còn nếu lấy giả thuyết là đưa Linh-Cữu của Hoàng Cô từ Biên Hòa về táng ở Thuận Hóa thì, đi đường bộ hay đường thủy, lúc bấy giờ, cũng phải mất hơn một tháng, như thế làm sao an táng Hoàng Cô tại Đình Môn, cho kịp trong tháng 11 năm Quý Mùi như ĐNTLCB đã cho ?
g) Xào xáo trong chùa… trở lại bình thường (xem gạch dưới (6) ở phần trên)
h) Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành (xem phần gạch dưới (1) ở phần trên).
LSPGĐT không cho biết những chữ được viết trên Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa (thật đáng tiếc !), mà chỉ cho biết những chữ được viết trên Thần Vị của Công Chúa Long-Thành như sau : ” Thích môn hộ giáo, Hoàng Cô thọ bồ tác giới, pháp danh Tế-Minh, tự Thiên-Nhựt, chi vị “. Có lẽ ngày mất của Công Chúa mà LSPGĐT cho đã lấy ở trên Thần Vị nầy.
Vì ăn trầu, cau với vôi, nước miếng hóa ra đỏ là một chuyện ” lạ ” (thật ra, đây chỉ là một phản ứng hóa học), rồi bà con mình cố gắng giải thích, từ đó ta đã có những chuyện ” Trầu Cau ” (có nhiều bản khác nhau), và rồi có những câu ca dao rất thơ mộng như :
” Có trầu mà chẳng có cau,
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.”.
Có nhiều tảng đá có hình giống như một thiếu phụ bồng con. Bà con mình cũng lấy làm ” lạ “, rồi đặt ra những chuyện ” Vọng Phu ” (có nhiều bản khác nhau), và rồi cũng có những câu thơ trữ tình như :
” Thương ai tấc dạ vàng son,
Bế con lên đứng đầu non đợi chồng.
Trăm năm vẹn chữ tâm đồng,
i) Tạm kết luận.
4) Cuốn Thiền Sư Việt Nam của Thích Thanh Từ.
Trong cuốn nầy, tác giả tự nhận là về phần Thiền Sư Thiệt-Thành – Liễu-Đạt – Liên-Hoa, tác giả đã trích trọn ở cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức. Thật thế, ở phần nầy, trong sách Thiền Sư Việt Nam, mỗi chữ, mỗi câu đều giống hệt trong cuốn LSPGĐT.
III – Cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng của Thích Như Điển.
1) Tác giả.
Như đã trình ở trên, tôi chỉ đọc thoáng qua cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên-Hoa Hòa Thượng – CTLHHT, (Nhà Xuất Bản Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, 2011), chẳng những đọc thoáng qua, mà có hàng trăm trang, tôi cũng không đọc đến.
3) Ý kiến của tôi.
Trước hết để tránh sự hiểu lầm, tôi xin trình là tôi đã quy y, tôi là một phật tử, một phật tử nhỏ bé, nghĩa là tôi không biết nhiều về Phật Pháp, Kinh Điển, chứ đừng nói gì về các giới luật mà chư tăng, chư ni phải giữ ở chốn thiền môn.
Tôi không biết trong lúc ” tịnh tu, nhập thất “, chư tăng, chư ni phải tu học, hay để thì giờ viết tiểu thuyết ?
a) Sự thật 98 %.
98 % không phải là 100 %, nghĩa là chuyện không có thật, mà đã không có thật thì 98 % hay 50 % hay 0 % cũng như nhau. Thế mà ở chương 11, ông Như Điên khẳng định ” Câu chuyện thật về Hòa Thượng Liên Hoa ” !
b) Thận trọng về phương diện lịch sử.
d) Đã chạm tới thanh danh của chốn Thiền Môn.
– Ngay cả ngày nay, trong một gia đình lễ giáo, con cái không được ” nghe lóm ” (nghe lỏm, nghe lóng) chuyện của cha mẹ, thế mà trong CTLHHT (trang 369) có câu ” Cả 2 chú Mật Đĩnh và Mật Hạnh đều ra chiều đắc ý khi nghe lóm được câu chuyện trao đổi giữa hai vị quan nầy “…
– Tả những chuyện nghe lóm và bàn tán thầm thì về chuyện tình, giữa các chú tiểu ở chốn Thiền Môn (CTLHHT, trong những trang 372 và tiếp theo).
– Dùng những danh từ dung tục, như ” món ngon, vật lạ ” để chỉ cái gì là tình, là yêu (CTLHHT, trang 386) ; ” cả thân dâng hiến ” (CTLHHT, trang 420), và có thể còn nhiều nữa, vì tôi không đọc hết cuốn tiểu thuyết.
e) Chêm thêm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức…, và… dịch sai chữ Hán chăng ?
Như trên, ở phần ” tác giả ” lấy theo thông tin của chùa Viên Giác ở Đức, thì ông Như Điển rất thông thái, rất rành nhiều ngoại ngữ. Nên có lẽ viết tiếng Việt, sợ độc giả chưa hiểu thấu tâm can của ông, nên ông phải chêm thêm ngoại ngữ, như ở trang 622, ” Peaceful Death and Joyful Rebirth (?) ” ; ở trang 222, ” Manger pour vivre et non vivre pour manger (?) ” ; ở trang 145, “Nirvana ist weder Form noch Gestalt.Alle Phänomen* sind unbeständig; alle Phänomen* sind unsicher (?) “…, và tất nhiên có chữ Hán (âm Hán-Việt), chữ Pali, chữ Phạn (latinh hóa),…, rồi để cuối cùng, làm cho những độc giả kém hiểu biết như tôi, về ngoại ngữ và cổ ngữ, phải lầm to, như ở trang 394, hai chữ ” Nhập Thất 入 室 ” ông Như Điển đã giải thích như sau : ” Thất đây có nghĩa là chỗ ở, mà cũng có nghĩa là 7 ngày…” !
f) Đại ngôn. Cao ngạo.
Hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính. Tôi tin ông Như Điển, về đạo đức cũng như về tu học, không bằng hai vị đó, thế mà ông Như Điển đã đại ngôn, cao ngạo :
– Ông bịa đặt chuyện tình, rồi đem chuyện ” Tăng sĩ trẻ với cô lái đò ” để dạy đời Thiền Sư Hòa Thượng Liên-Hoa. (CTLHHT, trang 354)
Để tìm kiếm tài liệu về Hòa Thượng Liên-Hoa trên Internet, tình cờ, tôi thấy bài ” Đại Đường Tây Vực Ký – Phê bình bản dịch của Thích Như Điển – PBĐĐTVK ” của Triệu Minh Di. Bài có 61 trang. [Nguồn : thongtinberlin.de].
h) Tạm kết luận.
IV – Chánh Sử và một vài tài liệu đứng đắn.
1) Theo Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên – ĐNLTCB, Tập 2, Quyển 3 (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1993), trang 65, ghi :
” Long-Thành Công-Chúa Ngọc-Tú : Con gái lớn của Hưng-Tổ, là chị cùng mẹ với Thế-Tổ. Khi biến loạn năm Giáp-Ngọ (1774), theo Hiếu-Khang Hoàng-Hậu, ẩn nấu làng An Du (7). Mùa xuân năm Kỷ-Hợi (1779), theo Hậu vào Gia Định, gả cho Cai Cơ là Lê Phước Điển. Năm Quý-Mão (1783), chiến dịch ở đảo Diệp Thạch, Điển bị giặc bắt được, chửi giặc rồi bị giết chết. Chép rõ ở truyện Điển. Khi ấy Chúa còn trẻ tuổi, giữ tiết không đi lấy chồng nữa. Chúa từng nói rằng : Điển làm bề tôi, biết chụi chết vì tiết nghĩa, ta là vợ há nên biến đổi tiết nghĩa, khi nào lấy lại được Kinh Thành cũ, ta lập tức xuất gia thờ Phật mà thôi. Thế-Tổ khen về chí tiết liệt của Chúa. Buổi đầu năm Gia-Long, Thế-Tổ làm nhà tại xã Dương Xuân để Chúa ở. Chúa thường xin gọt tóc, Thế-Tổ không bằng lòng cho.
Năm Minh-Mạng thứ tư (1823) là năm Quý-Mùi, mùa đông, Chúa mất, thọ 65 tuổi. Trước đây Chúa bệnh nặng, Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế đến thăm, Chúa khóc nói rằng : cắt tóc thờ Phật, đấy là ý muốn lúc bình sinh của vị vong nhân (8) nầy, có chí muốn mà chưa làm được, duy Hoàng Đế làm cho trọn vẹn ý muốn ấy, sau khi chết rồi, chớ có để tóc, liệm bằng áo cà sa, thế là hồn ở dưới chín suối, xong được ý muốn ấy rồi. Thánh-Tổ lấy làm cảm động. Khi Chúa mất rồi, Thánh-Tổ đem lời nói của Chúa bảo Kiến An Công là Đài. Kiến An Công Đài tâu rằng : Thân thể tóc da là của cha mẹ để cho, lúc mới sinh ra trọn vẹn, lúc chết vẫn giữ được trọn vẹn là lễ đấy. Hoàng Đế trị vì thiên hạ nên chuộng đạo chính, truất bỏ dị đoan, lời Chúa xin thế không thể theo được. Thánh-Tổ cho là phải, bèn sai Ông (Đài) cùng Diên Khánh Công Tấn hội đồng với Bộ Lễ sửa việc tang, cấp cho nhiều của (để trị tang). Nghỉ coi chầu năm ngày, sai quan đến tế một đàn, tặng là Long-Thành Thái Trưởng Công Chúa, tên thụy là Trinh-Tĩnh, phụ táng cạnh Lăng Thụy-Thánh (9)… Ngày an táng, Thánh-Tổ nghỉ coi chầu một ngày, mặc áo trắng đi đưa.
2) Theo Bulletin des Amis du Vieux Huê – BAVH, Tập 3 (Juillet-Septembre), 1915, trong bài ” La Pagode Quấc-Ân (10) – Les Divers Supérieurs ” do Linh Mục Léopold Cadière viết, trang 308, 309, ghi :
(10) : [Chú ý chữ ” Quốc “, ở Huế lúc trước, viết Quấc.]
Bài viết bằng tiếng Pháp, tôi cố gắng dịch ra tiếng Việt, và để cho khá trung thành, tôi ghi theo đây những chữ Hán, như nguyên bản :
” Sự trùng tu chùa Quấc-Ân được gắn liền với tên của một vị Công Chúa nhà Nguyễn, Công Chúa Ngọc-Tú 玉 琇 , hay Long-Thành-Công-Chúa 隆 城 公 主 , Bà là con cùng mẹ và là chị cả của vua Gia-Long. Bà đã theo mẹ và cả (toute) triều đình vào Nam, khi Bắc quân (Tonkinois) đến Huế. Bà được gả cho Cai-Cơ Lê-Phúc-Điển 黎 福 日典 (có nơi cho âm Thiển). Ông ta đã chiến đấu dũng cảm với Tây-Sơn, rồi bị bắt và bị giết. Bà mất chồng khi còn trẻ, và không con, Bà không muốn tái giá. Bà hay đi lễ (fréquenter) chùa Từ-Ân 慈 恩 寺 , ở đây Trú Trì (Supérieur, Tọa Chủ, Trú Trì ?) Liên-Hoa 蓮 花 , còn gọi là Thiệt-Thành 寔 誠 hay Liễu-Đạt 了 達 , khuyên (persuader : thuyết phục) nên giữ ” Tam Quy 三 皈 , Ngũ Giới 五 戒 . “.
Vị Sư nầy, quê ở vùng quanh Huế (environs de Hué) chăng ? Ông có tu tại chùa Quấc Ân trong vài năm chăng ? (11) Dầu sao đi nữa thì (Toujours est-il), theo các tài liệu biên niên (annales) còn lưu trữ ở chùa (Quốc-Ân), Hòa Thượng Liên-Hoa có dặn dò Bà, khi nào hoàn cảnh cho phép trở về Huế, thì đừng quên (lo cho ?) chùa Quấc Ân. Bà về Huế khoảng 1801, và mất năm 1823, thọ 65 tuổi.
(11) : [Nếu Hòa Thượng Liên-Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ, thì có lẽ Linh Mục Cadière đã nói ở đây, vì trong bài nầy, tác giả có đề cập tới sự liên hệ mật thiết giữa các Tăng Cang, Trú Trì chùa Thiên Mụ với các Trú Trì chùa Quốc Ân.]
Năm 1805, Bà chỉ định (charger) hai Đại-Sư 大 師 Trí-Hải 智 海 và Chính-Văn 正 聞 xây lại chùa Quấc-Ân, cùng triệu tập một số Tăng Chúng cho chùa. Nhân đó, Bà cúng 300 quan (ligature, xâu tiền, quan tiền ?)… Ngôi chùa mới khá đơn giản. Theo sự đồn miệng, thì đó cũng chỉ là một am-tranh (12) (chữ trong bài viết), nhưng dầu sao, tác phẩm của Ngài Nguyên-Thiều đã được hồi sinh. Vì thế, tên của Trú Trì (Supérieur) Liễu-Đạt và Công Chúa Long-Thành được ghi một cách trịnh trọng (en bonne place) trong sổ ghi danh các vị Sư và các ân nhân của chùa.
(12) : [Am tranh đây chắc là một cách nói để chỉ nơi các Sư tu hành. Số tiền 300 quan là một số tiền khá lớn thời bấy giờ, chắc ngôi chùa mới cũng là một cái am nhỏ, xây bằng gạch, mái lợp ngói, chứ không phải một cái am vách đất, lợp tranh.]
Người ta con giữ lại ở chùa 5 bức chân dung. Các chân dung được đặt ở bàn thờ dành cho các Danh Sư đã tu tại chùa, trong đó có chân dung của Ngài Liễu-Đạt, còn gọi là Liên-Hoa… “.
3) Theo Bulletin des Amis du Vieux Huê – BAVH, Tập 3 (Juillet-Septembre), 1923, trong bài ” Le Tombeau de Gia-Long ” do Linh Mục Léopold Cadière viết, trang 343, 344, ghi :
” … Tẩm của Công Chúa Ngọc-Tú…[bản đồ Lăng Thiên-Thụ, Lăng của Thế-Tổ, số XLVI, ghi Tẩm của Hoàng Cô, chị cả của vua Gia-Long]… khi đến những ngày kỵ (của Hoàng Hậu Hiếu-Khang), thì chủ tế lạy trước bàn thờ của Mẹ vua Gia-Long, rồi quay sang bàn thờ của người con gái (Công Chúa Long-Thành) vái 4 vái. Trong khám thờ (Công Chúa Long-Thành), sau bàn thờ không có Thần-Chủ (tablette funéraire) (13).
(13) : [Thần Chủ được thờ tại Phủ Thường Tín Quận Vương (Nguyễn-Phước Cự), ở làng Xuân-Vinh, huyện Phú-Lộc, Thừa-Thiên. Ở Điện Thoại-Thánh chỉ có Thần Vị của Công Chúa.]
V – Vài sự kiện lịch sử.
1) Trưởng Công Chúa.
2) Thần Vị của Công Chúa thờ ở bàn thờ Tổ ở các chùa.
Bài Vị của Bà Cô Ngoại và của Bà Nội của chúng tôi cũng chỉ được thờ ở bàn thờ bên phải của bàn thờ Tổ, tại chùa Diệu Viên. Ở bàn thờ Tổ, ngoài Tổ Đạt-Ma, thì thờ Long Vị của hai vị Trú Trì của chùa đã mất (vị thứ nhất mất năm 1974, và vị thứ hai mất vào năm nào thì tôi không rõ).
3) Long Vị của Thiền Sư Hòa Thượng Liện-Hoa và Thần Vị của Hoàng Cô ở chùa Từ-Ân.
Như đã trình trên, Thần Vị của Hoàng Cô được thờ ở bàn thờ Tổ tại chùa Từ Ân là một chuyện thường tình, Long Vị của Thiền Sư Hòa Thương Liên-Hoa được thờ ở bàn thờ Tổ cũng là một chuyện thường tình, hợp với phong tục của nước nhà đã có từ lâu, hơn nữa, tuy Công Chúa không xuất gia, vì còn bổn phận của người con gái trưởng độc nhất lo cho mẹ già, nhưng đã có ý định đi tu, đã thụ Bồ Tát Giới, và sau nầy, khi mất đi, Tẩm là một cái Tháp, dành riêng cho các Đại Tăng, Đại Ni. Vậy Công Chúa cũng đưọc xem như là một người đã xuất gia lúc còn tại thế.
4) Lấy một giả thuyết hão huyền.
1) Cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức.
Theo sự phân tích ở phần II về cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong, cùng sự phân tích ở phần IV về Chánh Sử và vài sự kiện lịch sử, cho chúng ta thấy rõ ràng chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa trong cuốn LSPGĐT, là một chuyện không có thật trong lịch sử.
Cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức là một công trình khảo cứu khá công phu, nhưng tác giả đã dẫn chứng những tài liệu không chính xác, đã nghe những tin đồn miệng, đã lấy giả thuyết riêng của mình, để giải thích những sự kiện lịch sử, vì vậy mà giá trị của tác phẩm bị mất đi một phần khá lớn. Thật là đáng tiếc cho cả một công trình khảo cứu !
Có thiếu sót trong một tác phẩm dày 876 trang, là một chuyện thường tình. Nhưng những thiếu sót quan trọng, như chuyện của Hòa Thượng Hải-Tịnh, hay chuyện Hiệp Đức Hầu Nguyễn-Phước Thuần…, và nhất là chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa đã gây rất nhiều tai hại lớn lao, bởi những chuyện ” tình ” đã lấy nguồn ở cuốn LSPGĐT, được đăng tải đầy dẫy trên mạng Internet, trên các sách báo, dính liếu (líu) đến hai nhân vật lịch sử có tiếng tăm.
Tai hại cho thanh danh của Hòa Thượng Liên-Hoa và Công Chúa Long-Thành, hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, mà còn tai hại cho thanh danh của các chốn Thiền Môn và các Tăng, Ni, hiện nay.
2) Bài Người Xuất Gia Đối Với Cha Mẹ Đẻ – NXGĐVCMĐ.
Ngoài ông Như Điển ra, cũng có một số sư, với lời lẽ ôn tồn hơn, trích kinh, dịch sách, giảng giải sự khiêm cung của phật tử, để bào chữa ” tự tôn ” : ” … Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, (kể cả thân quyến của chư tăng ni), thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con, (trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian), để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật dạy…
… Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi, (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu… “.
Đi tu, chắc cũng là một quyết định thanh cao, hàm chứa một lý tưởng hoàn hảo. Đi tu thì tâm hồn được trong sáng, an nhiên; tư thái được bình thản, khoan dung độ lượng, và sau khi chết, theo tín ngưỡng, được đạt cõi Tây Phương.
Nhưng nhũng người ” thường “, ” tại gia “, chắc họ cũng có một lý tưởng thanh cao, một cuộc sống hoàn hảo vậy. Đừng nói gì cho cao xa, nếu tất cả mọi người đều đi tu, và không có những người ” thường “, ” tại gia “, thì làm gì có nhân loại ngày nay !
” Cuộc thành bại, hầu cằn mái tóc. Lớp cùng thông, như đốt buồng gan ” (Nguyễn Gia Thiều). ” Thành ” đây không phải là đậu (đỗ) Tiến Sĩ, làm Bộ Trưởng, thăng Giám Đốc, mà ” Thành, Bại ” đây là chạy ăn từng bữa, cho chính mình, cho gia đình mình, cho giáo dục, tương lai của con cháu mình. Hôm nay có ăn là ” Thành “, không có ăn là ” Bại “.
Chắc chúng ta cũng đồng ý, là một số lớn các Tăng, Ni, hiện nay, được thoát khỏi cảnh ” Thành, Bại, Cùng, Thông ” ghê gớm đó. Phần nhiều các Tăng, Ni đều được phật tử cung phụng, có chùa to cảnh lớn, để tu học. Một số tăng, ni thì mỗi năm ” tịnh tu, nhập thất ” ở mỗi nơi khác nhau. Có năm, thì ở Mỹ, ở Nhật, có năm, thì ở Canada, ở Thái Lan, ở Pháp, ở Ấn Độ, ở Đức, ở Úc… Những sự tu học đó chắc cũng phải đòi hỏi một sự tốn kém công của lớn lao. Ai đã lo cho sự tốn kém đó, nếu không phải là do những người ” thường “, ” tại gia “, đã ” cằn mái tóc “, đã ” nát buồng gan ” !
Đi tu thì được miễn ” dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn ” chăng ?
Còn nói rằng ” thụ nhiều giới “. Đã chắc gì hầu hết các tăng, ni đã thực hành ” thụ nhiều giới “, hay chỉ nói ở trên giấy tờ, ở trên miệng. Trên mạng, cùng báo chí trong và ngoài nước, đã bao phen đăng tải những tin ” phá giới ” của một số thầy tu.
Xuống tóc đi tu, mới biết vài câu kinh, vài tiếng kệ, chưa phải là những Tăng, Ni chân tu, mà đức hạnh đã làm gương cho nhân thế, mà trí tuệ đã phổ độ chúng sanh, thì đã tự cao tự đại, bắt phật tử phải gọi bằng thầy, bắt phật tử phải tự xưng là con. Tôi là một phật tử nhỏ bé, như đã trình trên, tôi đã nghe, tại Nice, một số linh mục trẻ tuổi, xưng con với chúng tôi là những người đã ngoài sáu, bảy mươi tuổi. Trong buổi nói chuyện tại Paris, ngày 15/04/2012, Linh Mục Nguyễn Văn Khải đã tự xưng con, xưng cháu với những người lớn tuổi.
Sự tu học của các tu sĩ trong Công Giáo, chắc cũng đòi hỏi những nỗ lực lớn lao, không thua kém gì so với sự tu học của các tu sĩ trong Phật Gíáo.
Thật là đáng tiếc cho một thầy tu, thay vì đem những lời dạy cao đẹp, bổ ích của Đức Thích-Ca, mà hiện nay, cả toàn thể thế giới đều tâm phục, khẩu phục, để làm lợi cho thế gian, thì lại bịa đặt viết chuyện tình tào lao, không có thật, để rồi, chẳng những phạm đến thanh danh của hai nhân vật lịch sử, mà dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, ngưỡng mộ, mà còn phạm đến các chốn Thiền Môn thanh tịnh, các vị Tăng Ni chân tu hiện nay; lại còn cao ngạo đối với Cha Mẹ Đẻ, đối với phật tử.
Hành động đó làm cho chúng ta phải suy nghĩ.
Nguyễn Vĩnh-Tráng.
Tiết Hạ chí, năm Con Rồng.
531 052 012 nvt*ttl*.
Dưới đây là tóm lược câu chuyện loan tải trên mạnh internet:
Chuyện nàng công chúa triều Nguyễn yêu đơn phương một nhà sư
Chuyện nàng công chúa triều Nguyễn là Hoàng nữ đệ tam công chúa Nguyễn
Thị Ngọc Anh yêu đơn phương một vị nhà sư – thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt –
sau được phong là Quốc sư – đã để lại nhiều huyền tích khiến người đời vừa
xúc động cảm thương nàng công chúa, vừa bội phục một vị chân tu đắc đạo.
Đi tìm sự thật về chuyện tình hoàng gia ngang trái
Ngày nay, dấu tích của mối tình có một không hai trong cung đình này vẫn
còn lại dấu ấn là di tích chùa Đại Giác, nó còn gắn với câu chuyện tình đơn
phương của nàng Công chúa nhà Nguyễn mà dân trong vùng ai cũng được nghe
kể, thậm chí là truyền tụng với nhiều tình tiết bí ẩn huyền hoặc.
“Thiên đường tình yêu” của nàng công chúa nhà Nguyễn ngày ngóng đêm mong
ấy chính là chùa Đại Giác, còn gọi là Đại Giác cổ tự, chùa Phật lớn hay
chùa Tượng, xưa kia thuộc thôn Bình Hoành xã Hiệp Hòa, tổng Trấn Biên, nay
là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Theo sách Thiền sư Việt Nam ghi chép rằng, Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt,
hiệu Liên Hoa là nhà sư đầu tiên ở miền Nam được phong Quốc sư vào những
năm cuối đời vì trốn tránh mối tình nhiệt huyết của nàng công chúa đã sống
ở ngôi chùa này. Theo tài liệu còn lưu tại Giáo hội Phật giáo TP. Biên Hòa
thì vào giữa thế kỷ 17 có ba nhà sư thuộc phái Lâm Tế tông, từ Đàng Trong
đến Đồng Nai hoằng hóa đạo Phật.
Nhà sư Thành Nhạc cùng một số phật tử đến vùng đất ven sông Đồng Nai (nay
là xã Bửu Hòa, TP. Biên Hòa) dựng lên chùa Long Thiền (1664); nhà sư Thành
Trí theo đoàn di dân làm nghề khai thác đá lên vùng núi Bửu Long cùng người
Hoa ở đây dựng lên Chùa Bửu Phong (1679). Còn nhà sư Thành Đẳng, cùng một
số người chèo ghe, thuyền đến Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa)
khẩn hoang và dựng lên chùa Đại Giác (1665).
Buổi đầu, chùa có kích thước nhỏ hẹp, được tạo dựng bằng cột gỗ, vách ván,
và lợp ngói âm dương. Thời Thiền sư Tổ ấn – Mật Hoằng trụ trì, Nguyễn Thị
Ngọc Anh, công chúa thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Ánh đã đến trú tại chùa và
từ đây như một mối tình với người đàn ông khoắc áo cà sa.
Còn theo Tạp chí Bulleetin des Amis Vieux Hue năm 1915 chép như sau: Công
chúa Ngọc Anh, chị vua (Minh Mạng) còn trẻ và tiết liệt. Khi Tây Sơn khởi
nghĩa đã đến tu ở chùa Đại Giác, giữ cuộc sống cô độc, trầm tư mặc tưởng và
tu hành hết sức sùng mộ. Nhớ ơn ngôi chùa đã che chở nàng công chúa trong
thời loạn lạc, đến năm Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) nguyên niên (1802) lên
ngôi, nhà vua sai quan trấn Trấn Biên cho binh thợ đến xây cất, đem tượng
binh đến chở đất và dặm nền chùa (nên sau này người dân còn gọi là chùa
Tượng).
Ngoài ra, nhà vua còn dâng cúng một pho tượng Phật A-di-đà bằng gỗ mít cao
2,25m (nên có tên là chùa Phật Lớn. Hiện tượng vẫn còn được thờ tại chùa),
ban y bát và sắc phong cho Thượng tọa Phật ý-Linh Nhạc làm Hòa thượng. Mãi
đến tháng 10 năm Minh Mạng nguyên niên (1820), nhà vua lại cho tu sửa chùa.
Vào thời gian gia cố lại ngôi cho có nhiều ân đứng với triều Nguyễn ấy thì
công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh (khi ấy đã trở lại Huế), cũng gửi vào cúng
một bức hoành phi lớn khắc ba chữ “Đại Giác Tự” thiếp vàng, bên mặt có
khắc: “Tiền Triều Hoàng nữ đệ tam công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh”, hiện vẫn
còn treo ở phía trước chánh điện.
Lúc đó, Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt thuộc phái thiền Lâm Tế, đời thứ 35
đang tu đạo tại chùa, vốn tư chất thông minh và phẩm hạnh nghiêm mật nên
được vua xuống sắc, triệu ra kinh đô Huế để giữ chức Tăng cang chùa Thiên
Mụ (1813-1823) và được cử làm pháp sư giảng thuyết Phật pháp trong nội cung
của vua Gia Long. Vốn Thiền sư là người tuấn tú, đức độ, oai nghiêm đĩnh
đạc, thông minh, có tài hùng biện và thuyết giảng Phật pháp rất hay nên
được đông đảo phật tử mến mộ.
Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung. Trong số đệ tử này có một vị
Hoàng cô Nguyễn Thị Ngọc Anh, đó là Thái trưởng công chúa Long Thành, chị
ruột chúa Nguyễn Phúc Ánh, cô ruột của vua Minh Mạng. Hoàng cô cũng quy y
và thọ Bồ Tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Trong những ngày theo
học đạo, Hoàng Cô đã thầm yêu nhà sư. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng
cũng như đức độ của Thiền sư nên Hoàng Cô đã có ý định và tìm mọi cách ràng
buộc duyên trần cùng với người con của Phật.
Bi kịch tình yêu nơi cửa thiền
Nhưng bi kịch là chuyện yêu đương giữa Hoàng cô và vị Quốc sư này đương
nhiên là không thể, nên Thiền sư đã chọn phương pháp “tránh duyên” bằng
cách xin về trụ trì chùa Từ Ân ở Gia Định.
Năm 1821, Hoà thượng Phật Ý-Linh Nhạc viên tịch, mượn cớ này, thiền sư
Thiệt Thành Liễu Đạt trở về chùa Từ Ân (Gia Định) chịu tang sư phụ rồi ở
lại luôn. Những tưởng tránh được nghiệp duyên, nào ngờ ở hoàng cung, Hoàng
Cô bỗng thấy thiếu vắng, nhung nhớ Thiền sư khôn nguôi. Thế rồi bà tìm cớ
xin phép vua vào Gia Định, gọi là để cúng dường chùa Từ Ân, nhưng thật ra
là để gặp Thiền sư cho thỏa lòng nhung nhớ.
Tháng mười, năm Quý Mùi (1823), Thiền sư đang uống trà đàm đạo ở chùa Sắc
Tứ Từ Ân, bỗng có tin báo Hoàng Cô vâng lệnh vua đến cúng dường chùa. Nhận
được tin, Thiền sư lo âu trong dạ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Thế rồi
Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt quyết định lánh mặt nên đã lên chùa Đại giác
ở Cù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất hai năm. Hoàng Cô ở chùa Từ Ân,
không thấy Thiền sư đến tiếp kiến, hỏi tăng chúng thì mọi người đều nói là
không biết thiền sư Liên Hoa ở đâu.
Không gặp được “người yêu”, tâm bịnh thêm nặng nên sức khỏe Hoàng Cô ngày
một sa sút trầm trọng. Sợ nguy hại cho bổn tự nên cuối cùng mọi người đành
tiết lộ sự thật. Được tin này, Hoàng Cô thông báo với quan trấn Gia Định là
mình lên chùa Đại Giác để cúng dường. Quan Tổng trấn cử phái đoàn hộ tống
Hoàng Cô lên chùa Đại Giác. Sau khi đến chùa dâng lễ cúng dường và nhờ đưa
đến tịnh thất của thiền sư Liên Hoa.
Hoàng cô với tâm thành kính đảnh lễ trước tịnh thất và xin gặp mặt Thiền
sư lần cuối trước khi hồi kinh. Thiền sư không trả lời. Hoàng cô suy nghĩ
kế khác, bèn quỳ trước cửa thất thưa rằng: “Nếu Hoà thượng không tiện ra
tiếp, xin Hoà thuợng cho con nhìn thấy bàn tay của Hòa thuợng, đệ tử cũng
hân hoan mà ra về”. Im lặng vài phút, Thiền sư đưa bàn tay ra cửa nhỏ nơi
đưa thức ăn vào thất, Hoàng cô vội ôm bàn tay hôn một cách trìu mến, rồi
sụp lạy xuống và khóc sướt mướt…
Quang cảnh chùa Đại Giác bây giờ
Tưởng rằng khi ôm hôn được bàn tay của Thiền sư thì mọi chuyện sẽ lắng
xuống. Nhưng không ngờ, ngay đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi
người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của Thiền sư phát hỏa, mọi người
chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cũng
cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của
thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện:
“THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần”.
Thiền sư Liên Hoa biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh nên đã dùng ngọn
lửa để thức tỉnh và giáo hóa Hoàng Cô.
Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp, nên ngọn lửa ấy đã không
đạt được kết quả như mong muốn. Sau khi làm lễ cúng thất tuần Hòa thượng
Liên Hoa xong, Hoàng Cô rất buồn bã và cho biết rằng bà sẽ ở lại chùa Đại
giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng ngay ngày hôm sau, Hoàng Cô
uống độc dược quyên sinh tại hậu liêu chùa Đại giác nhằm ngày mồng 2 tháng
11 năm Quý Mùi (1823). Hoàng cô công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh chết theo
Thiền sư để lại sự cảm động cho triều đình và nhân dân khắp vùng. Từ đó,
ngôi chùa trở nên nổi tiếng và được các đời vua nhà Nguyễn chăm sóc đặc
biệt.
Discussion about this post