CHÁNH NIỆM ĐẾN CHÂN NHƯ
(VÔ NIỆM, VÔ SANH? Phần 2)
Lê Sỹ Minh Tùng
Trong bài “vô niệm, vô sanh?” của phần trước, chữ vô niệm được hiểu
là chánh niệm để đưa hành giả về một trạng thái thức tỉnh toàn vẹn của tâm.
Trong kinh Niệm Xứ (Satipatthnasutta) Đức Phật dạy rằng:
–Này
các Tỳ kheo! Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt
khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh tri, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ.
Nhưng thế nào là
Tứ Niệm Xứ? Đức Phật dạy tiếp rằng:
–Này
các Tỳ kheo! Ở đây Tỳ kheo sống “quán thân” trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán thọ” trên các thọ, nhiệt tâm tỉnh giác; chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán tâm” trên tâm, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để
chế ngự tham ưu ở đời; sống “quán pháp” trên các pháp, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Nói chung trong
phần này Phật dạy chánh niệm để đối trị với những tâm hành sinh diệt, nhưng cốt
tủy vẫn đưa chúng sinh đến một cứu cánh tột đỉnh là thức tỉnh tức là “BIẾT”. Vậy
biết cái gì? Khi tâm tham phát khởi là biết có tham, không tham thì cũng biết
trong tâm không có tham. Sân và si cũng vậy. Nói cách khác khi lục căn tiếp xúc
với sắc thanh hương vị xúc pháp thì vọng tâm dấy khởi. Ở đây Đức Phật dạy chúng
sinh thực hành chánh niệm để biết rốt ráo tận cùng những biến đổi của tâm mà
không cần phải tiêu diệt chúng. Thí dụ thấy tiền nhiều tâm tham liền nổi dậy, nhưng
nếu có chánh niệm thì biết ngay sự hiện hữu hình thành trạng thái tham của tâm
cho nên tâm tham bây giờ không còn tác động hoành hành được nữa. Nói cách khác,
bất cứ một ý niệm vừa khởi lên, chánh niệm cho ta “biết” đó là vọng tưởng. Khi
đã biết bộ mặt thật của ý thức thì con người chỉ cần không theo vọng thì vọng tự
mất mà không cần phải tiêu diệt chúng. Nói cách khác, không theo vọng, vọng tự tiêu tan tức là mê biến thì
thời điểm đó giác tự hiển bày.
Vài
trò của Người tu Phật cũng giống như một vị tướng trấn giữ một cái thành có sáu
cửa (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý). Vị tướng giỏi là người lúc nào cũng thức
tỉnh sáng suốt (chánh niệm) để biết rõ ràng địch (vọng tưởng) xuất hiện ở cửa
thành nào (căn) và sức mạnh bao nhiêu (tham-sân-si). Khi giặc phiền não (vọng
tưởng) vừa dấy khởi, vị chủ tướng biết thì giặc không dám hoành hành, tự biến mất
mà không cần phải đánh đấm gì hết. Nói cách khác người có tỉnh thức, giữ vững
chánh niệm thì biết rằng vọng sinh rồi vọng tự diệt mà con người không cần phải
tác ý dụng công chi cả. Đã là “tri vọng” thì tại sao chúng ta chỉ quan tâm đến
vọng tâm mà không để ý đến vọng thân hay vọng khẩu? Vì vọng tâm che lấp trí tuệ
nên con người không biết rằng thân mình và các pháp bên ngoài không thật có.
Bây giờ biết thức tỉnh thì tất cả các pháp là do vọng tâm biến hiện cho nên trừ
được vọng tâm thì những kết quả của thân và khẩu tự nó biến mất.
Cốt tủy của giáo
lý Phật đà là tam vô lậu học tức là lấy Giới Định Tuệ làm gốc bởi vì giữ giới
nghiêm minh để tâm an tịnh thì sẽ sinh định. Có định thì tâm sáng suốt, trí tuệ
phát sinh. Khi tâm khai mở, trí tuệ phát chiếu thì tâm trở
thành an lạc thanh tịnh Niết bàn. Chính Giới Định Tuệ là chiếc thuyền êm ái và
là con đường độc nhất đưa hành giả từ bờ mê đến bến giác. Dựa theo tư tưởng Phật
giáo nguyên thủy, hành giả chỉ cần thực hành đứng đắn Tứ Niệm Xứ, nghiêm trì
Bát Chánh Đạo thì sẽ giải trừ tất cả các hoặc lậu mà trở thành bậc A la hán. Vì
thế vào thời Đức Phật, chư đệ tử thực hành nghiêm túc lời dạy của Phật nên có
hàng ngàn, hàng vạn vị vào hàng thánh quả, thoát ly sinh tử luân hồi.
Chính
bát chánh đạo là con đường giúp chúng sinh giải thoát ra khỏi vòng sinh tử cho nên
Đức Phật lại dạy rằng:
“Con đường cao thượng nhất là Bát chánh
đạo. Chân lý cao thượng nhất là Tứ Diệu Đế…Đó là con đường duy nhất, không còn
con đường nào khác dẫn đến kiến tịnh. Hãy đi theo con đường ấy để sớm thoát
khỏi mọi điên đảo của phiền não khổ đau”.
Chính
Đức Phật đã dạy Đại Đức Tu Bạt Đà La (Subhadda) trước khi Ngài nhập diệt:
“Không thể có được bậc Thánh Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán trong bất cứ một tôn giáo nào nếu không có Bát
chánh đạo. Nầy Tu Bạt Đà La, trong giáo lý nào có Bát chánh đạo thì tất có hàng
Thánh nhân. Ở đây, trong giáo lý của Như Lai lại có con đường Bát chánh, tất
nhiên phải có các bậc Thánh mà trong giáo lý khác không thể có được. Nếu chư đệ
tử sống chân chánh thì thế gian không thiếu Thánh nhân”.
Thêm nữa, dựa
theo duy thức luận thì khi ngủ không phải là đưa tâm thức vào chỗ vô niệm. Bởi
vì lúc chúng ta ngủ thì ngũ căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gần như không hoạt động,
nhưng ý căn vẫn tác động với pháp trần khiến tâm thức dấy động ngầm mà đôi khi
con người gọi là mộng. Sự hoạt động của ý thức trong trường hợp này gọi là độc
đầu ý thức tác động. Ngược lại khi chúng ta thức giấc, nếu mắt nhìn thấy vật gì
thì tâm biết là vật mà không biết đó là vật gì cho nên nhãn thức phải có ý thức
phân biết cộng vào thì con người mới thấy biết hiện tượng vật thể rõ ràng được.
Trong
Pháp Bảo Đàn kinh, Lục Tổ dạy rằng:
-Vô niệm là đối với niệm mà không niệm,
đối trên các cảnh mà tâm không nhiễm.
Ý
của Lục Tổ trong câu trên là khi đối diện với trần cấu thì giữ tâm đừng cho
dính mắc, đừng khởi ý niệm tham tức là thấy thì cái gì cũng thấy mà như không
thấy gì hết. Cái nghe, nếm, ngữi, biết…cũng vậy. Đây là thực hành đúng như huyễn
Tam-ma-đề của người vô tâm. Nói thế thì vô niệm chính là chánh niệm chớ là gì!
Lý tưởng của Phật giáo Nguyên thủy là lý tưởng giải
thoát Niết bàn. Còn lý tưởng Đại thừa thì họ quan niệm rằng Niết bàn không phải
là một lý tưởng tối cao mà thật ra lý tưởng tối cao phải là đạt đến Phật tánh
tức là tuệ giác siêu việt và đại từ bi.
Bây giờ hãy lắng nghe lời Bồ-tát Long Thọ viết
trong Luận Đại Trí Độ (Bát Nhã) rằng:
-Giới
hạnh là da, Thiền định là thịt, Trí tuệ là xương, Diệu tâm là tủy.
Ý
của Ngài thế nào?
Tuy
người tu Phật có giữ giới, nhưng không tu thiền định thì chỉ là người có đức
hạnh tốt cũng như là da vì tâm chưa an tịnh được. Ngược lại tu thiền định mà
không giữ giới thì như nấu cát mà muốn thành cơm. Bây giờ hành giả giữ giới
nghiêm minh, thiền định vững chắc để thấu biết luật vô thường, tánh duyên sinh
của tất cả vạn pháp là phần thịt bên trong. Lúc tâm trí bừng sáng thấu biết tận cùng, trí tuệ phát
sinh là phần xương, là cột trụ của con người. Tuy hành giả mặc dầu có trí tuệ
mà không thấu biết bản tâm, thấu rõ chơn tâm, Phật tánh thì chưa vào được phần
tủy, phần sống động của con người.
Vì
chỗ khác biệt này mà các phần tử bảo thủ của phái Nguyên thủy phủ nhận chính
thống kinh điển Đại thừa. Họ cho rằng đây là những tác phẩm “tưởng tượng”, một
loại fiction giống như Harry Potter, của triết gia Long Thọ. Họ còn xác định
rằng kinh Bát Nhã là do Long Thọ biến chế vào thế kỷ thứ hai sau dương lịch.
Chẳng những thế Nguyên Thủy cũng phủ nhận hệ tư tưởng của Vô Trước và Thế Thân
về chủ thuyết Mạt-na thức và A-lai-da-thức và đặc biệt là giáo lý tam thân
(Pháp thân, Báo thân và Ứng thân) về Đức Phật. Nguyên Thủy cho rằng Vô
Trước và Thế Thân đã giới thiệu hệ thống Phật giáo Thâm Mật, Du già mà trong đó
cốt tủy vẫn là các thuyết Phật tánh, Như Lai Tạng bản thể, A Đà Na thức, Yêm ma
la thức tức là Bạch Tịnh thức, Chân như thức và Như Lai tạng thức. Đó là những
tư tưởng được diễn bày trong Thập đại kinh luận và trong Phật tánh luận sau đó
vào trong kinh Thắng Mạn, Đại Thừa Niết Bàn, Lăng Già…Một nghi vấn khác là kinh
Hoa Nghiêm được Long Thọ xuống tận Long Cung đem về mà trong ngũ bộ kinh Nikayas
Nam Phạn không hề có dấu tích.
Trong hệ Phật giáo Nguyên
Thủy, Đức Phật lịch sử giảng pháp trong những hoàn cảnh xã hội bình thường,
những bài pháp thoại phản ảnh phong tục, tập quán và những tư tưởng dị biệt của
những tôn giáo cùng thời. Trong đó những hình ảnh thiên nhiên như núi rừng hùng
vĩ, mùa khô nước đổ, cây cỏ, chim bay, cá lặn…Đặc biệt từ người ăn xin, nhà tu
khổ hạnh, ông hoàng bà chúa, thương gia, phú hộ thậm chí những kẻ trộm cướp,
giết người ngay cả gái giang hồ thì ai ai cũng được Đức Phật thu nhận làm đệ
tử. Đây là một bức tranh sống động trong xã hội Ấn độ lúc bấy giờ. Ngược lại
trong kinh điển Đại thừa, hoàn cảnh phản ảnh lại nền văn hóa xứ Ấn độ bây giờ
chỉ còn là một bức tranh mờ nhạt. Đức Phật không còn là người khất sĩ, y bát
tầm thường xốc xết hay thuyết giảng cho những đệ tử bình thường trong cái xã
hội đầy bất công đau khổ. Ngược lại Đức Phật bây giờ uy nghi ngồi trên tòa sen,
hào quang sáng chói chiếu rọi đến vô vàn thế giới và chung quanh Ngài có hàng
ngàn hàng vạn Bồ-tát, chư Thiên đứng hầu. Khi Phật thuyết pháp, trái đất rung
chuyển, mưa hoa mạn đà la từ trời rơi xuống. Thật là thế giới đầy ánh sáng rực
rỡ, nhiệm mầu bí mật tuyệt đẹp không có bút mực nào diễn tả được. Thế giới quá
mầu nhiệm huyền bí vượt ngoài cái tâm nghĩ bình thường của con người nhất là
con người cách nay trên mấy ngàn năm mà có lẽ chỉ xảy ra trong các phim thần
thoại Harry Potter của nhà viết ảo tưởng J.K. Rowling ở Anh Quốc.
Theo
nguyên thủy thì Đức Phật là vị A la hán đầu tiên và sau đó có hàng ngàn vị A la
hán đắc đạo khác. Ngược lại Vô Trước giới thiệu Thập địa là cảnh giới Phật mà A
la hán chỉ là nửa đường (hóa thành) chứ chưa đạt đến cảnh giới bảo sở. Vì thế
Nguyên thủy cho rằng Đại thừa là giáo lý của chư Tổ chớ không phải của Đức
Phật.
Dựa
theo tư tưởng Đại thừa thì tâm không có ngằn mé, bao la vô cùng vô tận, hòa
đồng vào chân lý vũ trụ vì thế cái tâm này được hiểu là Như Lai Tạng bản thể.
Nó chứa đựng tất cả những chủng tử (hạt giống) để duyên khởi hình thành ra tất
cả hiện tượng vạn pháp trong thế giới có sinh có diệt này. Phật giáo Nguyên
thủy cho rằng thế gian vạn pháp là thật, tham sân si cũng thật nên phải canh
phòng cẩn mật. Ngược lại Đại thừa lý luận rằng tất cả vạn pháp có hình tướng
đều là giả dối không thật. “Có thật” là vì tâm người chấp chớ tự nó không có
chủ thể, không có tự tánh thì tuy có đó mà tự tánh vẫn là “không”. Thí dụ khi đi bộ thấy có vầng trăng soi bóng
xuống đáy nước ở bờ hồ. Nếu bóng trăng là thật thì tại sao ta không vớt nó lên
được, còn nếu nói không thì tại sao mắt ta thấy nó?
Tư
tưởng Đại thừa cho rằng tuy vạn pháp có kính thước nặng nhẹ khác nhau, màu sắc
khác nhau, tướng trạng khác nhau nhưng tất cả đều cùng có chung một thể tánh
thanh tịnh bản nguyên hằng giác. Thí dụ ra biển thấy sóng nổi từng đợt lên
xuống, nhưng dưới lòng đại dương nước biển vẫn yên lặng thanh tịnh như tờ. Sóng
là dụng của nước và nước yên lặng là thể của nước tức là thể và dụng cũng đều
do nước mà có bất tức bất ly nghĩa là sắc tức là không và không cũng chính là
sắc.
Tuy
nhiên, Thể tánh là vô hình nên làm sao đặt tên cho nó được vì thế mà trong kinh
Lăng Nghiêm, Đức Phật tạm gọi nó là chơn tâm. Kinh Pháp Hoa thì gọi là tri kiến
Phật, Phật tánh trong kinh Đại Niết Bàn, Trí huệ Phật trong kinh Hoa Nghiêm…thiền
tông gọi nó là “Bản lai diện mục”, Lục Tổ gọi nó là “Vô nhất vật”. Vì “không
một vật” nên cái Phật tánh này không hề bị khách trần phiền não làm ô nhiễm.
Con người vị chạy theo trần cảnh, sáu căn luôn dính mắc sáu trần nên quên đi
cái tánh giác, Phật tánh sáng suốt của mình. Nhưng tuy bị lãng quên tánh giác
vẫn luôn sáng soi chiếu rọi qua sáu căn mà con người không bao giờ để ý đến. Vì
thế nếu chúng sinh quay về hồi quang phản chiếu, soi sáng tự tánh để sống với
chơn tánh hằng sáng của mình thì vô minh tan biến, phiền não tiêu trừ.
Khi
Tổ Bồ-đề Đạt Ma vào Trung Hoa, Ngài dạy rằng:
“Trực
chỉ nhân tâm
Kiến
tánh thành Phật”
Nghĩa
là: Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật.
Vậy
tánh là gì? Và tại sao kiến tánh có một sức mạnh phi thường giúp người tu đạt
đến cứu cánh tối thượng là thành Phật? Phật giáo Nguyên thủy nói rằng chính Đức
Phật cũng phải trải qua ba a-tăng-kỳ-kiếp tu hành đến khi tự giác–giác tha,
giác hạnh viên mãn mới thành Phật mà Tổ Đạt Ma lại nói chỉ cần thấy tánh tức
thì thành Phật? Như vậy có trái với giáo lý Phật chăng?
Chữ kiến tánh mà
Tổ Bồ-đề nói ở đây là trực nhận được tánh Phật. Vì thế kiến thành thành Phật là
nhận ra Phật nhân của mình còn đến Phật quả thì dĩ nhiên cần phải trải qua bao
nhiêu đời, bao nhiêu kiếp tu nữa mới thành chớ không phải thấy tánh thì tức thì
thành Phật được. Tại sao? Bởi vì trong ta, tập khí ngã mạn, tham sân si kết
nhóm sâu dày nên không dễ gì một sớm một chiều mà nhỗ tận gốc được. Nếu thành
Phật thì tại sao chúng sinh không gọi Phật Đạt Ma hay Phật Huệ Năng mà lại gọi
là Tổ. Do vậy các Tổ tuy đã kiến tánh, nhưng cũng phải trải qua vô số kiếp tu
hành mới thành Phật quả. Đây có lẽ là yếu điểm của Đại thừa vì danh tự, triết
lý tuy rất hay,
phong phú, trừu tượng nhưng có giải thoát thì rất khó, rất hiếm bởi
vì cái kiến tánh ở đây thật ra cũng chỉ là văn tự bát nhã. Hành giả còn phải đi
sâu vào quán chiếu bát nhã thì mới hy vọng đạt được thật chứng bát nhã. Ngược lại
lối tu theo thiền nguyên thủy, hành giả luôn giữ chánh niệm loại bỏ ác pháp ly
dục, tận diệt tham-sân-si thì tâm dần dần đi tới chỗ thanh tịnh trở thành thánh
giả, lìa sanh tử ngay trong đời này. Vì thế người tu theo Đại thừa, tuy có nói
lìa thiện lìa ác, tâm trí rỗng rang, mà cái gốc tham-sân-si không nhỗ sạch,
tranh chấp vẫn còn nên khó trở về với “vô nhất vật” được. Tuy Lục Tổ nghe
câu:”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì Ngài liền ngộ đạo bởi vì tâm Ngài bình
thường không dính mắc. Không dính mắc có nghĩa là Ngài đã đốn tận gốc rễ của
tham-sân-si. Ngược lại chúng sinh lòng tham đắm sâu dầy, trong chấp ngã ngoài
chấp pháp, tranh chấp, đố kỵ không tan cho dù có kiến tánh thì con đường đến Phật
quả chắc có lẽ còn xa xôi mù mịt chắc gì đã đến được hóa thành nói chi là bảo sở.
Ngày xưa chính Tôn giả Ưu Bà Ly
chỉ chuyên trì giới mà trở thành A la hán vì thế giới luật có một giá trị tuyệt
đối trong đạo Phật. Ngày nay đạo Phật chao đảo chông chênh là vì con người chạy
theo hình tướng sinh diệt, xao lãng giới luật hay biến chế giới luật mà lạc mất
đường về. Ngày xưa Đức Phật không chú ý đến triết học, không cần giải thích viễn
vong, không đưa con người vào những thế giới vô định, ảo tưởng mà mục đích
chính của Ngài và đây cũng là tôn chỉ của đạo Phật là nhỗ mủi tên “khổ đau” của nhân loại. Đức Phật và các
bậc giải thoát vẫn sống, đi, đứng, nằm, ngồi trong cái thế giới có sinh có diệt
này, nhưng các Ngài có được thanh tịnh Niết bàn bởi vì các Ngài đã đoạn trừ tất
cả các lậu hoặc. Ngày xưa Đức Phật xuất thân là vị Thái tử quyền uy danh vọng
cao sang thế mà khi xuất gia thì Ngài bố thí tất cả để trở thành người khất sĩ.
Do đó triết lý cao thượng của đạo Phật là đi ngược lại với cuộc sống của thế
tình. Những gì thế gian xem là cao quý thì nhà Phật coi như cỏ rác. Còn những
gì mà thế nhân khó thực hành thì nhà Phật mới cho là cao quý. Sau mấy ngàn năm,
cây Bồ-đề thật sự lớn mạnh sanh đẻ ra nhiều cành nhiều lá. Lá Bồ-đề ngày nay lượn
bay và rớt vào trong tâm hồn của tất cả chúng sinh khắp mợi nơi trên thế giới.
Nếu là nhánh thật thì cao quý, hạnh phúc biết bao, ngược lại nếu là “nhánh
tháp” thì lá Bồ-đề có thể sẽ thành lá mù u, lá bàng đó.
Những gì Đức Phật
dạy phát xuất từ đời sống kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân vì thế Ngài dạy
chúng sinh những ý chí sắc đá, trí tuệ cao siêu, đức sống vị tha, sự thoát ly
và đặc biệt là sống đời gương mẫu làm lợi ích cho mình, cho người. Con người vĩ
đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt
đó của Đức Phật đã làm cho thế giới kính phục Ngài như một đạo sư siêu việt nhất
trong lịch sử nhân loại. Đạo Phật là đạo thực hành nên Đức Phật không dạy chúng
sinh những giáo lý ảo tưởng, hoang đường mà Ngài dạy những phương trình, những
công thức rất thực dụng để chúng sinh tùy theo căn cơ, sở nguyện của mỗi người
mà áp dụng để có thực chứng. Càng loại bỏ các lậu hoặc, các tập khí con người
càng an lạc mà không cần phải cầu nguyện, cúng tế chi cả. Đức Phật khi còn tại thế đã cực lực chống đối lối cúng tế nghi lễ
phức tạp của Bà la môn và tôn thờ thần thánh một cách mù quáng. Đó là một trong
những nguyên nhân đạo Phật ra đời để thổi một luồng sinh khí mới vào trong xã hội
phong kiến, đẳng cấp, kỳ thị của Ấn độ lúc bấy giờ. Ngài xiễn dương tình thần
khách quan bình đẳng vì ai cũng đều có máu đỏ và nước mắt cùng mặn cho nên thay
vì kỳ thị, xua đuổi con người nên gần lại với nhau, cùng nhau xoa dịu những
mãnh đời bất hạnh. Ngược lại ngày nay người đệ tử Phật thì chú trọng vào lễ
nghi rườm
rà, cúng tế, tin tưởng vào thần linh cầu nguyện. Đức Phật y
bát bình thường giản dị, ngược lại đệ tử của Ngài thì sặc sở, huy hoàng. Ngài đi
khất thực hằng ngày còn đệ tử thì cơm dâng nước cúng ngày ba bửa. Ngài tri túc thiểu dục còn đệ tử thì tiền muôn bạc vạn, tủ lạnh
đầy ấp cao lương,
mỹ vị. Ngài đi chân đất đầu đội trần còn đệ tử thì ô tô bóng lộng.
Ngài dùng thần thông để biết còn đệ tử thì có năm ba iPhone, iPad, iPod…Ngài sống
tỉnh mặc còn đệ tử thì mặc
tình múa hát với Tuấn Vủ. (http://www.youtube.com/watch?v=yfUbz_gy8xk) Ngài diệt
bản ngã còn đệ tử
hãnh diện là chùa tôi lớn hơn chùa thầy. Ngài nhỗ tận gốc rễ phong kiến, giai cấp
còn đệ tử thì xưng danh
Tăng thống, quốc sư. Ngài bỏ công danh phú quý như bỏ đôi dép rách, đệ tử thì
lượm đôi dép rách vào. Ngài dạy lục hòa còn đệ tử lập
nhiều giáo hội. Ngài dạy ngồi thiền tư duy tỉnh lự còn đệ tử tụng
niệm rình rang.
Đạo Phật không
có giáo điều bắt tín đồ phải sống chết bảo vệ. Đức Phật khai mở một tôn giáo
không thờ hình tượng mê tín mà là một tôn giáo lấy lý trí làm nền tảng, một tôn
giáo khoa học, một tôn giáo hòa bình vô ngã vị tha, một tôn giáo không cần giáo
hội thống nhất vì thống nhất thì tự nó đã ngầm chứa chia rẽ, phân ly rồi. Thí dụ hai người
có hai lý tưởng tu hành khác nhau, con đường giải thoát khác nhau, cứu cánh
giác ngộ cũng khác nhau, kẻ mặn người chay mà bây giờ kêu gọi thống nhất với
nhau. Vậy thống nhất cái gì? Có đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu thì mới
đồng tình được chứ.
Giáo lý Đức Phật
là đơn giản, không phức tạp, dễ áp dụng, nhưng thực hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề
thì không dễ đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly những
thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly những tham vọng đê
hèn, viễn
ly những ý nghĩ bất thiện…Càng viễn ly thì con người càng gần
với an lạc thanh tịnh Niết bàn. Do đó toàn bộ giáo lý Đức Phật chỉ là phương tiện
mà thực chứng chân lý mới là cứu cánh. Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì
Ngài thấy biết như thế, nếu Đức Phật là đấng thần linh thì Ngài chì cần niệm
“Úm ba di bát nhị hồng” rồi phảy cái phất trần thì thế gian làm gì còn đau khổ. Biết đời là bể khổ, con người lặn hụp trong biển trầm luân, nhưng chính
Ngài không thể hóa giải nỗi khổ của chúng sinh mà mỗi người phải tự mình giải
thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau mà giáo lý Đức Phật chính là tấm
hải đồ giúp chúng sinh đến được bờ an lạc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật
Lê Sỹ Minh Tùng
Bài viết liên quan:
VÔ NIỆM, VÔ SANH? – Lê Sỹ Minh Tùng
LỤC TỔ HUỆ NĂNG: PHÁP MÔN VÔ NIỆM Tâm Thái
THIỀN VÀ VÔ NIỆM (Cư Sĩ Nguyên Giác)
VÔ NIỆM KHÔNG PHẢI LÀ VÔ CHÁNH NIỆM – Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Discussion about this post