Đức Phật trả lời dân Kalama – trích từ Kalama Sutta/tiếng Pali (tiếng Phạn Nam)
Ma anussavena : không nên tin những gì dù đã truyền đạt qua bao nhiêu đời (tạm dịch).
…
Ma Pitakasampadanena : không nên tin những gì dù đã được ghi nhận trong sách vở trước đây (tạm dịch).
…v.v…
Lời đức Phật trích từ Madhyamaka (Trung Luận) qua tiếng Pali (Malayasian) – Taapaac chedaac ca nikasat svarnam iva panditaih; Pariiksya bhiksavo graahyam madvaco na tu gauravaat : người khôn thử vàng (thật hay giả) bằng cách đốt, cắt hay chà (mài) – Này tỳ kheo – chỉ nên tin những lời này sau khi đã thử chúng chứ không chỉ vì tôn trọng (tạm dịch).
Bài viết ‘Bụt hay Phật? (phần 1)’ ghi lại hiện tượng dùng Bụt
hay Phật một cách tổng quát, và chứng minh rằng Bụt chính là âm cổ của Phật còn
duy trì trong ngôn ngữ dân gian của chúng ta. Phần 2 đi vào chi tiết cho thấy
khả năng từ đơn tiết Bụt có thể từ phương Nam (Việt Hán) nhập vào tiếng Hán,
sau đó trở thành Phật và từ Hán Việt/HV này nhập ngược lại tiếng Việt thời Đường
Tống cũng như đa số các từ HV khác. Hiện tượng nhập ngược này có thể giải thích
được phần nào qua các hoạt động dịch kinh Phật và sự hiện diện của các tăng sĩ
Thiên Trúc (‘Hồ’) tại Giao Chỉ vào thời bình minh của đạo Phật ở Đông Nam Á. Phần
này bổ túc cho phần 2 (gọi là phần 2A) cung cấp thêm các dữ kiện ngôn ngữ và
nêu ra các vết tích của dạng Bụt hay *buot/buoc trong tiếng Việt và láng giềng,
hi vọng thấy rõ thêm nguồn gốc phương Nam của từ đơn tiết Phật. Âm buộc của phất không phải là gượng ép mà thành vì chính
học giả Hứa Thận thời Đông Hán cũng đã gợi ý này về chữ phất弗 :
8318 臣鉉等曰:韋所以束枉戾也 (Thần huyễn đẳng viết : vi sở dĩ thúc uổng
lệ dã) – để ý thúc
là buộc lại
Có nhiều cách hiểu về ghi nhận trên của Hứa Thận: hoặc dựa
vào chữ vi (trái ngược) để dẫn đến một nghĩa rất trừu tượng là nghịch – ngược –
không (chẳng) hay trái ý (phất ý, phật ý, phật lòng, mất lòng); Hoặc dựa vào chữ
thúc để dẫn đến nghĩa cụ thể là bó (hai ‘thanh cây’ lại) hay buộc; Đây là một
hoạt động rất căn bản và thực tế trong xã hội nông nghiệp truyền thống, thể hiện
rất rõ nét khi nhìn nguồn gốc và cấu trúc của chữ phất . Tính chất cụ thể còn thể hiện qua
cách dùng bốc như lửa bốc lên, mùi bốc ra … so với phất
trong cách dùng cờ phất lên, làm ăn đã phất
… (Việt Nam Tự Điển, 1954). Phần này sẽ không đề cập tới những lấn cấn như
cách dùng Khổng Tử, Lão Tử so với Phật Tử, hay các từ đa tiết và đơn tiết của
các ngôn ngữ Trung Á so với tiếng Việt: đây là những đề tài liên hệ nhưng cần tìm
hiểu thêm để nhận ra chính xác hơn quá trình hình thành hiện tượng Bụt và Phật.
Người viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ Ngôn Ngữ Học, Phật Học … để người đọc
dễ cảm nhận phần này hơn, các chi tiết về tài liệu tham khảo được liệt kê để
các bạn có thể tra cứu thêm. Thanh điệu của một âm được ghi bằng số hay mẫu tự
(như F là Falling tone) và đứng sau chữ đó , so với cách ghi thanh điệu tiếng
Việt hay phiên âm (bính âm, pinyin) giọng Bắc Kinh/BK bây giờ. Các dữ kiện như
tiếng Thái, Lào, Hán Việt … sẽ không có trích dẫn nguồn (vì rất dễ kiểm tra lại)
so với những bài viết hay tài liệu ngôn ngữ đặc biệt hơn. Không nên lẫn lộn số
phụ chú đứng sau một chữ với cách ghi thanh điệu trong bài.
1. Giới thiệu tổng quát
Các tài liệu về quá trình truyền bá đạo Phật1 ở
Giao Chỉ cần được tra cứu thêm để hỗ trợ cho những dữ kiện ngôn ngữ, tuy nhiên
nhiều tác giả đã viết về chủ đề này rồi và không cần phải nhắc lại ở đây. Đương
nhiên là các dữ kiện khảo cổ (bia Võ Cảnh, di tích Phật ở Óc Eo …), lịch sử,
tôn giáo … phải ăn khớp với dữ kiện ngôn ngữ để tăng mức chính xác. Trọng tâm
của loạt bài ‘Bụt hay Phật?’ là giới thiệu các cách nhìn khác hơn như từ lăng
kính Ngữ Âm Học Lịch Sử và cấu trúc chữ Hán, hi vọng soi sáng được phần nào thời
kỳ phôi thai của đạo Phật ở Đông Nam Á. Hãy xem lại cấu trúc của chữ Phật 佛
: gồm có bộ nhân 人 hợp với chữ phất 弗. Chữ phất 弗được
dùng làm thành phần hài thanh rất thường gặp trong quá trình cấu tạo chữ Hán. Có
khoảng 55 chữ Hán có cấu trúc là các bộ thủ và chữ phất弗 (dựa vào Khang Hy). Tự điển Hán Việt có khoảng 10 chữ (dựa
vào tự điển HV của Thiều Chửu). Tuy nhiên hiện nay chỉ có khoảng vài chữ còn
thông dụng như Phật 佛, phí 費 hay 费
(phung phí), phất 沸 (phí – nước sôi), phất 拂 (bật,
phật – quét, trái) và các chữ này không có dạng giản thể. Ngày nay có các cách
đọc (theo pinyin, giọng Bắc Kinh) khác nhau như sau với âm phất (fu) vẫn chiếm đa số hay là hơn 50%
nguồn http://chinese-characters.org/contained/5/5F17.html
Trong các chữ Hán dùng chữ phất, chữ Phật佛rất
thường gặp với tần số dùng là 108885 trên 434717750 so với 费 phí
là 75589 trên 369369126, sau đó là phất
(quét, trái) với tần số dùng là 8247 trên 434717750 so với phất (phí – nước sôi)
là 5436 trên 434717750 – dữ kiện trích từ tự điển trên mạng http://www.chineselanguage.org/dictionaries/ccdict/
. Sau đây là các nghĩa và cách dùng của chữ phất:
1.1 Động từ
Nắn cho thẳng (Thuyết Văn : kiểu dã, 說文 : 矯也)
Trái lệnh (vi ảo : 違拗)
Không muốn (như phất thanh 違拗,
không muốn nói …)
1.2 Tính từ
Sôi (cũng như phí 沸)
Uất ức (cũnh như 怫 phật)
Không, chẳng (phủ định, như 不 phi,
cùng một gốc)
1.3 Danh từ
Bút (cây viết, cũng như 筆
bút)
Phất/Phật Lăng (bây giờ thường thấy dùng Pháp Lang 法 郎 ở TQ hơn īso với Phật Lăng, ‘frăng’ ở VN)
Phiên âm tiếng nước ngoài, tên riêng như 弗雷
Freyr (vị thánh trong thần thoại Norse), 西弗 Sievert (Sv, đơn vị
phóng xạ), 氟 (chất Flourine, ký hiệu F) 斯坦弗
(sītănfú, phiên âm Stanford) …v.v… Dùng chữ phất để ký âm là khuynh hướng
thường gặp hiện nay.
Đáng chú ý nhất là âm BÚT vẫn còn duy trì trong tiếng Việt2,
các cách đọc khác của BÚT là
粵語:bat1 Việt Ngữ :bat1 (Quảng Đông) so với bǐ,
giọng Bắc Kinh/BK bây giờ
客家話:[客英字典] bit7 [沙頭角腔]
bit7 [寶安腔]
bit7 [台灣四縣腔]
bit7 [梅縣腔]
bit7 [海陸豐腔]
bit7 [東莞腔]
bit7 [陸豐腔]
bit7 [客語拼音字彙]
bid5
Khách Gia thoại :[ Khách Anh tự điển ] bit7 [ sa đầu giác
khang ] bit7 [ Bảo An khang ] bit7 [Đài Loan tứ huyền khang ] bit7 [ Mai Huyền
khang ] bit7 [ Hải Lục phong khang ] bit7 [Đông Hoàn khang ] bit7 [ Lục Phong
khang ] bit7 [ Khách ngữ bính âm tự vị ] bid5 – so với phil (tiếng Hàn), fude
(tiếng Nhật/kun) và hitsu (hầu hoá phụ âm
môi đầu thành h, tiếng Nhật/on)
Bảng so sánh cho thấy tiếng Việt còn duy trì một âm thượng cổ
của phất弗là
BỤT so với Phật佛là BỤT, nhưng chiều ảnh hưởng là từ Hán sang Việt hay Việt
sang Hán? Bài viết phần 2 đã đưa ra khả năng ký âm BUỘC (ràng buộc) của chữ Phật,
phần này sẽ trình bày thêm một số dữ kiện ngôn ngữ phản ánh dạng *BUOC là từ
phương Nam chứ không phải có nguồn gốc là tiếng Hán (Cổ).
2. Các dạng ký âm phương Nam của tiếng Hán (Cổ)
Trong vốn từ Hán Cổ có các chữ có thể là ký âm của tiếng
phương Nam (Việt Cổ) nhưng vì không hợp với hệ thống âm thanh của nhóm cai trị
phương Bắc, vô tình hay cố ý, nên từ từ bị đào thải; Thí dụ như tên 12 con giáp
chẳng hạn (Tý, Sửu … Hợi), chúng không có liên hệ gì đến tên gọi 12 con vật
trong tiếng Hán nhưng lại rất tương ứng với tên gọi 12 con vật trong tiếng Việt
(nhánh Việt-Mường). Ta hãy khảo sát liên hệ của chữ Hán (Cổ) hiếm với tiếng Việt
về dạng *BUOC
2.1 Chữ rất hiếm phật 䞞 viết bằng bộ tẩu hợp với
chữ phất nghĩa là đi bộ, bước đi, nhảy … Trích Khang Hy :
䞞 [廣韻】符弗切【集韻】符勿切,音佛。【玉篇】走貌。【類篇】跳也。 又【集韻】芳未切,音費。義同
Phật [Quảng Vận ] phù phất thiết [ Tập Vận ] phù vật thiết ,
âm phật . [ Ngọc Thiên ] tẩu mạo . [ Loại thiên ] khiêu dã . Hựu [ Tập Vận ]
phương vị thiết , âm phí . Nghĩa đồng
So dạng bước với các ngôn ngữ láng giềng ta có bươk (tiếng
Aslian), pươk/pauk (Brou), prơk (Todrah), bôk (Bahnar), pước (Mường Bi)… Do
đó ta có thể phục nguyên một dạng âm cổ là *BUOC cho chữ phật 䞞 này. Dạng này rất phù hợp với dạng phục nguyên *BUOC hay
*BUOT/BUT của Phật đã ghi nhận ở phần 2 của loạt bài ‘Bụt hay Phật?’ (tóm tắt
là佛hàm
ý con người từ lúc sinh ra 人bị ràng buộc弗 – vừa ký âm bụt và vừa gợi ý giải thoát …). Chữ Nôm bước
dùng bộ túc hợp với chữ bắc hài thanh 足北như trong
‘… Quét trúc bước
qua lòng suối …’ (Nguyễn
Trãi, 8b)
‘… Chân chẳng bước đến
thành chợ …‘ (Truyền Kỳ Mạn
Lục, II, 37a)
…v.v…
Âm HV bắc 北 có dạng
âm cổ hơn là *pơk tương ứng với dạng *BUOC. Tiếng Mường Bi còn dùng pước môch (bước một), thàng nì nả mởi ti ản mẩy pước thơi (thằng
bé này chỉ mới đi được mấy bước thôi). Trong vốn từ Hán có chữ hiếm bát 㞈
(Tập Vận : bắc mạt thiết, âm bát – [集韻]: 北末切,音撥)
nghĩa là cẳng (chân) lớn, bước đi … Mà giọng Quảng Đông là but6, but3 cũng là
dấu vết của các dạng ký âm (dùng các chữ khác nhau) của cùng một gốc.
2.2 Một chữ hiếm nữa là 䢌 bát (giọng Quảng Đông
là but3) với thành phần hài thanh 巿
(đọc như phất):
䢌 bó BK but3 QĐ 廣韻】【集韻】北末切,音撥。【玉篇】急走也。【集韻】前頓也。又【集韻】普活切,音鏺。【廣雅】猝也。又蒲撥切,音跋。義同。又【說文】行貌。或作䟛𧺡𧺺 [Quảng vận ] [ Tập Vận ] bắc mạt thiết
, âm bát . [ Ngọc Thiên ] cấp tẩu dã . [ Tập Vận ] tiền đốn dã . Hựu [ Tập Vận
] phổ hoạt thiết , âm bát . [ Quảng Nhã ] thốt dã . Hựu bồ bát thiết , âm bạt .
Nghĩa đồng . Hựu [ thuyết văn ] hành mạo . Hoặc tác bát … Chữ này có nghĩa là
đi bộ, bước đi, chạy … Có thể là vết tích của âm cổ *BUOC (bước) cũng như chữ
hiếm 䟛
cùng có thành phần hài thanh là巿 (trích Khang Hy) – so với bạt
跋
…
䟛 bó bá BK bat8 QĐ 廣韻】【集韻】蒲撥切,音跋。【玉篇】急行貌。【類篇】行貌。一曰猝也。或作𧿳。 又【廣韻】方味切【集韻】方未切,音沸。義同。又【集韻】博蓋切,音貝。與䟺同。步行躐跋也
[Quảng Vận ] [ Tập Vận ] bồ bát thiết , âm bạt . [ Ngọc Thiên ] cấp hành mạo . [ Loại Thiên ]
hành mạo . Nhất viết thốt dã . Hoặc tác bát. Hựu [ Quảng Vận ] phương vị thiết [ Tập Vận ]
phương vị thiết , âm phí . Nghĩa đồng . Hựu [ tập vận ] bác cái thiết , âm bối
. Dữ bối đồng . Bộ hành liệp bạt dã
2.3 Một chữ hiếm khác là phất 柫 cũng có thành phần hài thanh là phất, theo Thuyết Văn Giải Tự
3678 柫,[敷勿切 ],擊禾連枷也。從木弗聲
3678 Phật/phất ,[ phu vật thiết ] , kích hòa liên gia dã .
Tòng mộc phất thanh
Phất 柫 nghĩa là một loại chày giã gạo (danh từ) hay đánh
(kích, động từ) mà tiếng Việt còn có dạng vụt như các cách dùng vụt gậy vào
lưng, vụt roi … So sánh với chữ bột 浡 cũng là vút. Theo thiển ý VỤT
tượng thanh có thể là một biến âm của BỤT (như vua-bua…).
2.4 Chữ hiếm phật 𢂀 viết bằng bộ cân nghĩa là khăn buộc tóc đáng chú ý – trích Khang Hy
[廣韻】【集韻】敷勿切。音拂。【玉篇】韜髮也
[Quảng Vận ] [ Tập Vận ] phu vật thiết . Âm phất . [ Ngọc
Thiên ] thao phát dã
Nếu phất mang nghĩa là không (phủ định) hay uất ức, bật (vụt,
vọt) lên … thì không có nghĩa, chỉ có ý nghĩa khi phất là ký âm buộc (âm cổ hơn)
của phương Nam : khăn buộc tóc tương ứng với định nghĩa của Ngọc Thiên
2.5 Alexandre de Rhodes trong tự điển Việt Bồ La/VBL (1651)
từng nhận ra rằng
“… THÍC CA
(Thích Ca) …. khi ông bỏ bà vợ sau một ít năm chung sống, rồi ông tự trở
thành BỤT tức là tượng thần …”
VBL dùng từ BỤT 10 lần so với 1 lần dùng từ Phật. Một nhận
xét khá thú vị là sau VBL khoảng 4 thế kỷ, lật một tự điển Việt (2009) ra xem
thì thấy chữ Phật dùng 5 lần so với chữ Bụt dùng 1 lần – tỷ số Bụt:Phật đảo ngược lại (không kể các thành ngữ ca
dao). Ngày nay ít nghe thấy trong khẩu ngữ từ Bụt mà chỉ còn vết tích trong vài
tiếng địa phương hay ca dao tục ngữ. Trước VBL 4 thế kỷ, Cư Trần Lạc (vua Trần
Nhân Tông) dùng từ BỤT 10 lần so với 1 lần dùng từ Phật (nhưng chỉ dùng từ kép
Phật Tổ 佛祖),
Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo dùng từ BỤT 2 lần (không dùng Phật), Vịnh Chùa Hoa
Yên dùng từ BỤT 3 lần và 1 lần dùng Phật (từ kép Phật quả 佛果),
Phú Dạy Con/Mạc Đĩnh Chi dùng từ BỤT 4 lần (không dùng Phật). Chữ Bụt trong các
tài liệu chữ Nôm dùng chữ Hán bột (sao chổi) 孛 hay bộ nhân hợp với chữ
bột 侼, bộ mộc hợp với chữ bột 桲 …
Các dạng này vẫn duy trì âm cổ của Phật là bột/ Bụt4. Cho đến năm
nay (2009), người viết có dịp xem qua một cuốn tự điển tiếng Việt thì thấy dùng
5 lần từ Phật so với 1 lần Bụt (tỷ số 5:1 so với 1:10 trong VBL).
Khuynh hướng trên cho thấy rõ ràng từ BỤT đã được dùng trước
thời Trần và chữ Phật đã từ từ thâm nhập vào tiếng Việt (cũng như đa số các từ
Hán Việt khác) và chiếm ưu thế cũng như đa số các từ HV khác.
2.6 Một âm trung cổ của phất là phí 費 phản
ánh qua từ phí HV (hao, tổn – Ngọc Thiên). Chữ này gồm có bộ bối (chỉ nghĩa,
tiêu dùng) và âm 弗 – theo Thuyết Văn Giải Tự :
費 : 𢿱財用也。从貝弗聲
(3955)
Phí : Tán tài dụng dã . Tòng bối phất thanh
Rõ ràng là phất còn có một cách đọc khác5 hơn là
phí, thuộc dạng *phi (hay *
phǝć) có nguồn gốc phương Bắc (liên hệ đến phi/bất 不).
Thời Đông Hán các chữ Phật, phất và phí đọc giống nhau. Phí là từ Hán Việt
(gốc Hán phương Bắc nhập vào tiếng Việt), tương phản với dạng *but của phất 弗
đến từ phương Nam (từ Việt Hán, gốc Việt nhập vào tiếng Hán cũng
như tên gọi 12 con giáp chỉ thú vật).
Các dữ kiên ngôn ngữ trên đều nói lên những hoạt động cụ thể
như buộc (lúa, rạ), bước, vụt … Phản ánh tư duy nông nghiệp phương Nam và rất
khác biệt với cách diễn dịch trừu tượng của phương Bắc. Bụt là từ phương Nam thể
hiện rõ nét qua các tài liệu bằng chữ Nôm trong giai đoạn phôi thai: tổng kết
các dữ kiện từ phần 1,2 và 2A lại và so sánh với lý luận của học giả Quý Tiễn
Lâm6dựa vào một số dạng but, pwt, bud … của các ngôn ngữ Trung Á,
ta thấy nguồn gốc phương Nam *BUT của từ Phật có cơ sở vững chắc; Nhất là khi
nhận ra tương quan của dạng *BUOC/*BUOT (ràng buộc, như trong cụm từ Tam Phọc –
Tam Căn/Độc là cội rễ ràng buộc của phiền não/Nhất Đề) và nguồn gốc cấu tạo chữ
phất弗.
Các con đường truyền bá của Phật giáo (trích
từ vi.wkipedia)
3. Các cách diễn dịch khác nhau của chữ Phật
Nếu không dựa vào chức năng hài thanh của chữ Hán3
như đã bàn bên trên, ta có thể suy diễn nghĩa của chữ Phật bằng nhiều cách và
có khi cho ra những kết luận ngược với nhau hay những lấn cấn khó hiểu:
3.1 Theo truyền thuyết thì ngài Huyền Trang7giải
thích chữ Phật 佛gồm bộ nhân人hợp với chữ phất弗
(phất có một nghĩa là chẳng, không) hàm ý Phật Tổ là người giác ngộ, hay hiểu
được Tánh Không (Phật Tánh) – một khái niệm cơ bản của đạo Phật. Nhưng nếu xem
chữ phí hay phất 沸 và dựa vào nghĩa của phất (không) thì chữ này hàm ý
không có nước (bộ thuỷ) hay khô cạn … Suy diễn như vậy là sai vì chữ phất ở
đây là hài thanh, tượng thanh : hàm ý âm thanh của bọt nước sôi lên, hay vọt
ra. Tương tự như vậy, hãy xem chữ hiếm phất 𩖼 viết
bằng bộ phong hợp với chữ phất : nếu suy diễn dựa vào nghĩa của phất (không)
thì chữ này hàm ý không gió, tạnh gió … Thật ra nghĩa của chữ này lại là gió
thoảng (gió phớt/phất qua – light breeze) như ghi nhận của [Ngọc Thiên] phất :
phong dã [玉篇] 𩖼 :
風也
hay trước nữa ở [Tiểu Nhã]: phiêu phong phất phất [小雅]:飄風弗弗.
Đây là một nhược điểm của loại chữ (Hán) hội ý: có khả năng tán rộng ra đến những
kết quả hoàn toàn trái ngược với nhau. GS William G. Boltz hoàn toàn phủ nhận cấu
trúc hội ý này, cho rằng khả năng hài thanh đã mất đi hay không còn ai (hay tài
liệu) nhớ cách đọc cổ nữa (thời kỳ hình thành chữ Hán). Thí dụ như chữ an 安,
thường được dẫn là loại chữ hội ý: gồm bộ miên 宀
(nóc nhà) hợp với chữ nữ 女 (con gái), thành ra hàm ý an (lành, con gái ở trong
nhà). Thật ra âm an/yên có thể hiện diện trong các chữ 妟 (yến,
yên lặng),奻 (noan, cãi cọ) và 姦
(gian, ác) – xem chi tiết trang http://en.wikipedia.org/wiki/Chinese_character
3.2 Một cao đệ của ngài Huyền Trang là Khuy Cơ, trong sách Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (q. 6), còn
nhận xét rằng ‘Phạn văn Bột Đà, ngọa lược
vân Phật’! Thật ra dạng Bụt biến thành Phật là chẳng có sai gì cả – đây chỉ
là biến âm tự nhiên của tiếng nói theo dòng thời gian/lịch đại; Trong ngữ hệ Ấn
Âu biến âm b > ph chính là một phần của định luật âm thanh Grimm : đây là chủ
đề của bài 1 “Bụt hay Phật?”. Thường thì rất khó nhận ra các dạng âm
cổ vì sự khác biệt quá lớn của âm thanh qua một thời gian dài, nhất là các dữ
kiện ngôn ngữ lại không được dồi dào (dễ kiểm tra lại) như ngày nay và không kể
đến tâm lý tự tôn hay tự ti của con người.
3.3 Những cách lý giải khác từ góc độ văn hoá ‘truyền thống’
Trung Quốc/TQ như
3.3.1 Bộ nhân và chữ phất (không) : (Phật) không phải là người
thường, cũng hàm ý đắc đạo (giác ngộ)8 …
弗即“不是” … 不是凡人,也不是常人,更不是俗人 …
phất tức “bất thị” … bất thị phàm nhân, dã bất
thị thường nhân, canh bất thị tục nhân …
3.3.2 Một Thiên Sư TQ
nổi tiếng (宣化上人 Tuyên Hoá Thượng Nhân) lại diễn giải tiếng Phạn
buddha có âm giống như bu da (bất đại 不大) nghĩa là không lớn – nên Phật
Tổ là không lớn không nhỏ, không đến không đi …v.v… Xem thêm chi tiết trang
3.3.3 Một ‘đỉnh cao’
của khả năng diễn dịch (và ‘xoá’ hẳn cấu trúc hài thanh hay chức năng ký âm của
chữ Phật 佛)
là chữ Phật gồm có các chữ cung 弓 (xuyên qua, bao quát) các chữ
丿(nét
viết về phía trái, biểu tượng cho phái tà) và 丨(nét
viết thẳng đứng, biểu tượng cho phái chánh) – hàm ý khắc phục các gian nan dù là
người tà hay chánh để trở thành người giác ngộ hay Phật … Xem thêm các tài liệu
gần đây về những trao đổi giữa học giả nổi tiếng của TQ, Lý Thổ Sanh 李土生và cố học giả Quý Tiện/ Tiễn Lâm 季羨林, về cách giải thích
này (phương thức tượng tư duy)9.
Tóm lại, ta có cơ sở để nêu lên khả năng từ đơn tiết Bụt (âm
cổ của Phật) có thể nhập vào tiếng Hán từ phương Nam; Giọng Quảng Đông cũng có
âm Bụt (but6), như bột 脖 (cái cổ) bánh bột 餑 …
Nhưng để chỉ cái bát (chén/trản HV), gốc tiếng Phạn patra पात्र, giọng Quảng Đông10 cũng là
but6, but3 so với tiếng Việt bát gần với âm Phạn nguyên thuỷ hơn cũng như là Bụt
so với Buddha बुद्ध : Bụt và bát là các
dạng đơn âm hoá cho hợp với hệ thống âm thanh tiếng Việt. Thành ra nguồn gốc
‘phương Nam’ là gần với tiếng Việt hơn cả.
4. Phụ chú và phê bình thêm
Để cho liên tục, người đọc nên tham khảo các bài viết ‘Bụt
hay Phật?’ phần 1 và 2 – như trên mạng http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/270809-buthayphat-1.htm
, http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/170909-buthayphat-2.htm
hay http://dongtac.net/spip.php?article3034
, http://dongtac.net/spip.php?article3081
…v.v…
Hay tra cứu thêm bài viết của các tác giả khác như Nguyễn Trọng
Phu, Phan Mạnh Lương, Huỳnh Ngọc Chiến … Hay các diễn đàn, bài báo – xin được
liệt kê ở đây để người đọc tiện tra cứu thêm:
– “Từ Buddha đến Bụt và Phật” tác giả Huỳnh Ngọc
Chiến hay xem trên mạng http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=2621
– “Bụt hay Phật” tác giả Phạm Mạnh Lương – Tạp Chí
“Thế kỷ 21” số 129 (1/2000) hay xem trên mạng http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat.htm
– “Bụt hay Phật” tác giả Nguyễn Trọng Phu – Tạp
Chí “Thế kỷ 21” số 123 (7/1999)
– “Danh Từ Bụt” – Sư Cô Chơn Không (Lá Thư Làng
Mai Số 25 12/2/2002) – đăng trên mạng Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-buthayphat-02.htm
– Hoa vô ưu (tập 9) “Ông Phật hay ông Bụt” (Hoà
Thượng Thích Thanh Từ, 2002) hay xem trên mạng http://www.thuong-chieu.org/uni/KinhSachThiKe/PhoThong/HoaVoUu9/Html/04.htm
– “Phật” trên mạng vi.wikipedia địa chỉ http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt
– Các lời bàn về “Lý do vì sao
không sửa chữ PHẬT thành BỤT” hay xem trên mạng Đặc Trưng http://dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=424540&mpage=1&key=񧩜
– Bài viết về “Phật hay Bụt” xem trên mạng http://profiles.yahoo.com/blog/5PQLDPGDVHLTTJJIRWUT72RUDY?eid=.oHZLcBgnnuYZ1ctEYXMLXZhVGGloWTFdQ7DqMD3iAQdAPg9mg
– Vài ý kiến của tác giả Lê Anh Minh và Huệ Thiên đăng trên
báo (23/7/2007) http://www.sggp.org.vn/saigonthubay/2007/7/111914/
– Ý kiến của các bạn đọc về cách gọi Bụt hay Phật (cách đây
8 năm) trên mạng http://giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/ykienbandoc-buthayphat.htm
– Các trao đổi trên diễn đàn Viện
Việt Học http://www.viethoc.org/phorum/read.php?15,43638,43771,quote=1
…v.v…
1) xem lịch sử truyền bá đạo Phật ở Việt Nam trên mạng http://www.daophatngaynay.com/english/vietnam/country/005-VietnameseBuddhism.htm
; Học giả Lê Mạnh Thát cũng đề nghị Phật giáo đã đến Việt Nam khoảng thế kỷ thứ
III hay thế kỷ thứ II trước công nguyên – xem thêm tài liệu trên mạng http://old.thuvienhoasen.org/u-lspgvn1.htm
; Tác giả Nguyễn Lang thì cho rằng khoảng đầu công nguyên thì Phật giáo đến Việt
Nam (trung tâm Luy Lâu) – xem chi tiết trên mạng http://old.thuvienhoasen.org/vnphatgiaosuluan1-01.htm
, http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Ph%E1%BA%ADt_Vi%E1%BB%87t_Nam,
“Lịch sử Phật giáo Việt Nam” Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) – NXB Khoa Học
Xã Hội (Hà Nội, 1991), hay “Phật Giáo tại Việt Nam” tác giả Thích
Nguyên Tạng trên mạng http://www.daophatngaynay.com/viet/pgvn/su/001-pgvn1.htm
hay tác giả Thích Mật Thể http://www.tangthuphathoc.com/suphatgiao/lichsuphatgiaovn-01.htm
, hay bài viết của tác giả Quang Lâm (2009) trên mạng Phật giáo bắt đầu truyền bá vào Việt Nam như thế
nào? …v.v…
2) tiếng Hàn còn có dạng put (chỉ cây viết lông hay cọ sơn,
vẽ) so với dạng phil. Tuy nhiên buộc là mukta (tiếng Hàn) lại khác hẳn. Một điểm quan trọng là Hứa Thận (trong Thuyết Văn Giải Tự/TVGT,
khoảng 100 SCN) đã ghi nhận các nhận xét về cách dùng chữ bút như sau
1930 聿部: 聿:所以書也。楚謂之聿,吳謂之不律,燕謂之弗。從𦘒一聲。凡聿之屬皆從聿
1930 Duật bộ : duật : sở dĩ thư dã
. Sở vị chi duật , Ngô vị chi bất luật , Yến vị chi phất . Tòng niếp nhất thanh
. Phàm duật chi thuộc giai tòng duật
Như vậy là vào thời Hán, có nhiều cách đọc (và cách viết) chữ
BÚT聿 tuỳ theo địa phương so với dạng筆bây
giờ. Thật ra 筆âm Hán trung cổ là [廣韻】鄙密切【韻會】逼密切【正韻】壁吉切,音必 [Quảng Vận ] bỉ mật thiết [ Vận Hội ] bức mật thiết [ Chánh
Vận ] bích cát thiết , âm tất … Theo hệ thống âm thanh Hán Việt (âm Hán trung
cổ); Nhưng tiếng Việt vẫn giữ dạng BÚT. An Nam Dịch Ngữ phiên âm bút và vuốt
(*BUOT) bằng âm HV bác 剝 (bō BK, *pok, bóc).
3) Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN) có 82% thành phần hài
thanh, so với Từ điển Khang Hy (1716) có khoảng 97% (có tài liệu đề nghị 90%) thành
phần hài thanh; Vốn từ hài thanh càng ngày càng tăng trong các tự điển TQ gần
đây, nhất là với các dạng giản thể – trích từ cuốn “The Chinese Language:
Fact and Fantasy” (University of Hawai’i Press, 1984) của GS John
DeFrancis:
Principle (cấu trúc) |
Oracle Giáp văn (nhà Thương) |
Xu Shen Hứa Thận (TK 2) |
Zheng Trịnh Tiều (TK 12) |
Kang Xi Khang Hy (TK 18) |
Pictographic (tượng hình) |
227 (23%) |
364 (4%) |
608 (3%) |
|
Simple (chỉ sự đơn) |
20 (2%) |
125 (1%) |
107 (1%) |
|
Compound (chỉ sự phức) |
396 (41%) |
1,167 (13%) |
740 (3%) |
|
Semantic- (hài thanh) |
334 (34%) |
7,697 (82%) |
21,810 (93%) |
47,141 (97%) |
Total (tổng số chữ) |
977 |
9,353 |
23,265 |
48,641 |
4) Bột 孛là âm Hán trung
cổ (còn duy trì qua âm HV và Quảng Đông but6) có thể đọc là phất 茀
(phu vật thiết, theo Khang Hy). Giọng Bắc Kinh bây giờ là bèi hay bó (pinyin).
Bột nghĩa là sao chổi, nóng (bừng) mặt … Nhưng còn một nghĩa rất xưa là những
gì nghiền hay tán nhỏ thành như bột gạo, bột nếp … phản ánh qua tục ngữ
“có bột mới gột nên hồ” … Tiếng Trung (Quốc) hiện nay dùng các từ
như phấn 粉,
đan 丹,
sa 沙
… để chỉ bột chứ không còn dùng từ bột này nữa. Trong vốn từ Hán có chữ bột 𥹸 viết bằng
bộ mễ :
𥹸 [集韻】薄沒切,音孛。屑米也
Bột [Tập Vận ] bạc một thiết , âm bột . Tiết mễ dã (gạo xay,
nhỏ hạt)
So sánh với các ngôn ngữ láng giềng bột (bôt, Mường Bi), pu-ột
(Nùng), h-poh, h-boh, b-bôt (Môn), bột (Lào), bột (Thái – ผัด phatL : nghiền nhỏ,
tra phấn). Chữ hiếm bột 餑 trong vốn từ Hán , tần số dùng là 15 trên
171894734, có nghĩa là bánh (bánh bột) mà giọng Quảng Đông là but3, giọng Hẹ là
p’ut8 cũng cho thấy nguồn gốc phương Nam của bột (Bụt).
5) Theo tự điển tầm nguyên trên mạng http://starling.rinet.ru/cgi-bin/response.cgi?single=1&basename=datachinabigchina&text_recno=2779&root=config
do cố GS người Nga Sergio Starostin khởi
xướng (1998). Tiếc rằng ông là một nhà ngôn ngữ học đầu tiên đề nghị Bụt là dạng
mượn cổ hơn (older loanword, tiếng Hán Cổ) so với Phật mà không phân tách cặn kẽ
các dạng khác như bút (viết) 筆, hay nghiên cứu sâu xa hơn về
cấu trúc cổ đại (triện văn, kim văn, giáp văn) của chữ phất 弗 … Mà chỉ so sánh sơ lược vỏ ngữ âm rồi đi đến kết luận như
trên (rất dễ kết luận như vậy khi so sánh tiếng Hán và tiếng Việt). Các nhà
ngôn ngữ (Hán học) khác như GS Axel Schuessler (“ABC Etymological Dictionary of
Old Chinese” 2007), William Baxter (*pjut, 1992), E. G. Pulleyblank (EMC,
1991), W. South Coblin (ONWC), E. Pulleyblank, B. Karkgren … đều khá nhất trí
với dạng cổ *but (*put) của Phật nhưng không đi
đến kết luận như Starostin.
6) Xem thêm toàn văn bài viết “Phù Đồ dữ Phật” 浮屠与佛
của học giả Quý Tiện/Tiễn Lâm 季羨林
trên mạng
新浪文化讀書 > 散文隨筆 > 季羨林佛學硏究經典:佛
> 浮屠與佛 Tân lãng văn hóa độc thư > tản văn tùy bút
> Quý Tiện Lâm Phật học nghiên cứu kinh điển : Phật > Phù Đồ dữ Phật
http://vip.book.sina.com.cn/book/chapter_60473_42199.html
7) cách giải thích của ngài Huyền Trang được đăng trên trang
mạng Thư Viện Hoa Sen, và tác giả Phan Mạnh Lương nhắc lại trong bài viết ‘Bụt
hay Phật?’. Người viết vẫn còn tra cứu thêm về nguồn gốc chính xác của cách lý
giải này. Một điều cần nhắc ở đây là ngài Huyền Trang/HT không phải là người đầu
tiên sáng tác ra chữ Phật 佛 như một số tác giả đã lầm tưởng!
Ngài HT đã phát triển khái niệm ‘Phật’ và đóng góp rất lớn vào công trình phiên
dịch kinh Phật từ tiếng Phạn. Thời HT có nhiều trường phái và tranh cãi lẫn
nhau về giáo lý của đức Phật, dựa vào một số kinh đã dịch từ trước, trong đó có
thể một số đã xuất phát từ Giao Chỉ phản ánh qua âm BỤT chẳng hạn. Một trường hợp
đáng chú ý là khả năng ký âm (chỉ là gần đúng) của tiếng Hán, như phất 弗 dùng để ghi âm Phạn Sariputra शारिपुत्र (Phạn Nam/Pali là Sariputta, Phất/putra nghĩa
tiếng Phạn là con trai) Xá Lị Phất 舍利弗 cũng như Buddha बुद्ध
là Phật Đà 佛陀. Xá Lị Phất còn là Xá Lị Phất Đa hay cách dịch mới
(đơn âm hoá putra) là Xá Lị Phất Đa La, Xá Lị Bổ Đát La … Ngài HT thì dịch (ý
và âm) là Xá Lị Tử 舍利子 (Phạn + Hán), điều này
nói lên phần nào các lấn cấn trong dạng phất hay Phật đã dùng trước thời HT. Các cách dịch khác là Thu Lộ Tử 鶖鹭子
hay 秋露子,
Thân Tử 身子
(dạng xưa hơn) … vì khả năng tiếng Phạn rút gọn Sari- có nhiều nghĩa khác nhau:
nếu là giản lược từ của sarira शरीर,
cách dịch mới là Thiết Lị La/Thất Li La …, hay là xương và tro thân cốt của
Phật (sau khi hoả táng) hay tinh tuý của các bậc chân tu. Nếu là viết tắt của
sarika शारिका, thì có nghĩa là một loại
chim két ở Ấn Độ (có khả năng nói, hùng biện nên còn gọi là Bách Thiệt/trăm lưỡi)
còn Thu Lộ là phiên âm gần đúng của Sari-. Lại có cách giải thích chim sarika
là loài bồ nông Ấn Độ có cặp mắt rất tinh … Đây cũng chính là tên mẹ của ngài
Xá Lị Phất nên theo Pháp Hoa Huyền Tán thì ngài đã có tài biện luận từ mẹ vậy. Phạm
trù nghĩa của Xá Lị đã không rõ ràng ngay cả trong tiếng Phạn, do đó khi phiên
âm (âm dịch) và phiên nghĩa (ý dịch) thì khả năng diễn đạt chính xác rất khó đạt
được. Một liên hệ khá dễ nhận ra khi phân tách các cách ký âm tiếng Phạn bằng
chữ Hán trên là dạng *BUT (trong tiếng Phạn Sariputra) là âm cổ hơn của phất, tương ứng với BỤT (trong tiếng Phạn Buddha)
là âm cổ hơn của Phật. Nếu dùng tử 子thay
cho phất弗như
ngài HT thì liên hệ này khó phát hiện hơn.
8) Cách giải thích Phật thường gặp trong các tài liệu TQ:
將“佛”字解構,人弗也。“弗”是象形字,按其甲骨文字形看,中僩像兩個不平直之物,上以繩索束縛,使之平直。其本義爲“矯枉”,《說文》徐灝注:“弗……凡弛弓,則以兩弓相背而縛之,以正枉戾,所謂矯也。”爲人要做到矯枉而不過正,使理智、情感和能力都同時達到最圓滿境地,所以,“佛”就是覺者,覺悟的人,是大智、大悲與大能的人。…v.v…
Tương ” Phật ” tự giải cấu , nhân phất dã . ”
Phất ” thị tượng hình tự , án kỳ giáp cốt văn tự hình khán , trung gian tượng
lưỡng cá bất bình trực chi vật , thượng dĩ thằng tác thúc phược , sử chi bình
trực . Kỳ bổn nghĩa vi ” kiểu uổng ” , ” Thuyết Văn ” Từ Hạo
chú : ” phất … phàm thỉ cung , tắc dĩ lưỡng cung tương bội nhi phược chi
, dĩ chánh uổng lệ , sở vị kiểu dã . ” Vi nhân yếu tố đáo kiểu uổng nhi bất
quá chánh , sử lý trí , tình cảm hòa năng lực đô đồng thời đạt đáo tối viên mãn
cảnh địa , sở dĩ , ” Phật ” tựu thị giác giả , giác ngộ đích nhân ,
thị đại trí , đại bi dữ đại năng đích nhân …v.v…
9) xem chi tiết trên mạng http://www.dyrb.com.cn/Article/hmzk/fczg/200907/24392.html hay http://www.sinology.cn/wkgx/thread-178840-1-1.html …v.v…
10) Thí dụ như trong vốn từ Hán có chữ bát 撥 bō fā giọng BK, but6 but2 put3 but3 giọng Quảng Đông – một dạng
âm thượng cổ là *puat (so với *buot/buoc) nhưng nghĩa lại trái ngược với nghĩa
phương Nam : phát ra, gẫy (chiết) … so với buộc
lại, giữ lại … Đây là hàm ý sâu sắc của chữ Phật (bộ nhân và âm buộc – gợi
ý đã là con người thì bị các mối ràng buộc/tam phọc).
粵語:but6 put3
Việt ngữ :but6 put3 (giọng Quảng Đông)
客家話:[梅縣腔] bat8 bat7 [台灣四縣腔]
pat7 bat7 [客英字典] pat7 [陸豐腔] pat7 [東莞腔]
pat7 [寶安腔]
pat7 | pat8 [客語拼音字彙] bad5 [海陸豐腔] pat7 bat7
Khách Gia thoại :[ Mai huyền khang ] bat8 bat7 [Đài Loan tứ
huyền khang ] pat7 bat7 [ Khách anh tự điển ] pat7 [ Lục phong khang ] pat7 [Đông
Hoàn khang ] pat7 [ Bảo An khang ] pat7 | pat8 [ Khách ngữ bính âm tự vị ] bad5
[ Hải lục phong khang ] pat7 bat7
Trích từ http://www.zdic.net/zd/zi/ZdicE6Zdic92ZdicA5.htm
Điều này hỗ trợ cho dạng Bụt (Phật) nhập vào tiếng Hán (Cổ) qua
trung gian tiếng Việt (Nam) chứ không phải từ tiếng Việt Quảng Đông!
Discussion about this post