Chân dung DẤU ẤN NGHỆ THUẬT
Thích Nữ Huệ Trân
(Buổi trưa, Thứ Tư ngày 5 tháng 6 năm 2019, chúng tôi nhận được tin Hòa Thượng Thích Quảng Thanh, trụ trì Bảo Quang tự viện, thành phố Santa Ana, miền Nam California đã được các bác sỹ cho xuất viện về chùa để có những giây phút cuối trong không khí thiền môn, vì căn bệnh nan y đã đến giai đoạn cuối. Chư Tôn Đức và Phật tử khắp nơi, ai kịp nhận tin đều tới, cùng tụng kinh, niệm Phật.
Với lòng kính quý Hòa Thượng, tôi xin giới thiệu bài viết này để cùng chiêm ngưỡng chân dung một vị trưởng tử Như Lai đã cống hiến trọn đời trên con đường hoằng pháp bằng tài năng đa dạng qua những dấu ấn nghệ thuật)
TN Huệ Trân
Dấu Ấn Nghệ Thuật là tựa cuốn sách “nặng ký” mà HT Thích Quảng Thanh đã cho ra mắt trong đêm dạ tiệc ngày chủ nhật 21 tháng Một năm 2007 tại nhà hàng Sea Food Palace, thành phố Anaheim.
Với nghĩa đen, cuốn sách chỉ có 160 trang nhưng “khá nặng” vì toàn bộ được in giấy láng, dày, và khổ lớn.
Với nghĩa bóng, tác giả Dấu Ấn Nghệ Thuật đã thu gọn những thế giới của các bộ môn nghệ thuật như Nhiếp Ảnh, Thơ, Nhạc, Họa, Cây Kiểng …v… v… vào một điểm hội tụ được mang tên chung là Dấu Ấn Nghệ Thuật.
Tự thân, mỗi bộ môn nghệ thuật đã là chân trời mênh mông, vì nghệ thuật là sự khai phá của từng giây, từng phút trong tương quan của sự cảm nhận nhạy bén giữa những đối tượng. Không ai có thể thực sự cảm nhận hoàn toàn giống ai, dù cùng sống, cùng thở trong cùng một môi trường. Ấy thế mà Thượng Tọa Thích Quảng Thanh – còn được giới nghệ sỹ gọi bằng bút hiệu Thanh Trí Cao – đã cẩn thận chọn lọc để mỗi bộ môn trong Dấu Ấn Nghệ Thuật đều có được tiếng nói trung thực và biểu hiện được những nét đặc thù, tuyệt kỷ.
Với nhiều bộ môn được cô đọng trong cuốn sách, tôi không ngạc nhiên khi tác phẩm được giới thiệu đầu tiên là bài thơ Mẹ Là Phật, nhạc sỹ Võ Tá Hân phổ thành ca khúc. Hình ảnh đẹp nhất trong nhân gian là hình ảnh người Mẹ, nên với Thầy, là một tu sỹ xuất gia từ nhỏ, trong tâm Thầy, Mẹ chính là Phật.
Cẩn trọng giở tới trang kế là bức họa Tổ Bồ Đề Đạt Ma, đen trắng, Thầy minh họa năm 1989. Phật tử nào hay đi chùa cũng ít nhất một lần thấy chân dung vị Tổ này và không ai không biết rằng thần lực toát ra từ đôi mắt sâu thẳm của Ngài có thể làm thân tâm chúng ta rung động. Bức minh họa với đôi nét đơn sơ nhưng vũ bão, đã chuyên chở được sức mạnh thầm lặng của vị thiền sư chín năm diện bích.
Sự rung động nhẹ nhàng đi theo bài viết của các học giả, hành giả, được phiên dịch thêm Anh ngữ để cuốn sách được giới thiệu rộng rãi. Sau dăm bài viết, người đọc lại được thưởng thức những hình ảnh nghệ thuật, khi thì rực rỡ mầu sắc, khi thì thanh thoát nhẹ nhàng.
Tấm ảnh mang tên “Đón Nắng” là hình ảnh bông sen hồng vươn lên, vài hạt sương còn đọng trên cánh hoa, chứng tỏ nắng chưa lên cao nhưng sen đã nở và sẵn sàng đón nắng để mang cho không gian uế nhiễm, khói bụi này một chút hương vị thanh cao, trong sạch.
Nhìn bức ảnh bông sen này, tôi chợt nhớ tới lần, rất tình cờ, được chứng kiến Thầy “nắm bắt thời gian”. Đó là khi chúng tôi đang lo cúng thất tuần, cầu siêu cho mẫu thân. Tháng bẩy, hai hồ sen nhỏ trong vườn sau đã có những nụ sen vươn lên khỏi mặt nước. Chúng tôi thầm mong có kịp những bông sen đầu mùa để cúng Phật và cúng Mẹ trong thất tuần. Hoa đã không phụ lòng người nên một buổi lễ, tôi nâng niu những đóa sen hồng tới chùa, cắm trên bàn Phật, cắm trên bàn linh của Mẹ.
Trước giờ làm lễ, Thầy thường vào kiểm soát mọi việc xem có thiếu sót gì không. Bất ngờ, Thầy nhìn thấy bình hoa sen. Ánh mắt ngạc nhiên của Thầy khi ấy cho tôi biết là Thầy đang thầm hỏi “Hoa thật hay hoa giả?” Nhưng hương sen thơm ngát đang lan tỏa đã là câu trả lời. Thầy nhìn chúng tôi và hỏi:
– Cho Thầy mượn bình hoa một chút được không?
Chúng tôi cùng “Dạ” mà không biết Thầy mượn bình hoa để làm gì. Chưa tới giờ làm lễ nên tôi tò mò theo Thầy ra sân.
Ngoài sân, Thầy cũng có trồng sen nhưng chưa có bông! Thầy gọi ĐĐ Nhuận Hùng mau lên lầu cầm cái dù và bộ máy ảnh của Thầy xuống đây. Trong khi đó, Thầy nhanh nhẹn lấy bông sen ra khỏi bình thủy tinh, nghiêng đầu ngắm nghía tìm vị thế rồi cắm xuống hồ, bên những lá sen xanh mướt. Với sự khéo léo của một nghệ nhân, bông sen như vừa mọc lên, nở giữa hồ. Thật tuyệt vời! Thầy Nhuận Hùng là một phụ tá đắc lực (chắc đã quá quen vơi những công việc đột xuất thế này) nên thầy nhanh chóng mở dù (loại dù của các nhiếp ảnh gia dùng điều chỉnh ánh sáng chứ không phải dù quý Phật tử che mưa đâu). Rồi Thầy Quảng Thanh mở máy hình, ống kính thật bề thế. Thầy đứng, Thầy quỳ, Thầy nghiêng bên phải, nghiêng bên trái, có lúc, Thầy gần như nằm soài trên nền gạch để lấy được những góc cạnh đẹp nhất của bông sen. Vừa nhắm ống kính, Thầy vừa nhắc thầy Nhuận Hùng điều chỉnh cây dù để có những ánh sáng đúng nhất: “Giơ cao một chút! Bên này! Bên trái đó! Ờ, ờ được rồi! Bây giờ thấp xuống phía góc hồ! Đó! Đó! giữ yên nghe”
Tiếng bấm máy lách tách, liên tục, chưa đầy mười lăm phút, Thầy tuyên bố: “Xong rồi, chắc sẽ đẹp.”
Nói rồi, lại chính tay Thầy nhấc bông sen khỏi hồ, cắm lại vào lọ, mang vào bàn vong và kính cẩn để lại chỗ cũ.
Sau này, có dịp được đọc bài viết của Thầy trên tạp chí Trúc Lâm về nghệ thuật chụp hình mới biết đến danh từ “nắm bắt thời gian” quan trọng thế nào với người cầm máy, vì chỉ ở vệt nắng nào, ánh sáng nào thì cảnh kia mới đạt tới tiêu chuẩn nghệ thuật. Cho nên, sự công phu và kiên nhẫn của người cầm máy chính là thời gian “săn hình”, lúc nào và ở đâu thì cảnh trí và không gian giao cảm. Chính trong tác phẩm Dấu Ấn Nghệ Thuật.
Thầy chia xẻ là Thầy từng chờ đợi suốt một ngày để có tấm ảnh con chuồn chuồn đậu trên cánh sen đọng sương mà đám chuồn chuồn cứ nhởn nhơ bay mãi quanh cây đại thụ, Thầy xua chúng về hồ sen rồi chúng cũng lại bay tới đại thụ. Thầy chờ mãi, tới mức phải kêu lên “Bay mãi không mệt ư, hỡi đám chuồn chuồn kia? Còn ta, chắc bỏ cuộc vì ta … mệt quá rồi!”
Bẩy tấm ảnh Hoa Sen trong sách là bẩy sắc thái đặc thù của loài hoa được tiêu biểu cho sự thanh cao của Đạo Giác Ngộ. Từ tấm “Đón Nắng” tới tấm “Lạc Kiếp” đầy dấu nghệ thuật khi bối cảnh là một cánh sen lẻ loi vừa rơi rụng; nhưng tấm kế tiếp “Tiếp Nối” với bông sen nở lớn bên chiếc nụ vừa trồi khỏi mặt nước đã chuyên chở lý duyên sinh vô ngã, cái này ở trong cái kia, cái này diệt để cái kia sinh, nên diệt đó là chẳng diệt, như lá vàng rụng xuống lại thành đất nuôi cây để cây lại trổ muôn hoa, ngàn lá.
Hai tấm chụp gương sen, đối với tôi, cũng độc đáo quá! Tấm “Biểu Tượng” là gương sen còn mạnh mẽ, xanh mướt, trên đó có thể thấy bao nhiêu hạt sen ngọt ngào tiềm ẩn bên trong. Nhưng nhìn qua trang bên là tấm “Liên Hoa Tâm” thì gương sen đó đã héo khô, những hạt sen đã được lấy ra để nhân gian thưởng thức. Nơi ôm ấp hạt sen trước đây, nay huỗm sâu như hố mắt của chiếc đầu lâu!
Hình ảnh này có đáng ghê sợ không? Chắc là không, với những ai đã quán chiếu về thân tứ đại thì đây chỉ là những chuyển biến tất yếu của những gì không thật. Nhìn hình ảnh gương sen khô héo ta phải thấy được suốt chặng đường mà nó đã cống hiến trọn vẹn hương sắc cho đời, tới những hạt sen cũng là quà tặng ngọt ngào cuối cùng, nó đã hoan hỷ tặng nốt để chỉ còn nhận lại một danh hiệu đơn thuần nhất “Liên Hoa Tâm – The Pure Heart”
Cứ như thế, người đọc chậm rãi giở từng trang sách để lạc vào rừng nghệ thuật với hình chân dung vị đại lão Hòa Thượng còn chăm chỉ tìm kinh điển bằng Hán-tự để học hỏi, tấm “Độc Ẩm” khiến người xem như thấy hương trà thơm bay lên.
Qua tới nghệ thuật cây kiểng, chậu “Thác đổ” thật hùng vĩ. Chỉ một gốc thông già bị tiệm sinh trong chậu nhỏ nhưng quyết biểu lộ bản chất đại thụ qua hình ảnh những nhánh lá xanh thơm ào ạt nghiêng về một phía như thác đổ, khác hẳn chậu “Thuyền Đời” được uốn nắn mềm mại, nhánh nọ nương nhánh kia như kiếp nhân sinh, nếu mang Tâm Từ sẽ nương nhau mà sống hạnh phúc.
Chậu “Rừng Hoàng Kim” là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Chỉ trong một chậu Bonsai nhỏ mà người thưởng ngoạn thấy như đứng trước rừng thông già bát ngát! Rồi chậu “Văn Nhân”, chậu “Mẫu Tử” chậu “Thi Sỹ Độc Hành”, chậu “Nhớ Người Thiên Cổ” mỗi chậu đều được tận dụng nghệ thuật và kỹ thuật uốn nắn cây kiểng để tạo thành những tác phẩm độc đáo. Chậu “Thi Sỹ Độc Hành” thì dễ hiểu hơn vì trong chậu chỉ có một gốc cây khô, đã già lắm nhưng thân cây vẫn vươn mãi, vươn cao, rồi cũng phải đâm cành, trổ lá ở phần ngọn.
Tôi đã cười thầm, thán phục vì ông thi sỹ độc hành này không chỉ là thi sỹ mà còn phải là tráng sỹ mới dũng mãnh, quyết tâm đi một mình trên đường cằn sỏi đá như thế. Nhưng chậu “Nhớ Người Thiên Cổ” tôi ngắm một lúc mới nhận ra ý nghĩa. Chậu trưng bày một gốc lựu già, rất già, thân sần sùi, rễ trồi lên cả mặt đất. Vậy mà cái gốc, cái thân tưởng là không còn thể sinh hoa kết trái kia đang nuôi dưỡng những hoa sắp nở, những trái chín hồng. Điểm đặc biệt là những hoa, những trái đó đều đang cúi xuống nhìn gốc, như lòng biết ơn của hậu duệ với tiền nhân. Có phải vì thế mà chậu cây được đặt tên là “Nhớ Người Thiên Cổ”?
Thật tuyệt vời!
Với bàn tay nghệ nhân trên những chậu cây kiểng như thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên gì khi Thầy từng dạy rất nhiều lớp cắm hoa. Một bông hồng đặt vào một khúc gỗ có dáng dấp bàn tay là trở thành tác phẩm “Bàn Tay Kỳ Diệu”, mượn cảnh để nói lên ý nghĩa, những gì, dù đơn sơ, tầm thường nhưng ta biết trân quý thì cũng trở thành kỳ diệu.
Lọ hoa mang tên “Đạo Lực” cắm một cành đào mà những hoa đào đều ở phần dưới, những cành không hoa, không lá vẫn tiếp tục vươn cao về mọi hướng làm tôi nhớ đến phẩm “Phương Tiện” trong kinh Pháp Hoa. Chậu “Cánh Én Mùa Xuân” thì khác hẳn, nhìn là thấy mùa Xuân vui tươi đầy mầu sắc của trúc xanh, hoa tím hoa vàng, không cần phải suy nghĩ gì mà thấy ngay lòng mình rộn rã.
Bước vào bộ môn hội họa, nếu xem một cách vội vã thì thế giới mầu sắc này sẽ dẫn người xem tranh vào mê hồn trận. Vì sao? Vì mầu sắc Thầy dùng rất mạnh bạo. Từ tấm “Chân Dung Nghệ Sỹ”, “Trên Dòng Sinh Tử” tới “Chân Tâm”, “Nhân Sinh Quan”, “Ấn Tượng” thảy đều lấy những mầu sắc tương phản nhau để diễn đạt chủ đề.
Xen lẫn mầu sắc là âm thanh của Thơ và Nhạc. Cuốn sách giới thiệu những bài thơ Thầy chọn lọc và được các nhạc sỹ Võ Tá Hân, Nam Hưng, Hoàng Quang Huế phổ nhạc và một số nhạc đã được thực hiện thành CD.
Suốt tập sách Dấu Ấn Nghệ Thuật, độc giả liên tục được “đổi món”, nghĩa là, hết đọc thơ văn, lại được mời xem tranh, mời uống trà, hướng dẫn ra vườn ngắm cây kiểng, khi mỏi chân thì xin hãy nghỉ mệt, và âm thanh của Thơ Nhạc sẽ réo rắt ngân lên …. Tôi có viết gì nữa cũng cảm thấy không đủ. Xin mượn 4 câu thơ của Thầy Quảng Thanh-Thanh Trí Cao để kết thúc bài viết này:
“Hãy dừng lại, xin hãy dừng lại!
Bến bờ nào trên đỉnh hoang vu
Người qua đây một lần hạnh ngộ
Một tiếng cười trấn động thiên thu”
Mời quý vị tìm cuốn sách Dấu Ấn Nghệ Thuật của Thầy Quảng Thanh-Thanh Trí Cao để có một lần hạnh ngộ với thế giới nghệ thuậ
TN Huệ Trân
______________________________
Discussion about this post